Chương XVI.
Một Dấu Hiệu Đặc Biệt Cho Thấy Sự Liên Hệ Mật Thiết Giữa Lá Thư Petrus Key Và Tổ Chức Truyền Giáo Hội Truyền Bá Đức Tin Ở Pháp: Cách Hành Văn Với Parallelism Một Cách Áp Đảo
Nhưng trước khi có thể so sánh cách hành văn chuyên dùng parallelism của lá thư Petrus Key với cách hành văn cũng chuyên dùng parallelism của Hội Truyền Bá Đức Tin để thấy chúng giống nhau như thế nào, người viết xin đưa bạn đọc trở lại với lá thư Petrus Key và giới thiệu cách hành văn với parallelism cực kỳ đặc biệt của tác giả lá thư này, một thứ “dấu ấn” khó thể lẫn lộn với những kiểu hành văn bình thường.
Parallelism là một nghệ thuật viết văn làm cho câu văn trôi chảy và thuyết phục hơn bởi cấu trúc của nó. Parallelism được định nghĩa là cách đặt câu có hai hoặc nhiều hơn những nhóm từ có cấu trúc, văn phạm và ý nghĩa tương tự nhau. Cách hành văn này tạo nên sự cân bằng cho câu văn, và quan trọng hơn nữa, tạo nhịp điệu cho câu văn. Nó làm cho câu văn trở nên thuyết phục hơn, êm tai hơn – bởi sự lặp đi lặp lại của các nhóm từ tương tự nói trên.
Parallelism thật ra là một tên gọi chung của nhiều nghệ thuật dùng từ khác nhau. Các nghệ thuật này gồm có antithesis (đối ngẫu), anaphora (điệp từ đầu câu), epistrophe (điệp từ cuối câu), climax (tột đỉnh), asyndeton (không có chữ nối) và simploce (điệp cú).[111]
A. Parallelism Trong Lá Thư Petrus Key
Trong lá thư Petrus Key, tác giả lá thư đã dùng nghệ thuật parallelism cả thảy 30 lần. Phải nói rằng gần như 7 hoặc 8 phần 10 của lá thư là parallelism. Ngoại trừ những chỗ mà tác giả phải diễn tả những sự việc đang xảy ra – như việc các ông quan đang tăng cường số người đi bắt giáo dân, hay nói về tình hình quân nhà Nguyễn – tất cả những phần còn lại trong thư đều có bóng dáng parallelism.
Người viết xin chép lại lá thư Petrus Key một lần nữa, với những dòng có dùng nghệ thuật parallelism được gạch dưới để bạn đọc dễ theo dõi.
=========================================================================
J.M.J.
A.M.D.G.
Grand chef,
Et vous tous, très honorables officiers de la Flotte Française
Votre haute position devrait certainement m’empêcher de vous écrire; mais quand la mort nous menace à chaque pas, quand des dangers pressants nous environnent de toutes parts, ne m’est-il pas permis de vous adresser ces quelques mots que votre bonté, j’en suis sûr, excusera. Je n’agis pas ainsi par un vain orgueil, l’utilité commune me guide, et les périls qui nous entourent me dictent impérieusement cette conduite. Autrefois les apôtres, tourmentés par la tempête, s’adressaient avec confiance au Dieu de repos, lui disant: Sauvez-nous, nous périssons. Mais la nécessité ne connaît pas de lois. Ce grossier papier, cette lettre mal tournée vous diront assez combien ma situation est précaire; ici, en effet, au milieu de la route, je n’ai rien à ma disposition, ni papier, ni bonnes notes, ni encre convenable, ni plumes appropriées. Mais je viens comme le champion de tous les Chrétiens vous offrir nos supplications; je viens vous raconter tous les maux que la cruelle tyrannie de mandarins nous fait subir, car vous êtes les vengeurs de notre liberté, vous êtes les envoyés de Dieu que, dans sa divine providence, il a choisi pour nous délivrer des mains de nos ennemis, comme jadis il envoya Samson pour venger son peuple, ou Moïse pour délivrer le peuple d’Israël de la prison d’Egypte, ou Josué pour introduire la maison du Jacob dans les champs pacifiques de Chanaan.
En considérant la (foi?) … qui vous anime pour la cause de Dieu, en examinant combien de mers vous avez parcourues, combien de pays et de royaumes vous avez traversés, combien de périls, sur terre et sur mer, il vous a fallu surmonter pour venir jusqu’à nous, une confiance indicible nous aucune et nous espérons en votre protection. Car nous sommes en ce moment comme des brebis au milieu des loups rapaces, les mortifications se suivent sans interruption; la terreur règne dans nos demeures, et la glaive attend sur la porte de la maison. Au milieu de ces craintes continuelles, de ces dangers incessants, seule notre espérance en vous nous soutient. La persécution augmente de jour en jour; partout la croix se présente sous nos pieds et c’est par notre ou par notre mépris pour elle que nous sommes reconnus; des tribunaux nous attendent à tous les carrefours. Nous tombons, meurtris de coups, nous sommes jetés en prison pour y attendre la mort. Le jour se passe en pénibles travaux pour le bien public, la nuit, il nous faut veiller sans cesse à la sûreté du village et c’est à peine si le sommeil s’approche quelquefois de nos paupières. Nos noms sont inscrits dans les listes publiques, nuit et jour surveillés, il nous est impossible de nous écarter un instant.
Que dirai je de plus? nuit et jour soumis aux tribulations. La hache du bourreau nous menace! Devant nous, le précipice, derrière, les loups! et nous restons entre la pierre et le sacrifice sous le couteau levé! Déjà nos confesseurs vaincus remplissent les prisons et de nombreux Chrétiens sont au pouvoir des ennemis. Hier, des lettres de Mandarins parcouraient les villages, ordonnant d’adjoindre chacun 10 ou 20 hommes aux soldats chargés d’arrêter les Chrétiens; et déjà plusieurs gémissent dans les fers de la citadelle qu’on vient d’élever près du pont Tham-Luong. Nous sommes tous menacés de la mort, si vous ne chassez bientôt nos ennemis. Telle est la vie précaire que nous menons; notre esprit flotte incertain; la crainte et l’anxiété nous désagrègent et nous dissolvent. Plus de repos du corps, plus de repos d’esprit!
Et en effet! L’homme qui voit sans cesse la hache suspendue au dessus de sa tête, peut-il savourer la douceur des mets? L’homme agité par de continuelle frayeur, peut-il goûter les délices de la campagne! Et moi, votre très humble et inutile serviteur, qui m’empresserai de me rendre auprès de vous, je suis contraint de m’arrêter après avoir fait les trois quarts du chemin. J’ai essayé hommes et chevaux pour parvenir au terme de mon voyage; mais des postes militaires sont établis partout; des explorations continuelles sont faites sur les routes qu’il me faudrait parcourir, et je reste, semblable au poisson dans un fleuve desséché, sans ressource pour continuer ma route. En vain, j’ai essayé de franchir les forêts, les champs, les montagnes, les vallées pour aller à vous, déjà même il m’est difficile de revenir sur mes pas. J’attends donc ici que vos armes invincibles m’aient ouvert une voie.
Telles sont nos tribulations qui, si ne je me trompe, ne vous sont pas inconnues. Si donc votre coeur n’est pas fermé à la piété et à la Charité prêchée par Jésus Christ, remplissez l’attente de cette Église; dirigez vers nous une main secourable, étendez le bras de votre puissance et vous aurez bien mérité de Dieu et de son Église. Une armée innombrable vous entoure, il est vrai: mais vous la mettrez en fuite sans difficulté; car la peur s’est emparée de vos ennemis et les tient sous son joug. J’ai vu des soldats fugitifs et je leur ai ouï dire que dans l’armée Annamite depuis le Centurion jusqu’aux derniers soldats, presque tout le monde dit hautement que, malgré les ordres des mandarins, ils couleront leurs barques au milieu de la rivière et se sauveront à la nage. Tout le peuple, même païen, gémit et demande la paix à grands cris: S’il s’agit de l’empire, disent-ils, qu’on nous montre au plus tôt un roi qui assure notre repos et mette fin aux travaux et aux impôts que les Mandarins exigent pour faire la guerre. Pourquoi travaillons-nous gratis toute la journée? Occupe le trône qui voudra, pourvu qu’il allège notre fardeau. Ne dédaignez donc pas d’étendre vers nous votre main libératrice pour mettre fin aux misères de notre peuple. Votre gloire, votre honneur le demandent; nos souffrances vous en font un devoir. Et puis, les siècles parleront de vos hauts faits, votre mémoire ne périra jamais; vos louanges seront dans la bouche de l’Église; et votre nom sera célébré d’âge en âge, et, ce qui est au-dessus de tout, vous mériterez dans le Ciel, pour toute éternité, cette couronne de la vie Éternelle, qu’il est si difficile d’obtenir.
Ayez pitié de nous, Ayez pitié de nous. Vous êtes nos libérateurs et la main des ennemis nous a touchés! halas (hélas?)! the wearer knows very well where the shoe pincheth Nous savons aussi que “qui trop embrasse mal étreint”. Et cependant nos souffrances nous poussent à invoquer votre puissance et à vous exposer du fond du coeur tout ce que je viens de soumettre à votre prudence et à votre sagesse.
De Votre Excellence
Le très humble et inutile serviteur
Petrus Key
=========================================================================
J.M.J.
A.M.D.G.
Đại Quan,
Và tất cả các ngài, những sĩ quan rất đáng kính của Hạm Đội Pháp Quốc
Vị trí cao cả của các ngài lý ra phải ngăn cản việc tôi viết cho các ngài; nhưng khi cái chết đe dọa chúng tôi ở mỗi bước chân, khi những hiểm nguy khẩn cấp bao vây chúng tôi từ khắp phía, chẳng lẽ tôi không được phép viết những dòng chữ này mà lòng tốt của các ngài, tôi chắc chắn, sẽ tha thứ. Bởi thế tôi không làm việc này vì tự kiêu hão huyền, lợi ích cộng đồng hướng dẫn tôi, và những tai hoạ chung quanh tôi khẩn cấp buộc tôi có hành động như vậy. Trước kia, các thánh tông đồ, khi lâm nguy vùi dập trong giông bão, đã kêu gọi với tự tin cùng Chúa của an lành, nói với Người rằng: “Hãy cứu chúng tôi, chúng tôi đang chết”. Nhưng hoàn cảnh không biết luật lệ. Tờ giấy thô sơ này, lá thư viết vụng này, sẽ kể cho các ngài thấy tình cảnh của tôi bấp bênh đến mức nào; tại nơi đây, thật vậy, ở giữa đường, tôi không có gì để dùng, giấy cũng không, những ghi chép tốt cũng không, mực tàm tạm cũng không, cây viết đàng hoàng cũng không. Nhưng tôi đến như là người biện hộ cho những giáo dân Thiên Chúa Giáo để đưa đến các ngài những lời thỉnh cầu của chúng tôi; tôi đến để kể cho các ngài nghe về những tai ương mà chúng tôi phải trải qua dưới bạo quyền chuyên chế của các quan lại, bởi vì các ngài là những người trả thù cho sự tự do của chúng tôi, các ngài là những sứ thần của Chúa mà, trong ý định thiêng liêng của Người, đã chọn, để mang chúng tôi ra khỏi bàn tay của những kẻ thù của chúng tôi, như trước kia Người đã gởi Sam-sông (Samson) đến để trả thù cho dân tộc của Người, hay Môi-se (Moses) để đưa những người Do Thái ra khỏi ngục tù Ai Cập, hay Gio-Duệ (Joshua) để mang căn nhà của Jacob (tức dân tộc Do Thái) đến những cánh đồng thanh bình ở xứ Chanaan.
Khi xét đến (đức tin?) … đang thúc đẩy các ngài hành động vì Chúa, khi kiểm lại bao nhiêu biển cả các ngài đã từng đến, bao nhiêu quốc gia và vương quốc các ngài đã băng ngang, bao nhiêu tai họa, trên đất cũng như trên biển, mà các ngài cần phải vượt qua để đến với chúng tôi, một niềm tin tưởng khôn tả vực chúng tôi lên và cho chúng tôi hy vọng được sự bảo vệ của các ngài. Vì chúng tôi trong giờ phút này giống như bầy cừu giữa đàn sói đói; với bao đói khát triền miên; sự kinh hoàng ngự trị trong nhà chúng tôi; và thanh gươm chực chờ chúng tôi trước cửa nhà. Giữa những sự sợ hãi liên tiếp đó, những nỗi nguy nan bất tận đó, chỉ có sự hy vọng của chúng tôi ở các ngài nâng đỡ cho chúng tôi mà thôi. Đàn áp gia tăng ngày này qua ngày khác; ở mọi nơi thập tự giá được vẽ dưới chân chúng tôi, và tùy theo sự kính trọng hay xem thường thánh giá mà chúng tôi bị nhận ra. Những toà án chờ đợi chúng tôi ở mọi ngã tư đường. Chúng tôi ngã xuống, bầm dập bởi những đòn vọt, chúng tôi bị ném vào ngục để chờ chết. Ban ngày làm lao động nặng nhọc cho cộng đồng, ban đêm chúng tôi phải canh phòng cho an ninh của làng xóm, và giấc ngủ ít khi đến với đôi mắt chúng tôi. Tên họ của chúng tôi bị đăng trong những danh sách công cộng, bị theo dõi ngày đêm, không thể nào chúng tôi có thể tránh khỏi, dù chỉ trong khoảnh khắc.
Tôi còn nói được gì thêm? Đêm và ngày trải bao gian khổ. Lưỡi búa của đao phủ đang đe dọa chúng tôi! Trước mặt chúng tôi, ghềnh đá (trên vực thẳm), sau lưng, đàn sói! và chúng tôi ở giữa phiến đá tế thần với cây đao đang dơ lên cao! Đã có nhiều người nhận (giảng) đạo (confessors) của chúng tôi bị bắt giam đầy các nhà tù và nhiều giáo dân đang ở trong tay của kẻ thù. Ngày hôm qua, những lá thư của các quan lại đã lan đến các làng, lệnh cho mỗi làng phải tăng thêm từ 10 đến 20 người lính chuyên việc bắt các giáo dân; và rất nhiều người đang rên rỉ trong xiềng xích của tòa thành mới được dựng lên gần cầu Tham Luong. Chúng tôi đang bị đe dọa với cái chết nếu các ngài không sớm đuổi sạch những kẻ thù của chúng tôi. Đó là cuộc đời hiểm nghèo mà chúng tôi đang sống; tinh thần của chúng tôi trôi nổi vô định, sự sợ hãi và lo lắng làm phân hủy và tan rã chúng tôi. Thân thể không còn phút nghỉ ngơi, tinh thần không còn phút yên tĩnh! Và thật vậy! Một người luôn thấy lưỡi búa treo trên đầu, làm sao có thể thưởng thức sự ngon ngọt của thức ăn? Một người bực bội bởi nỗi lo sợ triền miên, làm sao có thể nếm được sự thú vị của chốn đồng quê! Và tôi, người làm công khiêm nhường và vô dụng của các ngài, người đang vội vã đến với các ngài, tôi đã buộc phải ngừng lại sau khi đi hết ba phần tư đoạn đường. Tôi đã thử nhiều người và nhiều ngựa để đến cuối cuộc hành trình; nhưng các trạm lính canh được đặt ra ở mọi nơi; những sự thăm dò được thi hành ở khắp các con đường mà tôi sẽ phải đi qua, và tôi thành, như con cá trên dòng sông cạn, không có điều kiện để tiếp tục cuộc hành trình. Trong vô vọng, tôi đã thử vượt qua những khu rừng, những cánh đồng, những ngọn núi, những thung lũng để đến với các ngài, và giờ thì đã rất khó khăn để tôi trở lại chốn cũ. Tôi đang ở nơi đây chờ đợi những vũ khí vô địch của các ngài mở một con đường cho tôi.
Đó là những thử thách của chúng tôi mà, nếu tôi không lầm, không phải các ngài không hay biết. Nên nếu trái tim các ngài chưa đóng lại với sự mộ đạo và lòng nhân đức thuyết giảng bởi Chúa Giê-Su Ki -Tô, hãy làm tròn kỳ vọng của giáo hội này; đưa một bàn tay giúp đỡ chúng tôi, kéo dài cánh tay quyền lực của các ngài, và các ngài sẽ được nhận xứng đáng từ Chúa và Giáo Hội của Người. Một quân đội rất đông đang bao vây các ngài, điều đó là thật; nhưng các ngài sẽ làm cho chúng bỏ chạy không khó khăn; bởi sự sợ hãi đã chiếm ngự những kẻ thù của các ngài và đè chúng xuống dưới ách nặng của nó. Tôi đã thấy những người lính đào ngũ và tôi nghe họ nói rằng trong quân đội An Nam từ người Centurion (Bách Phu Trưởng) cho tới những tên lính cuối cùng, gần như tất cả đều nói rõ rằng, mặc cho những mệnh lệnh của các quan lại, họ sẽ đánh chìm những chiếc thuyền của họ giữa sông và bơi đi mất. Tất cả mọi người, kể cả những người ngoại đạo, rên xiết và đòi hỏi hoà bình với những tiếng kêu to: Nếu đó là vì cho đế quốc, họ nói, hãy cho chúng tôi thấy càng sớm càng tốt một ông vua bảo đảm sự nghỉ ngơi của chúng tôi và chấm dứt những công việc và thuế má mà các quan lại đòi hỏi cho chiến tranh. Tại sao chúng tôi phải làm việc không lương cả ngày? Người nào trên ngôi vua cũng vậy, miễn sao giảm bớt gánh nặng của chúng tôi. Bởi vậy, đừng nên xem thường mà hãy đưa bàn tay giải phóng của các ngài cho chúng tôi để chấm dứt nổi khổ sở của dân tộc chúng tôi. Vinh quang của các ngài, danh dự của các ngài đòi hỏi điều đó, sự đau khổ của chúng tôi làm nó trở thành bổn phận của các ngài. Và rồi, nhiều thế kỷ sẽ nói về việc làm cao thượng của các ngài, những ký ức về các ngài sẽ không phai nhạt, lời ca ngợi các ngài sẽ ở trên môi Giáo Hội; và tên của các ngài sẽ được tuyên dương đời này qua đời khác, và, trên tất cả, các ngài sẽ hưởng phước trên Thiên Đàng vĩnh cửu, đó là điều rất khó để đạt được.
Hãy có lòng thương xót chúng tôi, hãy có lòng thương xót chúng tôi. Các ngài là những nhà giải phóng của chúng tôi và bàn tay kẻ thù đã đụng đến chúng tôi! Ôi, người mang giày biết rõ chỗ nào giày cấn. Chúng tôi cũng biết rằng “kẻ ôm đồm quá thì khó giữ được gì”. Nhưng những nỗi thống khổ của chúng tôi đã thôi thúc chúng tôi kêu gọi đến quyền lực của các ngài và thổ lộ với các ngài từ tận đáy tim tất cả những điều mà tôi vừa trình bày ra đây cho sự cẩn trọng và khôn ngoan của các ngài.
Của Ngài
Người làm công khiêm nhường và vô dụng
Petrus Key
=========================================================================
Như vậy, người đọc có thể dễ dàng thấy rằng lá thư Petrus Key là một lá thư được viết ra bởi nghệ thuật hành văn parallelism. Vì trong một lá thư mà đến 7 hoặc 8 phần 10 của nó, hay khoảng 30 lần trong thư nghệ thuật parallelism đã được dùng, tác giả lá thư chắc chắn phải là một người rất yêu thích nghệ thuật này và thường xuyên dùng nó khi viết văn.
Và đó là một nét vô cùng đặc biệt của lá thư Petrus Key, mà ta khó thấy ở bất cứ văn kiện nào khác.
B. Parallelism Trong Lá Thư Năm 1833 Bởi Hội Truyền Bá Đức Tin
Tuy vậy, trong quá trình tìm kiếm thêm tài liệu cho bài viết này, người viết đã tình cờ đọc được một lá thư của Hội Truyền Bá Đức Tin, với cách hành văn đặc biệt chuyên dùng parallelism rất giống với lá thư Petrus Key. Và lá thư này có hình thức cũng rất giống với lá thư Petrus Key.
Đó là một lá thư viết vào năm 1833-1834, được ký chung bởi các giáo sĩ và giáo dân Pháp thuộc Hội Truyền Bá Đức Tin, và được gởi đến tất cả những giáo hữu An Nam đang bị đàn áp dưới triều đại Minh Mạng. Lá thư này đã được Hội Truyền Bá Đức Tin in lại trong một quyển Kỷ Yếu Đức Tin (Annales de la Propagation de la Foi).[112]
Người viết xin chép lại lá thư này, với những phần có parallelism được gạch dưới như sau, để bạn đọc có thể so sánh cách dùng và mật độ của parallelism trong lá thư này với lá thư Petrus Key:
=========================================================================
LETTRES DES CONSEILS DE L’OEUVRE DE LA PROPAGATION DE LA FOI
Les membres des deux Conseils de la Propagation de la Foi, au nom de tous les Catholiques de France qui participent à cette Oeuvre sainte.
A nosseigneurs les Évêques, Vicaires Apostoliques, et Coadjuteurs (Cette lettre est partie en triple expédition pour les Évêques du Tong-king et de la Cochinchine, par un vaisseau qui a mis à la voile au Havre dans le derniers jours du mois de mars); aux Prêtres, Missionnaires et Fidèles du Tong-king et de la Cochinchine, exilés ou persécutés pour la Foi et le nom chrétien.
——————————————————————————————
Béni soit Dieu; le Père de Notre-Seigneur Jésus-Christ; qui nous donne en tous lieux des sujets de triomphe, et qui manifeste par vous la bonne odeur de la connaissance de son nom, auprès de ceux mêmes de qui vous avez reçu l’Evangile.
Les paroles nous manquent pour vous exprimer tout ce que nous avons ressenti en apprenant les maux que vous souffrez: nos ames se sont trouvées inondées d’amertume, nos yeux se sont remplis de larmes, à la vue de vos églises détruites, de vos maisons de Dieu renversées, de vos vierges dispersées, de vos Prêtres, de vos Missionnaires emprisonnés et mis à mort.
Ah! que ne pouvons-nous franchir l’étendue des mers qui nous sépare, vous visiter au milieu de vos épreuves! peut-être nous fléchirions vos persécuteurs, nous tenterions du moins de racheter votre vie, ou nous vous aiderions à porter vos chaînes, demandant pour vous au Seigneur quelqu’une de ces consolations, que l’Apôtre, dans sa captivité, recevait de la visite des fidèles.
Mais la charité ne connaît point de distances, la foi nous rend présents parmi vous, il nous semble que nous assistons à vos combats; nous partageons vos retraites et vos exils, vos angoisses sont les nôtres; car nous sommes vos frères, membres d’un même corps; n’ayant tous ensemble, sous le même divin Chef, qu’une même vie et une commune espérance. C’est pourquoi chaque jour nous élevons nos yeux vers les saintes montagnes d’où viendra le secours; fléchissant le genou devant notre Père céleste, nous le conjurons d’abréger vos épreuves, de proportionner la tribulation à vos forces, ou de vous faire trouver, dans vos afflictions mêmes, et de nouveaux mérites et une gloire nouvelle.
Toutefois le désir de vous voir glorifier dans votre chair N.S. Jésus-Christ, n’est pas moins vif en nous que la douleur causée par la connaissance de vos maux. Que ne pouvons-nous vous dire tout ce que le sentiment nous inspire à votre égard! Mais lorsque, regardant en vous ce titre de confesseur qui vous honore, nous voulons continuer de vous adresser la parole, nous avons besoin, pour nous rassurer, de nous souvenir que dans les premiers combats de l’Eglise, quand d’intrépides chrétiens défiaient la rage des bourreaux, des fidèles obscurs se glissaient dans la foule, et non contens de prier pour les martyrs, quelquefois de la voix et du geste se hasardaient de les encourager. Timides commes ces chrétiens des premiers âges, et pénétrés aussi du sentiment de nos misères, comme eux nous prions pour nos frères que le Seigneur appelle aux combats de la foi, nous offrons nos aumônes, afin de soulager ses Saints; et puis, malgré notre indignité, nous osons leur dire: “Courage, généreux soldats de Jésus-Christ, vous êtes choisis entre tous pour avoir cet honneur insigne, non-seulement de croire en son nom, mais encore de souffrir pour lui: quel bonheur d’être appelés, comme vous l’êtes, à donner votre vie pour celui qui est mort sur la croix pour vous! Oh! que vos lourdes cangues doivent être allégées par la vue de l’auréole de gloire qui bientôt les remplacera. Vos cachots ne vous semblent-ils pas des palais, quand vous pensez qu’ils sont vraiment pour vous les vestibules de la céleste Jérusalem!
Songez que le nom du divin Maître est glorifié en vous, que vous l’êtes en lui; déjà le bruit de vos triomphes est allé au delà des mers, pour réveiller les coeurs assoupis par l’indifférence, et rendre croyables aux incrédules les merveilles des anciens jours; combattez courageusement jusqu’à la fin; vous aussi vous êtes en spectacle à Dieu, aux Anges et aux hommes.
Déjà vos glorieux martyrs, Gagelin et Pierre Tuy, vous ont montré comment on mourait pour la Foi, et maintenant ils vous représentent auprès du grand Monarque du ciel. Non, ils ne sont point perdus ceux que vous révériez comme vos pères, leurs exemples vous restent; et tandis que vous travaillez à accomplir saintement votre course, eux ils intercèdent pour vous auprès de celui de qui vient tout don parfait et toute grâce excellente. Vos églises ne seront point abandonnées, le sang de ces saints Confesseurs deviendra, comme aux premiers âges, la semence féconde des chrétiens, il vous obtiendra de nouveaux apôtres. Rappelez-vous quels furent leurs dernières paroles et leurs derniers voeux. Pour nous, nous ne pouvons nous souvenir sans une émotion profonde: au jour de leur combat et de leur triomphe, l’un d’eux tournant ses yeux mourants vers ses frères de la Propagation de la Foi, leur promit dans le ciel un éternel souvenir. Non, elle ne sera pas stérile cette sainte bénédiction d’un martyr; elle ranimera notre zèle, elle inspirera à tant de chrétiens qui en sont dignes, par leur foi et leur charité, le désir de joindre leurs offrandes aux nôtres, pour alléger le poids de vos tribulations. Quel honneur pour nous de penser qu’une part si légère de nos biens périssables se transforme, en vos mains, en des richesses incorruptibles! nous vous donnons un or vil et terrestre; et vous, vous nous rendez des martyrs et des protecteurs dans le ciel.
Mais pouvons-nous oublier ceux de nos frères qui sont devenus pour vous un si juste sujet de larmes? faibles, hélas! nous-mêmes, si la conscience de nos misères ne nous a point portés à excuser leur apostasie, du moins elle nous a bien fait sentir leur déchirante position. Combien nous avons regretté de n’avoir pu placer dans leurs mains ce denier avec lequel ils auraient racheté de l’avarice de leurs juges, et la vie de leurs corps, et la vie bien plus précieuse de leurs âmes! Puissions-nous bientôt apprendre que tous ont suivi l’exemple que plusieurs d’entre vous leur ont déjà donné, et que, si la crainte des tourments a pu les rendre infidèles, cédant enfin à la voix de leur conscience, aux exhortations de leurs prêtres, aux prières des saints confesseurs, ils se sont glorieusement relevés, et que leur pénitence a consolé l’Église, plus encore que leur chute ne l’avait d’abord affligée!
Nous vous prions de recevoir ces paroles en témoignage de notre foi commune, en gage de notre charité pour vous. Si nous apprenons qu’après une tempête si horrible vous jouissez enfin du repos, nous bénirons le Dieu des consolations, qui console comme il éprouve, qui guérit comme il frappe: mais s’il entre dans ses desseins impénétrables de prolonger vos tribulations, n’oubliez pas que la tribulation opère la patience, la patience l’épreuve, l’épreuve l’espérance, et que l’espérance n’est jamais confondue. Donnez cette gloire à vos chaines, de les porter jusqu’à la fin en vrais disciples de Jésus-Christ. Que le nom de ce divin Sauveur devienne, par votre résignation, respectable à vos persécuteurs; car c’est de lui que vous avez appris comme nous à bénir ceux qui vous maudissent, à prier pour ceux qui vous persécutent; voilà la guerre des chrétiens: leurs armes sont les larmes et la prière, leurs conquêtes les souffrances, leur victoire c’est la mort …!
Nous saluons d’une manière particulière ceux d’entre vous qui seraient encore dans l’exil ou dans les prisons; nous baisons avec respect leurs cicatrices et ces lourdes cangues qui sont, autour de leur cou, comme des ornements de leur gloire: nous nous recommandons avec simplicité à leurs prières, leur demandant quelque part à leurs mérites, afin qu’ils obtiennent de Dieu, qu’unis par la foi sur la terre, nous le soyons dans le ciel par le liens de la charité.
Nous vous saluons tous affectueusement dans le Seigneur.
Que la paix de Notre-Seigneur Jésus-Christ et les consolations de sa grâce, que l’esprit de conseil et de force demeurent toujours avec vous.
(Suivent les signatures.)
=========================================================================
Và sau đây là bản dịch lá thư trên của Winston Phan Đào Nguyên.[113] Những chỗ dùng parallelism cũng sẽ được gạch dưới tương tự như trong nguyên văn tiếng Pháp bên trên:
=========================================================================
NHỮNG LÁ THƯ TỪ CÁC HỘI ĐỒNG CỦA HỘI TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN
Những thành viên của hai Hội Đồng Truyền Bá Đức Tin, đại diện cho tất cả các tín đồ Thiên Chúa Giáo tại Pháp đang tham gia Thánh Vụ này.
Gởi đến các Giám Mục, Phụ Tá Giám Mục, và Trợ Lý Giám Mục (lá thư này được gởi đi ba chuyến đến các Giám Mục của Bắc Kỳ và Nam Kỳ, bởi một chiếc tàu khởi hành từ Havre vào những ngày cuối tháng 3) đến các Linh Mục, Thừa Sai và Tín Đồ của Bắc Kỳ và Nam Kỳ, bị đày hay bị bức hại vì Đức Tin và vì là giáo dân.
————————————————————————————–
Vinh danh Đức Chúa Trời; Cha của Giê-Su Ki-Tô Chúa Chúng Ta; đấng ban cho chúng ta ở khắp nơi những tín đồ của chiến thắng, và qua các bạn làm lan tỏa hương thơm tri thức về người, lan cho đến cả những người mà từ họ trước kia các bạn đã từng nhận được Phúc Âm.[114]
Chúng tôi không đủ từ ngữ để diễn tả cho các bạn biết cảm giác của chúng tôi khi hay những tai họa mà các bạn phải chịu đựng: linh hồn chúng tôi tràn ngập cay đắng, đôi mắt chúng tôi đầy những giọt lệ, với cảnh tượng những giáo phận của các bạn bị tàn phá, những ngôi nhà thờ Chúa của các bạn bị lật đổ, những nữ tu của các bạn bị phân tán, những linh mục của các bạn, những thừa sai của các bạn đang bị tù đày và tử hình.
Ôi! sao chúng tôi không thể vượt qua khoảng cách của những biển cả ngăn cách chúng ta, thăm viếng các bạn giữa những phiên toà của các bạn! có thể chúng tôi sẽ chế ngự những người bức hại các bạn, chúng tôi ít ra cũng thử chuộc lại sự sống của các bạn, hay chúng tôi sẽ giúp khiêng vác những gông xiềng của các bạn, cầu xin Chúa cho các bạn bất kỳ sự an ủi nào, mà thánh Tông Đồ, trong giam cầm, nhận được từ cuộc viếng thăm của những tín đồ sùng đạo.
Nhưng lòng nhân ái không biết đường xa, lòng tin đem chúng tôi đến cận kề các bạn, dường như là chúng tôi đang chứng kiến cuộc chiến đấu của các bạn; chúng tôi cùng chia sẻ những cuộc tẩu thoát và lưu đày của các bạn, những lo lắng của các bạn cũng là của chúng tôi; vì chúng tôi là anh em của các bạn, là tay chân của cùng một thân thể; tất cả có chung, dưới một Đức Chúa Trời, chỉ một cuộc sống và một niềm hi vọng chung. Đó là tại sao mỗi ngày chúng tôi dương mắt lên nhìn những ngọn núi thiêng nơi mà sự cứu giúp sẽ đến; quì gối xuống trước Cha chúng ta ở trên trời, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi người hãy làm bớt đi những thử thách của các bạn, chia đều những khổ đau tùy theo sức mạnh của các bạn, hoặc làm cho các bạn tìm thấy, trong chính những hoạn nạn kia, những phần thưởng mới và một niềm vinh dự mới.
Nhưng lòng mong muốn được thấy các bạn vinh danh trong xác thịt chúa Giê-Su Ki-Tô, ở trong chúng tôi không ít hơn sự đau đớn bị gây ra bởi sự hiểu biết về những tai hoạ của các bạn. Làm sao chúng tôi có thể nói cho các bạn nghe hết được những gì tình cảm này đã dấy lên trong chúng tôi đối với các bạn! Thế nhưng, khi nhìn ở các bạn với danh xưng người nhận (giảng) đạo (confessor) mà các bạn được vinh danh, chúng tôi muốn tiếp tục nói với các bạn, chúng tôi cần, để trấn an mình, nhớ lại rằng, trong những trận chiến đầu tiên của Giáo Hội, khi những tín đồ Thiên Chúa Giáo can đảm coi thường sự cuồng nộ của đao phủ, thì những tín đồ vô danh khác lẫn vào trong đám đông, và không chỉ hài lòng với việc cầu nguyện cho những người tử đạo, mà đôi khi có giọng nói và cử chỉ mạo hiểm để động viên tinh thần họ. Rụt rè như những tín đồ Thiên Chúa Giáo vào thời gian đầu tiên đó, và bị xâm chiếm bởi cảm giác đau khổ của chúng ta, cũng như họ, chúng tôi cầu nguyện cho các đạo hữu mà Đức Chúa Trời kêu gọi trong các cuộc chiến vì Đức Tin, chúng tôi xin cống hiến tài vật (alms) để xoa dịu cho những Vị Thánh của người; và rồi, mặc cho sự hèn mọn của mình, chúng tôi xin cả gan nói với họ rằng: “Can đảm lên, những chiến sĩ rộng lượng của chúa Giê-Su Ki-Tô, các bạn đã được chọn trong tất cả mọi người để có được sự vinh dự đặc biệt này, không chỉ nhân danh người biểu lộ đức tin, mà còn chịu đau đớn vì người: thật là một niềm vui sướng khi được kêu gọi, như các bạn đây, để dâng hiến sự sống của bạn cho người từng chết trên thập tự giá vì chúng ta! Ôi, những gông cùm nặng nề của các bạn chắc hẳn sẽ nhẹ nhàng đi với cảnh tượng của vầng hào quang vinh dự sẽ sớm thay thế chúng. Không phải những ngục tù của các bạn giống như cung điện sao, khi các bạn nghĩ rằng chúng thật ra chỉ là cổng vào cho thiên đường Jerusalem!
Hãy nhớ rằng tên của Chúa Trời được vinh danh trong các bạn, và các bạn trong Người; tiếng vang về những chiến thắng của các bạn đã vượt qua biển cả, đánh thức những trái tim còn uể oải bởi sự thờ ơ, và làm những kỳ tích xưa kia thành khả tín ngay với những người đa nghi; hãy chiến đấu dũng cảm đến cùng; các bạn cũng là một cảnh tượng kỳ diệu với Chúa, Thiên Thần và con người.
Những vị tử đạo vinh quang của các bạn, Gagelin và Pierre Tuy, cho các bạn thấy họ đã chết vì Đức Tin như thế nào, và bây giờ thì họ đại diện cho các bạn trước Đức Chúa Trời. Không, họ không mất đi, những kẻ mà các bạn kính trọng như những người cha, gương của họ vẫn còn đó cho các bạn; và khi các bạn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng của các bạn, họ sẽ can thiệp cho các bạn với Người là nơi mà từ đó ban ra mỗi tặng phẩm hoàn hảo và ơn huệ vượt bực. Những nhà thờ của các bạn sẽ không bị bỏ hoang, máu của những thánh nhận đạo này sẽ trở thành, như trong những thời trước, hạt giống tốt của những tín đồ Thiên Chúa Giáo, nó sẽ cho các bạn những thánh tông đồ mới. Hãy nhớ những lời cuối và những ước vọng cuối của họ là gì. Về phần chúng tôi, chúng tôi không thể nhớ mà không có cảm giác sâu đậm: trong ngày của sự tranh đấu của họ và của sự chiến thắng của họ, một trong bọn họ đã đưa đôi mắt hấp hối về phía những anh em của ông ta ở Hội Truyền Bá Đức Tin, hứa với họ ở thiên đàng một ký ức vĩnh cửu. Không, nó sẽ không là vô ích phúc lành thiêng liêng này của người tử đạo; nó sẽ làm sống lại lòng hăng hái của chúng tôi, nó sẽ thôi thúc rất nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo xứng danh, bởi lòng tin tưởng của họ và lòng nhân ái của họ, sự mong muốn được cống hiến chung với chúng tôi , để làm nhẹ đi gánh nặng của những thử thách của các bạn. Thật là một vinh dự cho chúng tôi khi nghĩ đến việc một phần nhỏ của những món đồ có thể hư hại của chúng tôi lại được hoá thành, trong tay các bạn, những báu vật không thể tiêu hủy! chúng tôi trao cho các bạn thứ vàng đê tiện và hạ giới; còn các bạn, các bạn hoàn lại cho chúng tôi những thánh tử đạo và những đấng bảo hộ ở trên trời.
Nhưng có thể nào chúng tôi quên được những người anh em của các bạn, những người đã trở thành nguyên nhân cho những giọt lệ của các bạn? yếu ớt! chúng tôi cũng vậy, nếu như tâm thức về những khổ đau của chúng tôi đã không dẫn chúng tôi đến việc tha thứ cho sự chối đạo của họ, thì ít ra nó cũng đã làm cho chúng tôi cảm nhận được hoàn cảnh thương tâm của họ. Chúng tôi hối hận biết bao khi không thể đặt trong tay họ đồng tiền này để với nó, họ có thể chuộc lại từ sự tham lam của những quan tòa của họ, sự sống của thể xác của họ, và thứ quí giá hơn nhiều là sự sống của linh hồn của họ! Mong rằng chúng tôi sẽ sớm biết rằng họ đã noi theo tiền lệ mà rất nhiều người trong các bạn đã cho họ, và rằng, nếu nỗi sợ hãi vì tra tấn có thể đã làm cho họ phản bội, thì sau cùng khi nghe theo tiếng gọi của lương tâm, theo sự hô hào của các giáo chức, những lời khấn nguyện của các người nhận đạo, họ vươn lên một cách huy hoàng, và sự ăn năn của họ an ủi Giáo Hội, thậm chí nhiều hơn là khi sự gục ngã của họ làm cho nó đau buồn!
Chúng tôi xin các bạn hãy nhận những lời này như một chứng nhận cho niềm tin chung của chúng ta, như một biểu tượng cho lòng nhân ái của chúng tôi cho các bạn. Nếu chúng tôi biết rằng sau một cơn bão tố ghê gớm các bạn sau cùng cũng được ngơi nghỉ, chúng tôi sẽ tạ ơn Chúa của những sự an ủi, người an ủi như người thử thách, người chữa lành như người trừng phạt: nhưng nếu người đi theo những ý nguyện không lường được của người để kéo dài sự đau khổ của các bạn, thì đừng quên rằng đau khổ dẫn đến kiên nhẫn, kiên nhẫn, thử thách, thử thách, hi vọng, và hi vọng thì không bao giờ bất lực. Hãy đem sự vinh quang này vào gông xiềng của các bạn, hãy mang chúng đến cùng như những tông đồ thực thụ của chúa Giê-Su Ki-Tô. Hãy để tên của Đấng Cứu Thế này, bởi sự nhẫn nhục của các bạn, trở thành đáng kính với những kẻ bức hại các bạn; vì đây là trận chiến của người Thiên Chúa Giáo: những vũ khí của họ là những giọt nước mắt và những lời cầu nguyện, những sự chinh phục của họ là những sự chịu đựng nhiều đau khổ của họ, chiến thắng của họ là cái chết …!
Chúng tôi xin chào một cách đặc biệt với những người trong các bạn hiện vẫn đang bị đày hoặc đang ở tù; chúng tôi kính trọng hôn lên những vết thẹo và những gông cùm nặng nề quanh cổ họ như những đồ trang sức cho niềm vinh dự của họ: chúng tôi đề nghị nhau một cách đơn giản đến cùng họ cầu nguyện, xin họ ban cho nơi nào đó trong những thành tích của họ, để Thượng Đế vì họ mà ban phép cho chúng tôi, từng đoàn tụ cùng nhau trên trái đất quanh một lòng tin, lại được đoàn tụ cùng nhau trên cõi trời quanh một lòng nhân ái.
Chúng tôi chào thân mến tất cả các bạn nhân danh Chúa
Cầu xin sự bình yên của Giê-Su Ki-Tô chúa chúng ta và những sự an ủi từ ơn huệ của Người, và tinh thần khôn ngoan và sức mạnh, luôn ở cùng các bạn.
(Những chữ ký theo sau)
=========================================================================
Như đã nói trên, sau khi đọc lá thư này của Hội Truyền Bá Đức Tin, người viết nhận thấy ngay rằng cách hành văn của nó và lá thư Petrus Key rất giống nhau, với cách dùng nghệ thuật parallelism rất điêu luyện và dày đặc trong thư.
Như bạn đọc có thể nhận xét, parallelism là một cách hành văn đặc biệt, không phải ai cũng biết dùng, và không phải ai cũng có thể dùng một cách thiện nghệ và áp đảo như trong cả hai lá thư Petrus Key và lá thư của Hội Truyền Bá Đức Tin.
Do đó, với cùng một cách hành văn rất đặc biệt như vậy, có một khả năng rất lớn rằng tác giả của cả hai lá thư chính là một người.
Và người có khả năng là tác giả nhiều nhất, cũng chính là người đã sáng lập ra Hội Truyền Bá Đức Tin, bà Pauline Jaricot.
[111] Những chữ trong ngoặc đơn là do người viết tạm dịch. Ngoài ra, theo chỗ người viết được biết thì từ tương đương cho parallelism trong tiếng Việt có thể là “thuật song hành”. Nhưng vì cảm thấy không chính xác lắm nân người viết xin dùng chữ parallelism trong bài này. Để hiểu rõ thêm về nghệ thuật parallellism, hãy đọc thêm tại https://www.litcharts.com/literary-devices-and-terms/parallelism
[112] Annales de la Propagation de la Foi, Tome Septieme (1834), pp. 578 -583
[113] Một lần nữa người viết xin cám ơn ông Phạm Ngọc Bảo đã giúp đỡ rất nhiều cho việc dịch thuật lá thư này. Và một lần nữa, xin nói rõ rằng những sai lầm trong bản dịch là hoàn toàn của người viết.
[114] Đây là một câu rất giống như câu trong kinh Corinthians (2 Corinthians 2:14).