Phan so da dinh – Lam Vinh The

Tôi sinh năm Tân Tỵ (1941) và năm nay là năm Đinh Dậu (2025) tôi đã được 84 tuổi.  Cũng như moi người, cuộc đời tôi cũng đã trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, thăng trầm, có được có mất.  Với tuổi “bát tuần” này, tôi nhìn lại và thấy rõ là mọi việc đã xảy ra đều do sự sắp đặt của Ơn Trên, và với sự dìu dắt vô hình của Ơn Trên, tôi đã hết sức phấn đấu và không bao giờ bỏ cuộc.  Bài viết này cố gắng ghi lại những sự việc mà, ở tuổi 84 này, tôi vẫn còn nhớ được khá đầy đủ. 

Học Hành và Thi Cử

Ba Mẹ tôi sinh được 8 người con và tôi là con út.  Bốn người con lớn đều đã mất sớm, phần lớn đều trước khi Mẹ tôi sinh ra tôi.  Sau khi Ba tôi mất vào đầu năm 1948, trong nhà chỉ còn lại Mẹ và 4 chị em tôi là Chị Hai Lâm Nguyệt Anh (1933-2015), Chị Ba Lâm Nguyệt Phương (1936-), Anh Tư Lâm Vĩnh-Tế (1939-2000), và tôi Lâm Vĩnh-Thế:

Hình Mẹ và bốn chị em tôi – Hàng đầu: Mẹ tôi với Anh Tế (bên phải) và tôi
Hàng sau: Chị Anh (bên phải) và Chị Phương (bên trái) – Ảnh chụp khoảng giữa thập niên 1950

Tôi đã cố gắng rất nhiều để theo gương học giỏi của các anh chị, và với sự độ trì của Ơn Trên, tôi đã học hành có kết quả rất tốt và tôi đã thi đậu tất cả các kỳ thi lấy văn bằng của hai bậc Tiểu Học và Trung Học:

• Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học: Khóa ngày 19-6-1950

• Bằng Tiểu Học: Khóa ngày 22-6-1953

• Bằng Trung Hoc Đệ Nhứt Cấp: Khóa ngày 6-6-1957

• Bắng Tú Tài 1: Năm 1959

• Bằng Tú Tài 2: Năm 1960

Và tôi cũng đã thi đậu cả 2 kỳ thi tuyển rất khó khăn:

• Thi tuyển vào lớp đệ thất của Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký vào Hè 1953

• Thi tuyển vào năm thứ nhứt, Ban Sử Địa, Khóa 3 (1960-1963), Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ĐHSPSG) vào Hè 1960

Công Tác Tại Việt Nam

Dạy Học

Sau 3 năm học, tôi đã tốt nghiệp khóa 3, Ban Sử Địa, Trường ĐHSPSG vào tháng 4 năm 1963, với Hạng Bình Thứ, và được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm vào ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Câp, giảng dạy môn Sử Địa, cho các lớp Trung Học Đệ Nhị Cấp, chuẩn bị đi thi các bằng TúTái 1 và Tú Tài 2:

Chứng Chỉ Tốt Nghiệp ĐHSPSG – GS Khoa Trưởng Bùi Xuân Bào ký ngày 24-4-1963

Nhiệm sở đầu tiên trong cuộc đời đi dạy học của tôi là Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa (Bến Tre).  Tôi đã dạy học tại đây 3 năm liên tiếp (1963-1966) và tháng 9-1966 tôi được Bộ Giáo Dục thuyên chuyển về phục vụ tại Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức (KMTĐ).  Chính tại ngôi trường tân tiến này, do một sự tình cờ của định mệnh, hay nói đúng hơn là do một sự sắp xếp của Ơn Trên, tôi đã chuyển sang làm công tác thư viện, và nhờ vậy tôi đã có được cơ hội đi du học tại Hoa Kỳ trong hai năm, và có được một sự nghiệp đáng kể trong ngành thư viện học.

Làm Công Tác Thư Viện

Việc chuyển sang làm công tác thư viện bắt đầu vào một buổi sáng trong năm học 1970-1971.  Đó là một ngã rẻ rất bất ngờ và đầy may mắn trong đời tôi.[1] Rõ ràng đây cũng là do Ơn Trên sắp xếp, hoàn toàn vượt ra ngoài sự tính toán, sắp xếp của cá nhân tôi.  Vào giờ nghỉ buổi sáng hôm đó, tôi vào Thư Viện của Trường KMTĐ để chúc mừng một người bạn: Anh Nguyễn Ứng Long, lúc đó là Thư Viện Trưởng của Trường, vừa được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bổ nhiệm vào chức vụ Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia. Tôi thành tâm nghĩ rằng anh xứng đáng với chức vụ đó vì anh là một trong những người Việt Nam đầu tiên, vào năm 1965, đã đậu bằng Cao Học về Thư Viện Học (Master of Library Science – MLS) từ trường đại học Peabody College, thuộc Viện Đại Học Vanderbilt, (Peabody College of Library Science, Vanderbilt University), tiểu bang Tennessee. Hoa Kỳ.

Anh Long và tôi – Ảnh chụp tại nhà Anh Long, Paris, Hè 2009

Sau khi chúc mừng anh và trò chuyện được một lúc, đột nhiên anh Long đề nghi tôi vào thư viện thay anh để anh có thể yên tâm đi nhận nhiệm vụ mới.  Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn không hiểu tại sao tôi nhận lời anh ngay, không một chút do dự, đắn đo.  Độ hơn một tháng sau, Hiệu Trưởng Trường KMTĐ, Giáo Sư Phạm Văn Quảng (tốt nghiệp Cao Hoc Giáo Dục = Master of Education từ Đại Học Ohio, Hoa Kỳ năm 1965) cử tôi dự một khóa huấn luyện căn bản về thư viện học tại Sài Gòn do Cơ Quan Phát Triển Thư Viện (Library Development Authority – LDA), một đơn vị của Cơ Quan ViệnTrợ Hoa Kỳ (United States Agency for International Development – USAID) tổ chức, kéo dài trong 3 tuần lễ.  Người đứng đầu LDA là Ông Cố Vấn John Lee Hafenrichter (mà sau đó chúng tôi quen gọi là Ông Haf) đã lên viếng Trường KMTĐ nhiều lần và hài lòng với công tác của tôi trong thư viện, và ông đã đề nghị và được USAID chấp thuân cấp cho tôi một học bổng đi du học Hoa Kỳ trong 2 năm (1971-1973) để lấy bằng MLS tai Trường Thư Viện Học của Viện Đại Học Syracuse (School of Library Science, Syracuse University = SLSSU).

Du Học Tại Hoa Kỳ

Trong hai năm theo hoc tại SLSSU, giáo sư hướng dẫn (academic advisor) mà cũng là giáo sư chính của tôi là Giáo Sư Pauline Atherton (về sau lập gia đình với Giáo Sư John Cochrane bà đổi tên lại là Pauline A. Cochrane). 

Ảnh Giáo Sư Pauline A. Cochrane chụp khoảng sau năm 2000

Tôi đã học tất cả 3 giáo trình với bà (trong 12 giáo trình cần thiết để lấy bằng MLS):

• LSC 503: Organization of Information Resources

• LSC 630: Advanced Topics in Organization of Information Resources

• LSC 998: Readings and Research in Library Science

Trong hai năm (1971-1973), tôi đã hoàn tất 12 giáo trình, đại đa số đạt điểm A (9/12) của bậc Cao Học, và tốt nghiệp vào cuối tháng 5-1973 với bằng Cao Học về Thư Viện Học (Master of Library Science = MLS):

Bảng Điểm (Transcript) do Phòng Học Vụ (Registrar) của SLSSU cung cấp.

Bằng Master of Library Science (MLS) của Đại Học Syracuse, New York, Hoa Kỳ

Thành Quả Tại Việt Nam

Về nước, đầu năm 1974, tôi đã ra ứng cử và đã đắc cử chức vụ Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam (HTVVN), và sau đó được Viện Đại Học Vạn Hanh cử nhiệm làm Trưởng Ban, Ban Thư Viện Học, thuộc Phân Khoa Văn Hoc và Khoa Học Nhân Văn. 

Cùng với Ban Chấp Hành HTVVN gồm toàn những anh chị em trẻ, tốt nghiệp từ các trường thư viện học của Mỹ và Úc, tôi đã giúp HTVVN tạo được những thành tích đáng kể, và, vì vậy, tôi đã được các hội đoàn văn hóa tư bầu vào Hội Đồng Văn Hóa GiaoDuc (HĐVHGD), một cơ quan hiến định do chính Phó Tổng Thống VNCH (lúc đó là Cụ Trần Văn Hương) làm Chủ Tịch.  Tại phiên hop khoáng đại đầu tiên của nhiệm kỳ 2 (1974-1978) của HĐVHGD, tôi được bầu vào chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Đại Chúng, 1 trong 8 ủy ban của HĐVHGD.

Tai Đại Học Vạn Hạnh, cùng với các góp ý của các bạn trong Ban Chấp Hành HTVVN, tôi đã đề nghị và được Hội Đồng Viện chấp thuận chương trình huấn luyện Cử Nhân Thư Viện Học, và đã thực hiện được học kỳ đầu tiên (từ tháng 9-1974 đến tháng 1-1975).  Học kỳ 2, dự định kéo dài từ tháng 2-1975 đến tháng 6-1975, chưa được hoàn tất vì biến cố bi thảm của ngày 30-4-1975.

Mọi việc đang được tiến hành rất thuận lợi và tốt đẹp thì biến cố bi thảm của ngày 30-4-1975 ập đến và tất cả đã bị xóa sạch.  Tôi đã phải trải qua 6 năm dài dưới chế độ Cộng Sản cho đến khi được Anh Tư tôi, Tiến Sĩ Lâm Vĩnh-Tế (1939-2000), Giáo Sư Trưởng Ban Hóa Học của CEGEP (Centre d’enseignement général et professionnel) Bois-de-Boulogne, tại Montréal bảo lãnh di dân sang Canada.  Gia đinh nhỏ của tôi, gồm 2 vợ chồng tôi và 2 đứa con trai, Dũng 17 tuổi, và Trung, 5 tuổi, đã đăt chân xuống Phi Trường Mirabel, Montréal, vào buổi chiều ngày 23-9-1981.

Công Tác Tại Canada

Làm Lao Động Tại Montréal       

Mặc dù được sự giúp đỡ rất tận tình của Anh Tư tôi, và đã gởi đi khoảng gần 80 đơn xin việc đến các thư viện trong tỉnh bang Quebec, tôi đã không được nơi nào nhận cả, ngay cả việc mời đến phỏng vấn (interview) cũng không có.  Tôi đành phải chấp nhận làm một công việc lao động khuân vác làm ca đêm, từ 4 giờ chiều đến 12 giờ khuya,  trong một kho hàng ở Montréal, với mức lương tối thiểu (minimum wage) là 4,25 đô la Canada một giờ.

Liện hệ thầy-trò giữa Ân Sư Atherton và tôi đã không chấm dứt vào tháng 5-1973 mà sẽ còn kéo dài hơn nửa thế kỷ cho đến khi Bà mãn phần vào ngày 29-7-2024.  Trong suốt thời gian này, Bà đã luôn luôn giữ liên lạc với tôi, lo lắng và giúp đở cho tôi, ngay cả trong thời gian tôi còn bị kẹt lại tại Việt Nam sau ngày 30-4-1975.  Tháng 10-1981, chỉ 2 tuần lễ sau khi tôi đến định cư tại Canada, Bà đã gọi điện thoại sang thăm tôi, và ngay lập tức giúp tôi (đóng học phí cho tôi, giới thiêu tôi với Giáo Sư Khoa Trưởng và Giáo Sư John Leidi), đi học trở lại tại Trường Thư Viện Hoc của Viện Đai Học McGill tại Montréal (School of Library Science, McGill University).  Tôi đã vừa làm lao động ca đêm toàn thời gian (full-time, 8 giờ một ngày) trong một kho hàng vừa theo học Giáo Trình Computerized Cataloguing do Giáo Sư John Leidi giàng dạy, mỗi tuần 2 buổi, vào trưa Thứ Hai và Thứ Tư, từ 1:00 đến 2:30 giờ.  Ngay buổi học đầu tiên, Giáo Sư Leidi đã đi xuống tận bàn tôi ngồi, bắt tay đôi và gọi tôi là “Big Brother = Đại Sư Hynh.”  Thì ra John là người Mỹ, cũng là cựu sinh viên của SLSSU và cũng là học trò của Ân Sư, nhưng học sau tôi nhiều năm, sau khi đậu Tiến Sĩ = PhD, John đã sang Canada day học.

Công Tác Thư Viện Đầu Tiên Tại Canada

Công việc làm chuyên môn về thư viện đầu tiên tại Canada của tôi, một công việc làm hợp đồng (contract job), thời gian là đúng một năm (từ 1-4-1982 đến 31-3-1983), cho Thư Viện Trung Ương của Bộ Canh Nông Canada (Central Library, Agriculture Canada) tại thủ đô Ottawa, là do công ty tìm việc làm Sharon Professional Services (SPS) giới thiệu.  Tôi được việc làm này hoàn toàn là do tác động của danh tiếng và uy tín của Ân Sư tại Bắc Mỹ:

• Ân Sư đã viết cho tôi một thư giới thiệu (reference letter) rất ấn tượng, trong đó có một câu như sau: “He was, without doubt, one of the top ten or twenty students I have had in twenty-five years of teaching.” (xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Không còn nghi ngờ gì nữa hết, anh ấy đã là môt trong mười hay hai mươi sinh viên giỏi nhất trong hai mươi lăm dạy học của tôi”).

• Bà Joyce MacKintosh, Phó Giám Đốc, Thư Viện Trung Ương của Bộ Canh Nông Canada, người có trách nhiệm phỏng vấn (interview) tôi, một chuyên gia về thư viện của Canada, lại là một người rất ngưỡng mộ Ân Sư.

• Bà Renée Staples, Trưởng Phòng Nhân Viên (Manager, Human Resources Department) của SPS, ngươi đã chọn tôi và đưa tôi đến Thư Viện của Bộ Canh Nông để được phỏng vấn, là một người Mỹ, vì lập gia đình với Ông Richard Staples, người Canada, nên đã sang Canada sinh sống và làm việc, lại là một người sinh trưởng tại thành phố Syracuse và cũng là một cựu sinh viên của Đại Học Syracuse, nên tự nhiên có cảm tình với tôi vì tôi cũng là cựu sinh viên Đại Học Syracuse, và do đó đã chọn tôi, mặc dù lúc đó tôi hoàn toàn không có một chút kinh nghiệm nào cả về công tác thư viện tại Bắc Mỹ nói chung và tại Canada nói riêng.

Sau khi chấm dứt công việc làm hợp đồng một năm này và không tìm được viêc làm khác, tôi phải làm làm đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp (Unemployment Insurance = UI).  Sau đó lại là một thời gian khoảng hơn một năm cũng làm các công việc hợp đồng với thư viện của Tối Cao Pháp Viện Canada (Supreme Court of Canada), và thư viện của hai bộ của chính phủ liên bang Canada là Bộ Sắc Tộc và Bắc Vụ (Department of Indian and Northern Affairs), và Bộ Tư Pháp (Department of the Sollicitor-General).

Công Tác Tại CCOHS (1984-1992)

Tình trạng đó chỉ chấm dứt vào ngày 23-8-1984 khi tôi nhận được công việc làm thường trực và toàn thời gian (permanent and full-time job) tại một cơ quan liên bang ở Hmilton.  Chuyên may mắn này, chăc chắn cũng là do Ơn Trên sắp đặt cho tôi, diễn ra như sau:

“Mới làm việc được vài tuần tại Bộ Tư Pháp, vào khoảng đầu tháng 7-1984, một hôm đọc báo The Globe and Mail, tờ nhật báo lớn nhất của Canada, tôi thấy một cơ quan liên bang tại thành phố Hamilton, cũng thuộc tỉnh bang Ontario, tên tiếng Anh là Canadian Centre for Occupational Health and Safety (viết tắt là CCOHS; xin tạm dịch là Trung Tâm Canada về Sức Khỏe và An Toàn Lao Động), đăng một quảng cáo thật lớn cho biết họ cần tuyển dụng cùng một lúc 5 chức vụ (một chuyện rất ít khi xảy ra) cho bộ phận Documentation Services của họ như sau:

              Manager, Online Catalogue

             Inventory Cataloguer

             Canadiana Cataloguer

             Subject Cataloguer

             Physical Hazards Information Scientist

Tôi gởi đơn ngay xin được tuyển dụng vào chức vụ Inventory Cataloguer.  Ngày 7-8-1984, tôi nhận được văn thư của CCOHS mời tôi đến trụ sở của cơ quan ở Hamilton để được phỏng vấn vào ngày 15-8-1984.  Ngày 23-8-1984, CCOHS gửi văn thư chính thức báo tin là họ nhận tôi làm Inventory Cataloguer cho Documentation Services với lương năm là 27.491 đô la.  Đây là một công việc toàn thời gian, thường trực, với rất nhiều quyền lợi giống như một công chức của chính phủ liên bang Canada.  Không còn nghi ngờ gì nữa cả, tôi đã thật sự được Canada chính thức công nhận là một chuyên viên về thông tin thư viện.”[2]

Sau khi làm việc được khoảng 8 tháng, CCOHS lại mở lại cuộc thi tuyển chức vụ Manager, Online Catalolgue mà năm trước họ đã không tuyển được.  Tôi nộp đơn xin dự thi, và mọi việc đã diễn ra thật tốt đẹp như sau:

“Tôi chính thức bắt đầu làm việc tại CCOHS vào ngày 17-9-1984.  Tám tháng sau, vào đầu tháng 4-1985, CCOHS lại đăng báo mở lại cuộc thi tuyển chức vụ Trưởng Ban Thư Mục Trực Tuyến (Manager, Online Catalogue) mà năm trước họ đã không tuyển được.  Lần này, tôi đã nộp đơn xin dự thi, được phỏng vấn vào ngày Thứ Hai, 10-6-1985, và ngày 14-6-1985, tôi nhận được văn thư của CCOHS báo tin cho hay tôi đã trúng tuyển, và ngày 24-6-1985 tôi chính thức bắt đầu nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Thư Mục Trực Tuyến này.”[3]

Tôi đã giữ chức vụ Manager, Online Catalogue này được hơn 7 năm.  Đây là một công việc thường trực (permanent), toàn thời gin (full-time), lương cao (high-salary job), cuối năm 1991, lương năm của tôi đã lên đên trên 70.000 đô la Canada).  Nhờ vậy tôi đã mua được nhà.  Tôi cứ tưởng là sẽ có thể làm cho đến ngày nghỉ hưu.  Nhưng quả đúng như Ông Bà mình thường dạy con cháu: “chuyện trên đời khó mà biết trước được.”

CCOHS được thành lập do đạo luật The Canadian Centre for Occupational Health and Safety Act được Quốc Hội Canada thông qua vào năm 1978 lúc do Đảng Tự Do (Liberal Party of Canada = Parti liberal du Canada) nắm đa số.  CCOHS luôn luôn ủng hộ giới lao động đại diện bởi các nghiệp đoàn.  Bây giờ là năm 1992, Đảng Bảo Thủ (Conservative Party of Canada = Parti conservateur du Canada) đã thắng và chiếm được đa số tại Quốc Hội.  Đảng Bảo Thủ ủng hộ phe chủ nhân và chống lại các nghiệp đoàn, và, vì vậy họ tìm cách phá hoại CCOHS.  Hành động đầu tiên của họ là cách chức ngay lập tức Tiến Sĩ Gordon Atherley, President của CCOHS, một chuyên gia về an toàn lao động nổi tiếng khắp thế giới và để thay thế ông họ cử một ông tướng đã về hưu, Trung Tướng(tướng 3 sao) Arthur St.-Aubin, một ngươi hoàn toàn không có một chút kinh nghiệm nào cả về an toàn lao động.  Lúc bấy giờ CCOHS đã sản xuất được các CD-ROM, gọi là CCINFOdisc, bán ra khắp thế giới và thu được hằng năm khoảng 5 triệu đô la.  St.-Aubin ra lệnh cho cácvị Giám Đốc (Directors, đưng đầu các Directorate của CCOHS) phải tăng số bán lên ngay 12 trệu đô vào năm sau.  Các vị Giám Đốc lần lượt từ chức, rời bỏ CCOHS.  Sau đó St.-Aubin tiến tới cho nghỉ việc tất cả các Trưởng Ban (Manager, đứng đầu các Department trong các Directorate).  Lúc đó, với chức vụ Manager, Database and Information Resource Development Department, bị cho nghỉ việc vào ngày 30-9-1992.

Năm Năm Trời Lận Đận (1992-1997)

Sau khi bị cho nghỉ việc tại CCOHS một cách rất oan ức, tôi bị xuống tinh thần khá trầm trọng vì nghĩ rằng mình đã bị đối xử rất bất công, là nạn nhân của một thủ đoạn chính trị bẩn thỉu, và nhứt là buồn vì những chuyện đó hoàn toàn đi ngược lại bản chất và truyền thống nhân hậu của xã hội và ngươi dân Canada.  Nhưng rồi tôi cũng vượt qua được cuộc khủng hoảng tinh thấn đó, và bắt đầu tìm kiếm một việc làm khác trong phạm vi chuyên môn của mình.

“Trong hai tuần lễ sau cái biến cố không vui tại CCOHS đó, tôi đã cố gắng hết sức để quên nó đi, và, sau cùng, tôi đã vượt qua được. Tôi bắt đầu tìm việc làm mới và vào đầu tháng 11-1992 tôi đã tìm được một công việc làm hợp đồng 12 tháng tại Thư Viện của Quốc Hội tỉnh bang Ontario, thay thế cho một nữ biên mục viên nghỉ hộ sản.  Sau khi hợp đồng xong, nhờ sự giúp đỡ của một bạn đồng nghiệp cũ tại CCOHS, tôi lại có được một hợp đồng mới 6 tháng tại Cơ Quan Sức Khỏe và An Toàn Lao Động của tỉnh bang Ontario (Workplace Health and Safety Agency = WHSA) tại Toronto.  Trách nhiệm của tôi là thiết kế và xây dựng một Thư Viện / Văn Khố cho cơ quan WHSA.  Sau 6 tháng, Thư Viện / Văn Khố của cơ quan được thiết lập xong và được đưa vào hoạt động rất tốt, và, nhờ vậy, cơ quan quyết định kéo dài hợp đồng thêm 6 tháng nữa.  Và, sau cùng, công việc hợp đồng của tôi trở thành thường trực, và tôi nhận được văn thư của WHSA thông báo là tôi được nhận làm Quản thủ Thư Viện và Văn Khố, chính thức bắt đầu vào ngày 2-8-1994.

Sau cuộc bầu cử vào tháng 6-1995, Đảng Bảo Thủ của tỉnh bang Ontario thắng lớn, chiếm được đa số và thành lập chính phủ mới.  Và lịch sử được tái diễn.  Cơ quan WHSA đã được thành lập trong thời gian cầm quyền của Chính phủ Đảng Tân Dân Chủ (New Democratic Party = NDP).  Chính phủ tân cử của Đảng Bảo Thủ quyết định giảm bớt vai trò quan trọng của cơ quan này nên đã quyết định biến nó thành một bộ phận của Cơ Quan Bồi Thường Lao Động (Workplace Safety and Insurance Board = WSIB).  Tất cả nhân viên của WHSA đều bị hạ tầng công tác.  Bà Giám Đốc cũ của tôi tại WHSA chỉ còn là một nhân viên làm công tác nghiên cứu khoa học mà thôi.  Thư Viện / Văn Khố của WHSA bị sáp nhập vào thư viện của WSIB, và tôi trở thành một quản thủ thư viện cấp thấp ở trong thế lúc nào cũng có thể bị cho nghỉ việc vì thâm niên của tôi chỉ mới có hơn một năm mà thôi.  Đối diện với một tình trạng bấp bênh như vậy, tôi không có cách nào khác hơn là phải, một lần nữa, lo tìm một công việc làm mới khác.”[4]

Công Tác Tại Đại HọcSaskatchewan (1997-2006)

Trưởng Ban Biên Mục

Đầu tháng 5-1997, đọc báo The Globe and Mail, tôi thấy Thư Viện của Viện Đai Học Sakatchewan, trong Vùng Đại Bình Nguyên của Canada (Grand Prairie of Canada), có đăng một thông báo tìm người cho chức vụ Trưởng Ban Biên Mục (Head, Cataloguing Department)

“Đây quả thật là một công việc mà tôi đã mơ ước từ khi đặt chân lên Canada từ tháng 9-1981.  Tôi gởi đơn xin việc ngay lập tức.  Hai tuần lễ sau, tôi nhận được điện thoại của vị Trưởng Phòng Nhân Viên của Thư Viện Đại Học Saskatchewan, mời tôi đến dự cuộc phỏng vấn vào ngày Thứ Hai, 2-6-1997.   Thư viện Đại Học Saskatchewan đã dàn xếp để tôi có được một thời gian thật vui vẻ thoải mái trong mấy ngày tại Saskatoon.  Mặc dù cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra vào ngày Thứ Hai, 2-6-1997, họ đã mua vé máy bay cho tôi đi Saskatoon vào trưa Thứ Bảy 31-5-1997 để tôi có được buổi tối Thứ Bảy và trọn ngày Chúa Nhựt để có thể thăm viếng thành phố Saskatoon và khuôn viên của Trường Đại Học.

Cuộc phỏng vấn đã diễn ra đúng theo tiêu chuẩn của các Trường Đại Học tại Bắc Mỹ, với một chương trình phỏng vấn trọn một ngày với rất nhiều ủy ban của Thư Viện.  Hơn hai tháng sau, tôi nhận được điện thoại của Ông Frank Winter, Giám Đốc Thư Viện, cho biết tôi đã được nhận.  Và sau đó, Trường Đại Học cũng đã gửi văn thư Offer of Employment chính thức cho tôi xác nhận tôi đã được cử nhiệm làm Trưởng Ban Biên Mục cho Thư Viện của Trường.” [5] 

Trong thời 3 năm (1997-2000), trong chức vụ Trưởng Ban Biên Mục này  tôi đã thực hiện thành công được một số dự án công tác quan trọng cho Thư Viện như sau:

• Kiểm Soát Tiêu Đề Chuẩn Tại Ngoai (Outsourcing of Authority Control = AC)

• Huấn Luyện Về Biên Mục Cho Nhân Viên trong 4 ngày, từ 27 đến 30-4-1998

• Xử Lý Tài Liệu Điện Tử (cho cả sách điện tử- e-books, và tạp chí điện tử – e-journals)

Trưởng Khối Dịch Vụ Kỹ Thuật

Sau 3 năm làm Trưởng Ban Biên Mục, tôi được vào Biên Chế (Tenure), thăng cấp từ Librarian 3 lên Librarian 4 (cấp cao nhứt của Quản Thủ Thư Viện Đại Học tại Bắc Mỹ), vào ngày 1-7-2002, và tôi cũng được Ban Điều Hành Thư Viện (Library Management Committee =LMC) thăng cấp lên làm Trưởng Khối Dịch Vụ Kỹ Thuạt (Head, Technical Services Division), trông coi cả 2 Ban Biên Mục và Ban Thủ Đắc (Acquisiions Department, phụ trách việc mua sắm sách và tạp chí cho thư viện và trao đổi với các thư viện khác) và, đương nhiên cũng trở thành một thành viên thường trực cua LMC luôn

Ngày 28-10-2002, tôi chính thức được nghỉ phép Sabbatical Leave 1 năm để đi làm nghiên cứu.  Trong thời gian nghĩ Sabbatical Leave, tôi đã hoàn thành được 2 dự án nghiên cứu sau đó đã được công bố như sau:

• Một bài báo với nhan đề Quality control issues in outsourcing cataloguing in United States and Canadian academic libraries, đã được đăng trong tạp chí Cataloging & Classification Quarterly, Vol. 40, Issue 1 (2005), tr. 101-122.

• Một bài báo với nhan đề A Web-based database of CIS declaasified documents on the Vietnam War, đã được đăng trên tạp chí điện tử Online, Vol. 28, no. 4 (July/August 2004).

Sau Sabbatical Leave, trở về Trường, tôi được Ông Frank Winter, Giám Đốc Thư VIên cử giữ chức vụ Senior Original Cataloguer, và làm việc thêm 3 năm nửa cho đến khi chính thức nghỉ hưu vào ngày 1-7-2006.  Vợ chồng tôi dọn nhà trở về thành phố Hamilton, tỉnh bang Ontario, tại căn nhà mà chúng tôi đã mua từ năm 1988:

Nhà gia đình tại số 585 Britannia Avenue, Hamilton, Ontario , Canada

Những Việc Làm Sau Khi Nghỉ Hưu

Sau khi nghỉ hưu, tôi đã có được nhiều thì giờ hơn để làm công việc nghiên cứu về lịch sử là ngành chuyên môn đầu tiên tôi đã được đào tạo tại Việt Nam khi theo học Ban Sử Địa, Trường Đại Học Sài Gòn trong 3 năm 1960-1963.

Các Bài Viết Đăng Trong Các Tạp Chí Chuyên Môn

Sau đây là các bài báo đã đăng trong các tạp chí chuyên môn:

2006. “Dakao: một trung tâm văn hóa,”Tập san nghiên cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long,” số. 4 (Tháng7/ 2006), tr.197-220.

2007. “Những sắc thái riêng biệt trong tín ngưỡng dân gian Miền Nam,” Tập san nghiên cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long, số. 5 (Tháng 1/2007), tr. 234-252.

2007. “Tài liệu Việt học tại Đại Hoc Cornell (1),” Dòng sử Việt, số. 2 (Tháng 1/6 2007), tr. 84-89.

2007. “Mật ước giữa các tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng Hòa 1967,” Dòng sử Việt, no. 2 (Thang1/3 2007), tr. 27-35, 89.

2007. “Tài liệu Việt học tại Đại Học Cornell (2),” Dòng sử Việt, số. 3 (Tháng 4/6 2007), tr. 130-140, 50. 

2007. “Cuộc khủng hỏang nội các tại VNCH vào cuối tháng 5 nam 1965,” Dòng sử Việt số. 3 (Tháng 3/6 2007), tr. 40-50.

2007. “Thủ Đức: xưa và nay,” Tạp san nghiên cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long, số. 6 (Tháng 5/2007), tr. 173-189. 

2007. “Cuộc chỉnh lý ngày 30/1/1964 của Trung Tướng Nguyễn Khánh, Dòng sử Việt,  số. 4 (Tháng 7/9 2007), tr. 55-67.

2007. “Khoán ước của Minh Hương Xã,” Tập san nghiên cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long, số 7 (Tháng 9/2007), tr. 52-63.

2007. “Thượng Hội Đồng Quốc Gia,” Dòng sử Việt, số  5 (Tháng 10/12 2007), tr. 40-54. 

2008. “Tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ liên quan đến Ông Ngô Đình Diệm vào tháng 4 năm 1955,” Tạp san nghiên cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long, số 9 Tháng 9/2008), tr. 77-89.

Những Bài Viết Đăng Trên Trang Web Petrus Ký Úc Châu

Lịch sử VNCH:

Văn Hóa:

Thơ:

Các đề tài khác:

Các Sách Đã Xuất Bản

ALA Từ Điển Giải Nghĩa Thư Viện Học và Tin Học Anh-Việt, Galen Press xuất bản, 1996 (sách dịch, nguyên tác tiếng Anh ALA Glossary of Library and Information Science, soạn giả Heartsill Young; dịch giả: Phạm Thị Lệ-Hương, Lâm Vĩnh-Thế, và Nguyễn Thị Nga).

Bộ Quy Tắc Biên Mục Anh-Mỹ Rút Gọn, 1988, LEAF-VN (Library and Education Assistance Foundation for Vietnam) xuất bản, 2002 (sách dịch, nguyên tác tiếng Anh The Concise AACR2, 1988 Revision, tác giả Michael Gorman; dịch giả: Lâm Vĩnh-Thế và Phạm Thị Lệ-Hương).

Ðakao Trong Tâm Tưởng, Hoài Việt xuất bản, 2008.

Bạch Hóa Tài Liệu Mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, Hoài Việt xuất bản, 2008.

Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967: Những Năm Xáo Trộn, Hoài Việt xuất bản, 2010.

Republic of Vietnam, 1963-1967: Years of Political Chaos, Hoài Việt xuất bản, 2010.

Truy Cập Thông Tin Theo Chủ Đề (Subject Access to Information), Đại Học Sài Gòn,         Khoa Thư Viện Thông Tin xuất bản, 2010.

The Price of Freedom: Exodus and Diaspora of Vietnamese People, Người Việt Books xuất bản, 2017 (sách dịch, nguyên tác tiếng Việt Giá Tự Do, tác giả Lâm Vĩnh Bình).

Cultural Research Field Trips, Vietnamese Youth and College Students of Montreal xuất bản, 2018 (sách dịch, nguyên tác tiếng Việt Du Khảo Văn Hóa, tác giả Lạp Chúc Nguyễn Huy).

Vietnam, Territoriality, and the South China Sea: Paracel and Spratly Islands, Routledge xuất bản, 2019 (sách dịch, nguyên tác tiếng Việt Những Bằng Chứng về Chủ Quyền của Việt Nam Đối Với Hai Quần Đảo Hoàng Sa Trường Sa, tác giả Hãn Nguyên Nguyễn Nhã).

The History of South Vietnam: The Quest for Legitimacy and Stability, 1963-1967, Routledge xuất bản, 2021.

Tròn Nhiệm Vụ: Hồi Ký của một Quản Thủ Thư Viện Canada Gốc Việt, Nhân Ảnh xuất bản, 2021.

Trường Petrus Ký Trong Tâm Tưởng: Nhớ về Trường Cũ, Thầy Cô, và Bạn Học, Nhân Ảnh xuất bản, 2021.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: Một Quân Đội Anh Hùng Bị Bức Tử, Nhân Ảnh xuất bản, 2021.

Armed Forces of the Republic of Vietnam: A Heroic Army Unjustly Abandoned and Left for Dead, Nhân Ảnh xuất bản, 2022.

Cultural Civil War Between North and South (1975-1986) in Vietnam, Nhân Ảnh xuất bản, 2022 (sách dịch, nguyên tác tiếng Việt Nội Chiến Văn Hóa Bắc Nam (1975-1986) tại Việt Nam, tác giả Lạp Chúc Nguyễn Huy).

Characterizing the Vietnamese Culture, Nhân Ảnh xuất bản, 2022 (sách dịch, nguyên tác tiếng Việt Định Hình Văn Hóa Việt, tác giả Lạp Chúc Nguyễn Huy).

Full Circle: Memoir of a Vietnamese-Canadian Librarian, Austin Macauley (London, Anh Quốc) xuất bản, 2024.

THAY LỜI KẾT:

Đã bước qua ngưỡng cửa của tuổi “Bát Tuần, nhìn lại đoạn đường khá dài này, tôi đã nhận ra thật rõ ràng, không còn một chút nghi ngờ nào nữa cả, sự sắp xếp, an bài của Ơn Trên trong tất cả mọi sự việc đã xảy đến trong đời tôi, từ chuyện học hành thi cử khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành và ra đời đi làm việc.  Với sụ trợ giúp quý báu của Ơn Trên, tôi đã có thể vượt qua một cách thật dễ dàng tất cả các khó khăn, trở ngại và hoàn thành tốt đẹp mọi nhiệm vụ và công tác được giao phó. Tôi thành tâm cảm tạ Ơn Trên.

GHI CHÚ:

1. Lâm Vĩnh-Thế.  Một ngã rẽ bất ngờ và may mắn, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/mot-nga-re-bat-ngo-va-may-man-lam-vinh-the

2. Lâm Vĩnh-ThếTròn nhiệm vụ: hồi ký của một quản thủ thư viện Canada gốc Việt.  Westminster, CA: Nhân Ảnh, 2021, tr. 110-111.

3. Lâm Vĩnh-Thế.  Tròn nhiệm vụ …, sđd, tr.118.

4. Lâm Vĩnh-Thế.  Tròn nhiệm vụ …, sđd, tr. 122-123.

5. Lâm Vinh-Thế.  Tròn nhiệm vụ …, sđd, tr. 124.