Chương 5

VINH DANH TRƯƠNG-VĨNH-KÝ (1837-1898)

MỘT NHÀ VĂN-HOÁ LỚN, MỘT NHÀ BÁC-NGỮ-HỌC LỖI-LẠC

G.S Đỗ Quang-Vinh

(nguồn: Quyển Tuyển Tập về “Hiện Tượng Trương Vĩnh Ký” – 2005)

(Bài viết được trích từ Đặc San Hội Ái Hữu Petrus Ký 2002-03 do Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu thực hiện)

1. DẪN NHẬP

1- Nhâm-nhi ba múi sầu riêng bên chén trà quạo là điều thú-vị nhất của các bô lão miền Nam. Những trái sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, bòn bon, ngọt lịm thơm mát là những đặc-sản của miền Nam, không ai chối cãi. Nhưng người dân miền này ngày nay không biết chúng đã xuất-phát từ đâu, ngoại trừ một ít bô lão. Các vị này cho biết đó là do Trương Vĩnh-Ký mà chúng tôi së nói đến sau [1]. Cũng dễ hiểu, bởi lẽ cái công to tát hơn của ông đã gắn liền với nền văn-học chữ quốc-ngữ rồi.

2- Chữ quốc-ngữ hiện sử-dụng vốn là do các giáo-sĩ thừa-sai người Bồ-Đào-Nha khi họ mới tới Việt-Nam vào cuối thế-kỷ 16. Họ áp-dụng mẫu-tự và ký-hiệu ghi thanh của La, Hy-ngữ cùng ngữ-âm Bồ và cách phát âm của tiếng La-tinh, Bồ-Đào-Nha để phiên-âm tiếng nói Việt-Nam. “Những bản dịch các bản văn Ki-Tô-giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, mà phần thiết-yếu do công của Francisco de Pena, linh-mục Dòng Tên người Bồ-Đào-Nha, ông đã tốt-nghiệp ở trường Macao, bấy giờ nhà văn-phạm nổi tiếng về tiếng Nhật là Jaão Rodrigues “Tòuzzu” cũng hiện-diện tại đây từ năm 1610. Trong công việc của mình, linh-mục Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu-hiệu của một văn-nhân Việt-Nam trẻ tuổi uyên-bác về Hán-văn và có tên rửa tội là Phê-rô. Lúc đầu, chữ viết này là một phương-tiện nhằm mục-đích dạy các nhà truyền giáo, cho họ có một bước trung-gian thuận-lợi để tiếp-cận với lối nói của người Việt, giúp họ trao đổi về mặt học hỏi và giao-tiếp bằng chữ viết với những người Việt lãnh-đạo chính-yếu trong cộng-đoàn” [2]. Dần-dà, từ đó là phương-tiện lợi-ích cho việc giảng đạo, chữ viết này về sau mỗi ngày mổt cải-tiến. Khi quân Pháp vào chiếm Việt-Nam hồi đầu nửa thế-kỷ 19, song song với tiếng Pháp, chữ viết này càng ngày càng được áp-dụng triệt-để khi người ta nhận ra được hiệu-năng thiết-thực của nó, rồi trở thành chữ viết chính-thức của quốc-gia, vì vậy gọi là chữ “quốc-ngữ”.

* Cho tới thời Petrus Ký, chữ viết này vẫn chưa thực sự được phổ-quát. Cho nên, ngoại trừ một số ít những người theo đạo Gia-tô đã quen với chữ viết này, những người Nam-kỳ là nhóm người đầu tiên sử-dụng chữ quốc-ngữ.

* Năm 1942, Vũ-ngọc-Phan, một nhà phê-bình văn-học có uy-tín đã nhận-định như sau về sự hình-thành nền văn-học quốc-ngữ:

“Chữ quốc-ngữ có được mẫu-mực và được lan rộng ở Nam-Kỳ sớm hơn cả là nhờ mấy học-giả đã thâu-thái được học-thuật Âu-Tây trong hồi người Pháp mới đến nước Nam. Trong số những nhà học-giả Việt-Nam theo Tây-học ấy, người ta phải kể đến hai người có tiếng nhất là Trương-vĩnh-Ký và Huỳnh-tịnh-Của (tức Paulus Của). Hai ông đã dùng chữ quốc-ngữ để truyền-bá học-thuật và tư-tưởng Âu-Tây và soạn từ-điển Việt-Pháp để người Nam có thể dùng mà học tiếng Pháp. Bộ Việt-Pháp từ-điển của Paulus Của là một bộ từ-điển mà gần đây cả người Bắc lẫn người Nam vẫn còn dùng.

Còn Trương-vĩnh-Ký thì thật là một nhà bác-học. Ông không những là một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch-thuật, mà lại còn là một người rất giỏi về khoa ngôn-ngữ. Ông thật xứng-đáng làm tiêu-biểu cho tất cả những người sốt-sắng với quốc-văn lúc đầu ở Nam-kỳ; sự-nghiệp của ông, chúng ta không thể nào không biết đến được.” [3]

3- Trước năm 1975, du-khách tới Sài-gòn hẳn đều có dịp chiêm-ngưỡng hai tượng-đài Petrus Trương Vĩnh-Ký: một ở công-viên trước Dinh Độc-Lập, phủ Tổng-Thống cũ, do đồng-bào quyên góp dựng nên năm 1914, một ở trong khuôn-viên ngôi trường lớn mang tên ông, Trường Trung-Học Petrus Trương Vĩnh-Ký, do Sở Học-Chánh thời G. Taboulet, sử-gia, đặt và khánh-thành vào tháng 9 năm 1928 (1). Tiếc thay, ngay sau khi vừa xảy ra biến-cố chính-trị năm 1975, mọi di-tích của nhà học-giả có công này đã bị triệt-hạ. Chúng tôi xin được giới-thiệu cuộc đời của ông và nhận-định về những đóng góp đáng vinh-tôn của ông đối với nền văn-học quốc-ngữ Việt-Nam.

2. TÓM LƯỢC CUỘC ĐỜI PETRUS TRƯƠNG VĨNH-KÝ 

2.1 THỜI Đi HỌC

1- Trương-Vïnh-Ký, quen gọi là Petrus Ký, sinh ngày 6-12-1837 tại làng Cái-Mơn, huyện Tân-minh, tỉnh Vĩnh-Long, miền Tây Nam-Việt.

2- Mồ-côi cha từ năm lên 8, ở với mẹ, được cho học chữ Hán. Cha là Trương Chánh-Thi, lãnh-binh đồn trú tại Nam-Vang, Cam-Bốt, sau mất tại đây.

3- Năm lên 9, ông được một giáo-sĩ Tây-phương, thường gọi là cố Tám, xin đem về nuôi cho ăn học. Ông theo học quốc-ngữ và La-tinh với các giáo-sĩ ngoại-quốc, quen gọi là cố Hoà và cố Long.

4- Năm lên 11, ông học trường công-giáo Pinhalu bên Cam-bốt.

5- Tới năm 15, ông theo học sáu năm trời trong chủng-viện Pinang ở Mã-lai, tại đây ông tỏ ra có trí thông-minh thiên-bẩm lỗi-lạc, được lãnh phần thưởng của nhà cầm quyền Anh về môn luận-văn bằng tiếng La-tinh. Nhờ tự-học, ông thông-thạo nhiều ngôn-ngữ khác như: Hy-Lạp, Pháp, Anh, Nhật, Tây-Ban-Nha, Ấn-Độ..v..v…

6- Năm 21 tuổi (1858), ông trở về quê hương giữa lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt-Nam, bắt đầu từ Đà-Nẵng (1-9-1858), rồi Sài-gòn (17-02-1859), đến Gia-Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam-Kỳ.

Kết-thúc giai-đoạn thiếu-thời của ông ở đây, chúng tôi xin được nhắc đến một công ơn to-tát ông để lại cho nhà nông và nhà vườn miền Nam, mà sinh-thời, chính ông không ngờ đến. “Trong sáu năm học tại Penang, mỗi lần bãi trường, đáp thuyền vê quê hương thăm gia-đình, ông không quên mang quà ngon quả lå tØ “Miền Dưới” về để biếu mẹ già và bà con lối xóm, những trái cây này ở quê nhà không có, đó là sầu riêng, chôm-chôm tróc, măng-cụt tróc, bòn-bon. “Miền Dưới” là địa-danh do dân-chúng miền Nam đặt, để ám-chỉ chung các xứ ở phía dưới Nam-kỳ lục tỉnh như: Mã-Lai, Nam-Dương, Java. Trồng lúa chỉ chỉ cần sáu tháng, trong khi trồng cây ăn trái mất tám năm mới có trái ăn gọi là trái “chiến”. Lại thêm vì chiến-cuộc, nên sự phát-triển những loại trái cây này rất chậm, chỉ giới-hạn trong vùng Cái-Mơn và làng xã lân-cận. Càng về lâu, càng không ai để ý đến nguồn gốc các lọai cây đặc-biệt của “Miền Dưới” do Trương Vĩnh-Ký mà có, ngoại trừ một ít bô lão tại địa-phương truyền miệng nhau. Mãi vào đầu thế-kỷ 20, mức sống cao buộc nông-dân phải tìm cách tăng-gia canh-tác trồng cây ăn trái, trước tiên là Cái-Mơn, rồi quận Chợ Lách, sau đến toàn tỉnh Kiến-Hoà. Trái cây ngon, li-tc thu-hoch đáng kể trong khi công sức làm vườn bỏ ra ít hơn công sức làm ruộng, từ đó khắp nơi đua nhau phát-triển vườn cây ăn trái. Có nhà nông giảm diện-tích làm ruộng và trở thành nhà vườn hay chủ vườn. Rồi họ sáng-kiến ương hạt giống, chiết cành, tháp cây cho cây sống dai và hạ thấp thời-gian sinh trái xuống còn 5 năm. Vì thế các loại trái cây này lan tràn rất nhanh khắp Nam-Kỳ lục tỉnh. Có thể nói, đối với nhà nông, và nhất là nhà vườn Nam-kỳ lục tỉnh, Trương Vĩnh-Ký có một công ơn to-tát mà không được ai biết đến để nhắc-nhở” [4].

2.2 THỜI LÀM VIỆC:

1) Năm 23 tuổi, 1860, Pháp cần một thông ngôn người Việt cho các cuộc thương thuyết giữa hai chính-phủ, Giám- mục Sài Gòn Lefèbvre tiến-cử ông vào chức vụ này.

2) Năm 26 tuổi, 1863, ông được chỉ-định làm thông- dịch viên cho phái-đoàn Phan Thanh-Giản sang Pháp cầu hòa, được dịp chu du khắp nước Pháp và một số nước Âu- Châu như Ý, Tây-Ban-Nha, … và quen biết một số các nhà trí-thức tên tuổi của Pháp như: Victor Hugo, Paul Bert, Ernest Renan, Émile Littré …v.v…

3) Trở về Sài Gòn, ông làm giáo-sư rồi làm hiệu-trưởng Trường Thông Ngôn trong những năm 1866 – 1868.

4) Tới năm 32 tuổi, 1869, ông được bổ làm Giám-Đốc tờ Gia-Định Báo, tờ báo quốc-ngữ đầu tiên mà ông đã từng cộng-tác từ bốn năm truớc đó.

5) Năm 1873 lúc ông 36 tuổi, ông được bổ làm giáo-sư dạy môn ngôn-ngữ Đông-phương tại Trường Hậu-Bổ.

6) Năm 1874, do Renan và Littré đề cử, ông được nhận làm hội-viên Hội Á-Châu Paris. Giới học-thuật Âu-Châu liệt ông vào số 18 nhà bác-học trên học thế-giới “toàn cầu bác học thập bát quân tử” [5]

7) Năm 39 tuổi (1876), ông nhận sứ-mạng 3 tháng ra Bắc điều-nghiên tình-hình chính-trị tại đây. Những bài du-ký ông viết trong thời-gian này sau được sưu-tập thành sách xuất-bản năm 1881.

8) Trở về, ông được cử làm hội-viên Hội-Đồng Thành Phố Sài-Gòn, Hội-Đồng Học-Chánh Thuộc-Địa, tiếp-tục trước-tác trở lại.

9) Năm 46 tuổi, 1883, ông được Hàn-Lâm Viện Pháp trao tặng huy-chương Hàn-Lâm Viện đệ nhị đẳng bội-tinh, được bổ “Officier d’Académie“ (1883). Sự tưởng-thưởng này đã nâng ông lên ngang hàng với các học-giả Âu-Châu.

10) Tháng 4-1886, do đề-nghị của toàn-quyền Paul Bert, một nhà sinh-vật học và đồng thời là hội-viên Hàn-Lâm Viện Pháp vốn quen biết ông, triều-đình Huế biệt-phái ông sang Cơ-Mật Viện trong vai trò quan-sát-viên làm trung-gian thuận-lợi cho cuộc bang-giao giữa Pháp và Việt Nam.

Ông được chỉ-định dạy Pháp-văn cho vua Đồng-Khánh, được phong Hàn-Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ.

11) Tháng 6-1886, ông cáo bệnh, về nghỉ hưu tại Chợ Quán (Sài Gòn). Vua Đồng-Khánh làm thơ tặng ông tỏ lòng tưởng luyến, ban cho ông danh-hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ. Tại đây ông dành trọn cuộc đời còn lại cho công việc biên soạn trước-tác, và mất ngày 1-9-1898.

3. PETRUS KÝ, ĐÁNG ĐƯỢC HẬU-THẾ VINH DANH

Petrus Ký đã có những đóng góp lớn-lao cho nền văn-học quốc-ngữ và văn-hoá của xứ sở. Chúng ta vinh-tôn ông là để lưu-truyền cho những thế-hệ Việt mai sau cũng như để giới-thiệu với thế-giới một tên tuổi lớn của nền văn-hoá Việt-Nam. Petrus Ký thể-hiện ở ông ba con người: một Kẻ Sĩ ngay thẳng có tư-cách, một nhà bác-ngữ-học lỗi-lạc, một nhà văn-hoá tiên-phong trong việc phổ-cập và hình-thành nền văn-học quốc-ngữ.

3.1 PETRUS KÝ, MỘT KẺ SĨ CÓ TƯ-CÁCH

Về điểm này, trước đây có những ý-kiến gay-gắt cho rằng ông là người chịu nhiều ảnh-hưởng của đạo Gia-Tô, hoặc ông từng giúp việc cho thực-dân Pháp là kẻ thống-trị, nên ông không có công gì đối với đất nước. Vậy tưởng cũng cần phải giải-thích cho vấn-đề được thêm sáng tỏ.

1) Bác bỏ ý-kiến chống đối vì lý-do tôn-giáo:

Quan-niệm này cho rằng đạo Công-Giáo du-nhập vào Việt- Nam là một công-cụ của thực-dân Pháp, “trách cứ rằng Kitô giáo đã được nhập-cảng đến trong mớ hành-lý của giới thực- dân người Pháp hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ mở đường.” (chú số 2 & 2 bis), vì vậy những người theo đạo này là phản bội tổ-quốc. Đây là một nhận-định sai lầm và bảo-thủ. Sai lầm vì thực ra, đạo này đã từng ghi dấu ấn không những trong thế-kỷ 16 mà còn trước đó xa hơn nữa trong lịch-sử, đạo này đã có mặt ở miền Bắc nước Đại-Việt trước cả khi người Pháp vào Việt-Nam [8]. Bảo-thủ vì đó là thiên-kiến. Thật vậy:

  1. a) Lẽ thứ nhất, chắc hẳn chẳng ai là không đồng-ý rằng không nên đồng-hóa tôn-giáo với tín-đồ. Miệng thế vẫn thường nói: Tin Đạo chứ không tin người có Đạo là vậy. Không thể vì ghét Đạo mà ghét luôn cả người theo Đạo hay ngược lại.
  2. b) Lẽ thứ hai, cho dầu có những thừa-sai người Pháp thuở ban đầu quả đã có lợi-dụng chính-trị để bành-trướng đạo giáo của họ trong xứ sở này, người ta cũng không nên theo vết chân kỳ-thị tôn-giáo để võ-đoán nhìn bất cứ người Công- giáo nào, dù là người ngay thẳng và tài-năng như Petrus Ký, cũng đều là kẻ có tội với đất nước.
  3. c) Lẽ thứ ba, nếu vấn-đề được đặt ngược lại là: giả như ông Petrus Ký không phải là tín-đồ Gia-Tô Giáo thì câu trả lời sẽ ra sao? Chắc hẳn ông sẽ được vinh-danh và tưởng- niệm. Hiển-nhiên đánh giá như vậy là điều bất công.
  4. d) Lẽ thứ tư, cách nhìn trên đây không còn thích-hợp với tư-tưởng hiện-đại nữa. Theo chủ-thuyết “định chức” (functionnalism) trong đường lối giáo-dục cấp-tiến hiện phổ- cập khắp vùng Bắc Mỹ người ta tập cho học trò không được căn-cứ vào gia-cảnh, chủng-tộc, phái-tính hay tôn-giáo để đánh giá những thành-tựu tài-năng công-lao của mình và của người khác. [9]
  5. e) Lẽ thứ năm, có thể nói rằng thiên-kiến trên đây còn “bảo hoàng hơn cả vua”. Thời xưa dẫu có cấm đạo, song không vì thế mà có đối xử kỳ-thị cá-nhân. Trường-hợp của giáo-sĩ Trần-Lục là một chứng-minh. Ông là linh-mục người Việt duy-nhất được triều-đình bổ-nhiệm làm Khâm-sai Bắc- Kỳ, dù truớc kia ông đã từng bị bắt bị hành hạ, bị bỏ tù bị đầy lên Lạng-Sơn, kết-quả của chính-sách bắt đạo. Việc xảy ra cho phong-trào bài đạo lan rộng khắp các tỉnh miền Bắc và khi giặc nổi lên ở Thanh-Hóa ngày 3-12-1886. Triều-đình tưởng-thưởng ông vì đã đánh giá khách-quan, cứu xét tài-cán và công-trạng của ông trước đó đã có lần giúp quan tỉnh này 9

tập hợp các giáo-dân trong vùng đứng lên giữ thành, chống giặc Lê Văn-Phụng (10).

2) Bác bỏ ý kiến chống đối vì lý do chính trị:

Nếu quả đúng là không nên tôn-vinh Petrus Ký, hẳn không thể bảo rằng ông là người “có đạo“ như đã biện-chứng, trừ phi ông đích thực là tên tay sai hèn-hạ của thực-dân Pháp. Nhưng có thực đúng thế chăng? Xin thưa rằng: Không! Ông làm việc cho cả Nam triều và chính-phủ bảo-hộ. Ông quả có được nhà nước bảo-hộ ưu-đãi, nhưng ông không nông-nổi và quá-khích như bọn người a-dua xu-nịnh mà đại-diện là những Tôn Thọ-Tường thời ông và những Nguyễn Văn-Vĩnh sau này. Họ đã không tiếc lời đả-kích, mạt-sát, và trân-tráo hăm dọa, răn đe tất cả những ai chống đối thực-dân, thậm chí gọi các người yêu nước là “bọn sài-lang, giặc cướp hay ăn mày”, v.v..(11) Petrus Ký thì trái lại, ông chỉ coi mình như một người cộng-tác, không phải là một thứ đầy tờ dễ bảo. Thật thế:

a- Lẽ thứ nhất, ông ra làm việc cho tân-trào với thái-độ của một bậc thức-giả ưu thời hiểu rõ hoàn-cảnh quốc-gia, thái-độ của một nhà uyên-bác, qua những chuyến Tây du, đã nhận ra được những khác biệt rõ ràng lớn-lao giữa hai nền văn-minh Âu, Việt. Trước 1975, hai câu đối sau đây của cố giáo-sư Ưng-Thiều, khắc ở cổng trường Trung-Học Petrus Trương Vĩnh-Ký tại Sài Gòn, là để ghi nhớ chủ-trương thức thời của ông, quan-niệm cần phải dung-hợp hai nền văn-hóa Đông, Tây: vừa dung-nạp kiến-thức học-thuật Tây-phương mà đồng thời vẫn duy-trì bảo-tồn nền luân-lý đạo-học Á-Đông:

“Khổng-Mạnh cương-thường tu khắc cốt,

Âu-Tây khoa học yếu minh tâm“

b- Lẽ thứ hai, ông ra làm việc cho tân-trào với thái-độ của một nhà trí-thức ôn-hòa, ngay thẳng, muốn bắt nhịp cầu kết nối những dị-biệt văn-hóa chính-trị của hai dân-tộc, tìm kiếm mối giao-hảo giữa hai nước, tái-lập nền an-ninh quốc- gia, mưu cầu hòa-bình thịnh-vượng cho xứ sở.

Nhờ chuyến đi điều-nghiên tình-hình Bắc Kỳ năm Ất-Hợi 1886, ông mới thấy rõ được căn bệnh trầm-trọng của xã- hội miền này: nạn nhũng-lạm và hà-hiếp đã ăn sâu bám rễ trong giới quan-lại và hương-chức, xung-đột lương giáo xảy ra như cơm bữa.

Theo như tờ trình của ông gửi cho ông Duperré ngày 28-4-1876, tất cả mọi suy thoái này đòi hỏi một cuộc cải-cách cấp-thiết và sâu rộng, cải-cách chính-trị, cải-cách kinh-tế mà trong hoàn-cảnh xã-hội ấy “triều-đình Huế không thể nào cáng đáng nổi, chỉ có người Pháp mới có thể đưa tay đỡ dậy một xứ sở quá suy yếu như vậy“ 

Ta hãy nghe nỗi lòng yêu nước thương dân của ông qua lời ông tường-thuật thảm-trạng lầm-than của dân chúng Bắc- Kỳ:

“Cái cảnh tôi sắp trải ra trước mắt ông cũng không kém buồn thương. Thú thiệt, ngực tôi phập phồng, lòng tôi buồn bực trước cảnh đói khó đang nhiễu hại đám dân đau khổ của xứ Bắc Kỳ.

Tôi đã nghiên-cứu kỹ các tầng lớp xã hội, rồi một nỗi đau thương chiếm ngập lòng tôi.. Người có tiền của run sợ mà giấu-giếm huê-lợi của họ. Người buôn bán thì trốn chui trốn lủi. Người công kỹ nghệ âu lo, bởi vì gia-tài của Ất, của Giáp đều như phú-thác cho tham-ô của cả một guồng máy quan-liêu. Trong khi ấy, đông đảo người dân, những người không có ai coi ra gì. Người thợ ư? Người lao công cày ruộng ư? Đều rên xiết vì nghèo khó tột cùng và đang trải qua những ngày dài không cơm ăn, không việc làm. Và sự đói nghèo trong dân đà quá mức, khắp nơi rống tiếng hét gào sửa đổi, đòi một sự cai trị đủ sức trị an, để đảm-bảo quyền sở-hữu để đem lại cho công-nghệ và thương-mại sự an-toàn và sự hoạt- động cần-thiết cho chúng sống, tóm lại là kéo lên khỏi vực thẩm, kéo ra khỏi nạn đói, dân đen đang hấp hối.”[10]

c- Lẽ thứ ba, ông ra làm việc với người Pháp, nhưng ông vô tư không thiên-vị, trái lại biết đặt quyền-lợi quốc-gia lên trên hết. Đối vối những người đồng-đạo ông không mù quáng bênh-vực họ mà để cho quyền-lợi quốc-gia bị thương- tổn.

* Tại miền Trung, ở một vài nơi, những người theo đạo ỷ thế thực-dân, coi mình là ưu-hạng, nhiều khi tỏ ra muốn lạm-quyền, Petrus Ký đã lên án họ, như trong thư gửi cho Toàn-quyền Paul Bert, ông nói rằng:

Tôn-giáo chỉ hiện-hữu dựa trên những nguyên-tắc đạo-lý chung. Khi cứu xét các sự-kiện, Nhà nước phải hiểu rõ được bổn-phận và vai trò của mình, phải có một thái-độ trung-dung làm sao để cho các giáo-phái không lũng-đoạn được trật-tự chung là một trong những mối ưu-tư hàng đầu của nhà nước. “ [11]

* Và dù thuyết-phục các quan-lại ra làm việc với chính-phủ Bảo-hộ, song ông vẫn tích-cực chống đối mọi chính-sách của người Pháp có thể gây hại đến danh-dự và quyền-lợi của đất nước. Khi người Pháp đòi gia-tăng quyền- hạn cho họ ở Bắc-Kỳ, thì ngược lại, như trong thư gửi Toàn- quyền ngày 4-11-1886, ông cũng đòi người Pháp phải chia bớt cho ngân-quỹ triều-đình những tiền thuế hàng năm họ vẫn thu được ở đây.

d- Lẽ thứ tư, ông làm việc cho chính-phủ Bảo-hộ nhưng ông nhất định không chịu từ bỏ quốc-tịch của mình để vào “làng Tây“ như những người khác. Ông đã nói thẳng điều này trong thư ngày 15-9-1888 gửi cho bạn ông là Pène Siefert [12].

Đây cũng là lý-do tại sao ông vẫn lưu giữ tên thánh bằng tiếng La Tinh PETRUS (xin lưu ý: tiếng La-tinh chữ e không có dấu sắc) đi kèm với tên gọi của mình, không phải rằng cái tên ấy “rất có ý nghĩa đặc biệt“ vì như đã có người lên án trước đây rằng ông là một tay sai dễ bảo của thực dân Pháp nên “nếu ông có công thì cũng chỉ có công đối với Tây mà thôi” (16). Trái lại thiển-nghĩ nếu nó “rất có ý nghĩa” thì phải chăng đó chỉ là phản-ánh thái-độ của một nhà trí-thức khảng-khái tuyên xưng tín-ngưỡng của mình khi mà đương thời phong-trào bài đạo vẫn còn lan rộng khắp miền Bắc?

e- Lẽ thứ năm, từ tháng 2 năm 1886, ông cộng-tác với Toàn-quyền Paul Bert, vì Paul Bert vốn ngưỡng-mộ tư-cách, tài-năng thiên-phú ưu-việt của ông.

Kết-quả là, ông đã bị chính những người thuộc-hạ và kế-nghiệp Paul Bert bạc-đãi ông ra mặt vì họ đố-kỵ và nghi-ngờ ông đã cộng-tác tiêu-cực không trung-thành với người Pháp [13].

Sau hai tháng ngồi tại Cơ-Mật Viện trong vai trò trung- gian giữa triều-đình và chính-quyền Bảo-Hộ, ông cáo nhiệm về nghỉ tại Sài-Gòn vào tháng 8-1886. Mặc dầu Paul Bert viết thư hối-thúc ông trả lời, nhưng ông vẫn im lặng vui đời ẩn-sĩ miệt-mài với nghiệp văn của mình cho tới khi ông từ trần.

Chính ông cũng không vui gì về sự hợp-tác với người Pháp. Trong thư gửi viên Giám-đốc Sở Nội-Vụ Nam-Kỳ, khiếu-nại việc ông bị cắt giảm tiền lương làm giáo-sư môn sinh-ngữ Đông-phương, ông đã khảng-khái nói rằng:

Với tư-cách là người giúp việc cũ của chính-phủ, tôi có quyền chờ đợi một sự tăng lương chứ không phải một sự cắt giảm. Cũng cần nói thêm rằng trước đồng-bào của tôi, tôi đã bị trừng phạt tinh-thần

Nỗi khổ-tâm không thấy mấy ai hiểu làm day-dứt tinh- thần này đã được ông ký-thác trong hai câu kết bài thơ Tuyệt Mạng:

“Cuốn sổ bình-sinh công với tội,

Tìm nơi thẩm-phán để thưa khai”

Trong một thư khác biết bằng chữ La-ngữ gửi cho bạn là bác-sĩ Chavanne, ông cũng bày tỏ rõ quan-điểm của mình, ông cho rằng: Đây là việc tôi ở với các anh chứ không phải vì theo các anh, đó chỉ là phận sự tôi phải làm và điều này làm tôi an lòng, ông nói: “sic vos non vobis, hoc est mea sors et consolatio.” [13]

Tác giả người Pháp, J. Bouchot khi viết tiểu-sử của ông đã gọi ông là một nhà bác-học và là một nhà yêu nước (J.Bouchot, Un savant et un patriote Cochinchinois: Petrus T.V.Ký, 2ème édition, Nguyễn văn Của, 1927)

Đúng là như vậy, nên vua Đồng Khánh đã làm thơ ái-mộ và tặng ông danh-hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ lúc ông xin về nghỉ hưu [7].

Sau khi ông tạ thế, để tỏ lòng thương tiếc, vua Khải-Định truy-tặng ông hàm Lễ-Bộ Tham-Tri [19].

Quả thật thế, ông đáng được vinh-danh vì không những ông là một kẻ sĩ có tư-cách mà còn là một nhà bác-học lỗi-lạc thời-danh trên văn-đàn thế-giới, một nhà văn-hóa tiên-phong trong việc phổ-biến và hình-thành nền văn-học Quốc-ngữ.

3.2 PETRUS KÝ, MỘT NHÀ BÁC-NGỮ-HỌC LỖI-LẠC

1) Lẽ thứ nhất, Petrus Ký là người Việt đầu tiên mở rộng tầm hiểu biết sang lĩnh-vực văn-hóa Tây-Phương. J. Bouchot kể lại rằng ông đọc và nói được 15 thứ tiếng gồm sinh-ngữ, cổ-ngữ Đông Tây, và viết được 11 thứ tiếng. Câu chuyện sau đây kể lại tài ngôn-ngữ của ông trong thời-gian theo học tại chủng-viện Penang:

Một hôm, trong khi dạo chơi ngoài sân trường, ông bắt gặp tờ giấy viết bằng một thứ tiếng chưa hề biết. Thấy gần giống tiếng La-Tinh, ông suy từ đó dịch sang tiếng La-Tinh, mới hiểu ra rằng đây là bức thư gửi cho một giáo-sư trong trường, ông liền đem cả bản dịch lẫn bản chính cho vị này. Hết sức ngạc-nhiên về thiên-tài của ông, giáo-sư bèn trao cho ông cuốn tự-điển và một cuốn văn-phạm Pháp-văn để dạy ông học, vì thứ tiếng ông vừa dịch sang La-tinh chính là tiếng Pháp mà ông chưa hề học đến.”

2) Lẽ thứ hai, thiên-khiếu ngôn-ngữ ấy cũng được J. Thompson, một nhà du-lịch người Anh kể lại khi ông này ghé Sài-Gòn, có dịp tiếp-xúc với Petrus Ký . Ông ta nói:

Petrus Ký là một ngoại-lệ đặc-biệt trong đám dân bản- xứ mà tôi vừa mô-tả … Tôi không bao giờ quên sự ngạc-nhiên của tôi khi được giới-thiệu với ông. Petrus Ký ngỏ lời với tôi bằng một thứ tiếng Anh rất khá pha một chút giọng Pháp. Tiếng Pháp ông cũng nói được mà nói không kém thuần-tuý và tao-nhã. Tiếng Tây-Ban-Nha, tiếng Bồ-Đào-Nha, tiếng Ý đối với ông cũng quen thuộc như những tiếng nói Đông- Phương. Một hôm tôi đến thăm, thấy ông đương soạn một tập ‘Phân tách đối chiếu những sinh ngữ thế giới’, cuốn sách ông đã để công nghiên-cứu từ mười năm. Ông có bên tay tất cả một kho sách hiếm và quý đã thâu-thập được phần ở Âu- Châu, phần ở Á-Châu. Vào buổi tối, một ông cố đạo đến góp chuyện với chúng tôi, và lúc ra về tôi để lại cho hai ông tranh- luận bằng tiếng La-Tinh về một vấn-đề thần-học.” [14]

3) Lẽ thứ ba, ngoài ngôn-ngữ học, Petrus Ký còn nghiên- cứu sang cả những địa-hạt văn-hóa khác nữa.

Sau chuyến Âu-du, ông trở thành hội-viên thư-tín nhiều học-hội tại Tây-phương. Ông viết sử-ký, địa-lý Việt-Nam, khảo cứu về sinh, thực-vật học và canh-nông, trồng tỉa.

Trong tờ nội-san “Bulletin Du Comité Agricole et Industriel de la Cochinchine”, ông có cả một thiên khảo-cứu về loại kiến vàng với việc trồng tỉa của nhà nông.

J. Bouchot nhận xét về ông như sau: “Nếu một mặt cách học chữ Hán theo lối cổ-truyền đã làm trí nhớ ông rất mực phát-triển, thì mặt khác, ông cũng biết lợi-dụng những phươn- pháp ấy để mở-mang năng-khiếu suy-luận, cái năng-khiếu thường thiếu vắng hoàn-toàn trong tác-phẩm các nhà nho Trung Hoa.…Đạt được những kết-quả ấy, không hẳn chỉ nhờ được đào-tạo tại các chủng-viện mà cũng không thể phủ-nhận là còn do tư-chất thiên-phú nữa” [ Un savant et un patriote Cochinchinois: Petrus T.V.Ký[14]

3.3 PETRUS KÝ, MỘT NHÀ VĂN-HOÁ TIÊN-PHONG TRONG VIỆC PHỔ-BIẾN VÀ HÌNH-THÀNH NỀN VĂN-HỌC QUỐC-NGỮ

1) Lẽ thứ nhất, ông đã hiến trọn gần cả cuộc đời cho văn -nghiệp.

Trước-tác, biên soạn, xuất-bản sách báo là những hoạt- động chính-yếu của ông. Hiểu theo nghĩa này, ông quả đúng là một nhà văn, một nhà văn-hóa hơn là một nhà chính-trị. Thực vậy, ông bắt đầu xuất-bản các tác-phẩm của mình kể từ năm ông 26 tuổi, và theo đuổi nghiệp văn cho đến lúc lìa đời. Phải nói rằng chính phần trước-tác đồ-sộ của ông đã đóng góp rất đáng kể cho nền văn-học quốc-ngữ buổi phôi- thai. Từ lâu, học-giả Nguyễn Văn-Tố đã liệt-kê cả thảy được 118 tác-phẩm của Trương Vĩnh-Ký, trong đó một số viết bằng Pháp văn bao gồm những sách về ngôn ngữ, những sách giáo khoa và sách biên khảo tổng quát. Chẳng hạn, các sách dạy tiếng Việt cho người Âu Châu, từ điển Việt Pháp, Cours d’Histoire d’Annam, các sách dạy tiếng Thái, Miên, Lào, Miến Điện, Chàm, Tamil và Hindi …

Song, phải nói chính phần trước tác đồ sộ của ông đã đóng góp rất đáng kể cho nền  văn học quốc ngữ buổi phôi thai. Các sách lại này gồm có:

a) Dịch ra quốc văn những sách Nho học mà sau này học giả Nguyễn Văn Tố đã đánh giá cao là những bản dịch vừa sát ývăn lại vừa linh hoạt.

b) Phiên âm ra chữ Nôm những tác phẩm của nhà Nho xưa,thường là các truyện thơ bao gồm mọi lãnh vực: lịch sử, xã hội,luận lý …

Về loại này, ông là người đầu tiên phiên âm truyện “Kim Vân Kiều” bằng chữ Nôm của Nguyễn Du ra chữ quốc ngữ (1875). Truyện này mãi 50 năm sau, 1925, mới xuất hiện bản “Truyện Thúy Kiều” của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim[1].

c) Các sáng tác của chính ông, diễn tả mọi khía cạnh của đờisống trên mọi địa hạt xã hội, trong đó đáng kể vào thời ấy là haicuốn “Chuyện Đời Xưa” và “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi”[15].

Cũng phải nói thêm rằng, vào tháng 7 năm 1958, học giả Trương Vĩnh Tống, đã đem tặng Viện Khảo Cổ Sài Gòn tất cả những tài liệu và sách vở trong thư viện gia đình của Petrus Ký, thân phụ ông, gồm loại: địa lý, sử ký, ngôn ngữ học, khoa học, giáo dục, chính trị, kinh tế, nho học, phật học, văn chương, văn học sử, tiểu sử, trong đó có nhiều bản thảo chưa in, do chính Petrus chép tay.

2) Lẽ thứ hai, Petrus Ký là nhà văn đầu tiên nổi bật đưa ra lối viết văn xuôi.

a) Cho tới thời ông, các nhà nho chỉ quen viết lối văn vần,hoặc biền ngẫu với lối viết cầu kỳ phức tạp, đầy dẫy những chữHán, điển tích và sáo ngữ nhàm chán. Với hai cuốn “ChuyệnĐời Xưa” và “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi”, lần đầu tiên trong văn học quốc ngữ hiện đại, xuất hiện thể truyện ngắn, kýsự và lối văn xuôi, lối văn bình dân hoàn toàn Việt Nam.

b) Đối với tờ “Gia Định Báo”, tờ báo Quốc ngữ đầu tiên dochính ông là người Việt đầu tiên làm giám đốc, viên thống đốcNam Kỳ, G. Roze, trong tờ trình ngày 5-9-1865, gửi bộ trưởngBộ Thuộc Địa Pháp, đã nhận định như sau:

Tờ báo này nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những tiến bộ về canh nông. Những viên thanh tra đặc trách về những công việc của người dân bản xứ đã cho tôi biết rằng tờ Gia Định Báo đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương, những em bé biết đọc chữ Quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo này xuất bản mỗi tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi

Cho nên, “thoạt đầu, nó chỉ là một tờ công báo và được lưu hành ở các xã thôn. Tuy nhiên, từ khi ông Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm trông nom, tờ Gia Định Báo lại có một nhiệm vụ khác:

– Cổ động cho một lối học mới

– Phát triển chữ Quốc ngữ

– Khuyến khích dân chúng học chữ Quốc ngữ [16]

Vì vậy cho dẫu rõ đó là mục đích của thực dân muốn như thế, song những cố gắng của ông đã đóng góp rất nhiều vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ cũng như văn học hiện đại.

3) Lẽ thứ ba, có một điều đáng lưu ý nhất là vào thời ông, chữ Quốc ngữ bị rẻ rúng và bị chống đối từ mọi phía: phe các nhà nho yêu nước bảo thủ và ngay cả chính phe thực dân Pháp nữa.

a) Các nhà nho bảo thủ chống đối vì cho rằng chữ Quốc ngữchỉ là phương tiện giao dịch hàng ngày, để kiếm sống, để đượcthăng chức, hơn nữa là một lợi khí chính trị của thực dân, một phương tiện xâm lăng tinh thần của họ (để quảng bá đạo công giáo và tuyên truyền ảnh hưởng của thực dân)17. Họ tin rằngnhững giá trị tinh thần truyền thống sẽ bị suy sụp một khi bãi bỏ việc sử dụng chữ Pháp và chữ Hán cùng chữ Nôm[17].

Nguyễn Đình Chiểu, tác giả truyện Lục Vân Tiên, một thứ truyện Kiều của Miền Nam, đã nổi giận khi hương chức trong làng đến xin cụ cho phép con trai thứ bảy của cụ là Nguyễn Đình Chiêm được học chữ Quốc ngữ[18].

Chính các thân hào nhân sĩ miền Nam khi ấy cũng đã đăng bức thư ngỏ trên báo Pháp “Le Saigonnais” số ra ngày 10-12- 1885, yêu cầu chính phủ bảo hộ cho bãi bỏ chữ Quốc ngữ, duy trì tiếng Pháp và chữ Nôm[19].

b) Sự chống đối cũng gây sôi nổi trong giới thực dân.

Họ biện luận rằng chữ quốc ngữ chỉ hữu dụng trong giới bình dân và các trường tiểu học, cho họ đọc được các thông cáo và các sắc lệnh của nhà nước, đọc một số sách và báo chí thông thường cần thiết trong cuộc sống thường ngày, chỉ có tiếng Pháp và chữ Hán mới là thứ chữ của văn hóa, văn chương dùng trong các trường trung học và đại học. Cho nên, một mặt phe thực dân thúc bách chính phủ bảo hộ cho dùng chữ Nôm trong văn học và trong các học đường cao hơn, mặt khác, họ yêu cầu chỉ cho dùng chữ Quốc ngữ trong việc giao dịch hằng ngày như là đọc báo chí chẳng hạn[20].

Cho tới năm 1913, sau khi ông từ trần, sự chống đối này vẫn còn tồn tại. Cũng cùng một luận điệu tương tự, đại tá Diguet yêu cầu duy trì chữ Hán vì cho rằng Quốc ngữ không phải là  thứ chữ của văn chương Việt Nam[21].

Tuy nhiên, thức tỉnh trước thắng lợi của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Nhật Nga năm 1905, giới nhà Nho bảo thủ bắt đầu nhận rõ ra được vai trò quan trọng của chữ Quốc ngữ, mới biến chữ quốc ngữ thành lợi khí hữu dụng để kêu gọi và phát triển lòng yêu tổ quốc, từ đó mở ra một kỷ nguyên mới cho nền văn học Việt Nam hiện đại cũng như cho các cao trào cách mạng sau này.

Bởi thế, tuy hẳn nhiên không phải là người sáng chế ra chữ Quốc ngữ cũng không phải là người đầu tiên dùng thứ chữ này nhưng Petrus Ký đã dẫn đầu các nhà văn tiên phong ra sức vượt mọi chướng ngại giăng ra từ mọi phía khả dĩ thúc đẩy nền văn học Quốc ngữ được “cất cánh” vào năm 1945.

Trong đồ thị (Hình 1) dưới đây, đường L = nt + M

Tương lai văn học quốc ngữ = nỗ lực xây dựng x thời gian + nền móng phát triển.

Chứng minh vai trò của ông, một nhà văn tiên phong dẫn đầu trong công cuộc xây dựng nền móng phát triển để hình thành và phổ cập nền văn học Quốc ngữ Việt Nam__

Hình 1: Petrus Ký (1837 – 1898) và đồ thị hình thành nền văn học Quốc ngữ

nha bac ngu hoc PK

– RN: chữ Quốc ngữ, thành lập tư cuối thể kỷ 16, chưa được sử dụng rộng rãi khắp cả nước, ban đầu chỉ là phương tiện để dạy các thừa sai và dịch các kinh sách trong đạo Thiên Chúa.

– NO: Với tờ “Gia Định Báo” (1865) và những công trình trước tác của ông, Petrus Ký trở thành một tên tuổi lỗi lạc trong số các nhà văn tiên phong dấn thân cho việc hình thành nền văn học chữ Quốc ngữ, trong khi thứ chữ này lại bị chống đối từ mọi phía gồm giới sĩ phu yêu nước bảo thủ các học giả theo tân trào, và ngay cả phe thực dân.

– OP: Từ 1905, các sĩ phu yêu nước đối lập nhìn nhận được những lợi ích thiết thực của Quốc ngữ, đã lợi dụng văn tự này làm vủ khí hữu hiệu cỗ vụ các phong trào cách mạng, chữ Quốc ngữ thành phổ cập.

– PQ: Từ 1932, nhóm trí thức lãnh hội nền giáo dục Âu tây, canh tân nền văn học Việt Nam, ra mắt công chúng những tác phẩm của họ, mệnh danh là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, từ đó, khích lệ và đẩy mạnh đà phát triển cho văn học Việt Nam sang giai đoạn cất cánh.

 

4. Kết luận

1) Xưa nay không ai phủ nhận tư cách và thiên tài của Petrus Ký. Nhà bác ngữ học này quả là một nhà thông thái, một nhà văn hóa lớn so với các người đồng thời với ông ở Việt Nam và ở Âu Châu. Ông cũng là một nhà văn tiên phong sáng giá nhất đã hiến cả cuộc đời cho việc hình thành nền văn học và văn hóa Việt Nam hiện đại.

2) Cho nên vinh tôn ông chính là phục hồi danh dự cho ông, là giới thiệu với thế giới và với nước Canada đa văn hóa này, một học giả có tên tuổi lớn của Việt Nam. Chúng ta vinh tôn ông chính là góp phần vào việc phát triển nền đa văn hóa xứ Canada với nổi tiếng là một quốc gia chuộng tự do, dân chủ, xây dựnhào bình và bảo vệ bất cứ một giá trị cội nguồn nào.

3) Chúng ta tôn vinh ông cũng còn là nhắc nhở cho các thế hệ trẻ nói chung biết noi gương hiếu học của ông và những người Canada gốc Việt nói riêng nhận biết được di sản của mình và ra sức chia sẻ tham dự vào mọi sinh hoạt của xã hội mới, ngõ hầu tích cực và mau mắn làm phong phú nền văn hoá của xứ này.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Quán Phong, Trương Vĩnh Ky, tạp chí Nắng mới số 21 tháng 6 năm 1993

[2] Roland Jacques, dựa trên rất nhiều chứng liệu và bút tíchcòn lưu trữ phần lớn tại các văn khố ở Lisbonne, ở Madrid và ởRoma, đã nỗ lực chứng minh rằng “Giáo sĩ Đắc lộ hẳn nhiên làmột nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là một siêu nhân”,ông không phải là người đầu tiên sáng chế chữ quốc ngữ; xưanay người ta đã “xoá bỏ vai trò cốt cán của Bồ Đào Nha thựchiện tại Việt Nam xuyên qua các vị truyền giáo dòng Tên trongthế kỷ XVII, nơi những tác phẩm nghiên cứu đặc biệt liên he”(xem Roland Jacques, Roma, Italia trong bài “Bồ Đào Nha vàcông trình sáng chế chữ Quốc ngữ. Phải chăng Cần Viết LạiLịch Sử?” đăng trong tạp chí Định Hướng số 17 mùa thu 1998.

a) “Một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng vô cùng hâm mộ … Anh tên thánh rửa tỗi là Phêrô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương, (các kinh) mà Ki tô hữu đã thuộc lòng. Theo thói quen làm biên bản hàng năm của các tu sĩ dòng Tên, ở linh mục có, tác giả các công trình liên hệ không minh nhiên được nêu tên.

Ba tu sĩ dòng Tên giờ có mặt tại cơ sở truyền giáo Puklo Canmbi (Quy Nhơn), lúc công trình này tiến hành là linh mục Buzomi, linh mục Pina và linh mục Borri, một người vừa mới đến bắt đầu học tiếng … Những tác nhân chính yếu thực hiện công trình này là linh mục Pina và chàng thanh niên Việt Nam cộng tác với ông ấy. Theo chính lời xác nhận của chính linh mục Pina, ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc xây dựng việc chuyển mẫu tự La tinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm được một tuyển tập và bắt đầu viết một bản văn phạm. Kết quả đó, linh mục Pina đã đạt được một cách vất vả, với sự trợ giúp của mốt số ít học sinh Việt Nam quy tụ chung quanh ông.

b) Tường thuật về cái chết ngày 15-12-1625 của Pina, nhà truyền giáo Bô-đào-nha, Bartoli đã viết như thế này thay cho bài điếu văn: “Linh mục Pina là người Bồ-đào-nha, thọ 40 tuổi. Ngài được người ngoại giáo mến chuộng, vì ngài nói tiếng của họ, như chính ngài là người bản xứ Đàng Trong vậy.”

c) “Năm 1624, Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho những người ngoại quốc đầu tiên trong đó có hai học trò rất cự phách: linh mục người Bồ Đào Nha António de Fontes, một nhà truyền giáo kỳ cựu và sẽ là một trong những cột trụ cho xứ truyền giáo Đàng Trong; và linh mục Alexandre de Rhodes. Vị này sớm được gọi để thành lập xứ truyền giáo Đàng Ngoài từ 1627 đến 1630.”

d) “Sau cái chết bi thảm của Pina, nỗ lực về ngữ học của các vị tiên phong ấy vẫn được tiếp tục ít nhất là trong hai thập niên. Cố gắng của họ trước hết nhằm sáng tạo một ngữ vựng Kito giáo và viết ra những phần căn bản về văn chương Kito giáo. Vai trò của các văn nhân Kito giáo Việt Nam ở đây cũng rất lớn.

e) Mặt khác nỗ lực phân tách văn phạm và ngữ âm tiếng Việt được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống để kiện toàn dần hồi lối viết bằng mẫu tự La tinh, đây là một công trình tập thể khó mà phân tích được phần riêng nào của một ai. Điều chắc chắn rằng Alexandre de Rhodes sớm tách ra khỏi công trình tiếp tục này vì vào lúc ấy ông vắng mặt ở xa tận Macao từ năm 1630 đến 1640. Chính ông đã nêu tên hai nhà tự vựng học nổi tiếng nhất trong bài tựa cuốn từ điển: hai người Bồ-đào-nha Gaspa do Amaral và António Barbosa.”

f) Một cuộc họp định chuẩn được tổ chức tại Macao năm 1645 để bàn về một vấn đề gây tranh cãi liên quan đến hệ thống thuật ngữ Kito giáo bằng tiếng Việt. Kho tài liệu lưu trữ còn giữ lại cho chúng ta tên tuổi các chuyên gia lão luyện chi phối các cuộc thảo luận: bên cạnh Amaral, được chỉ định như nhà chuyên môn tài ba nhất (peritissimus), và Barbosa, còn thấy Baltazar Caldeira sinh ở Macao, cũng như Manuel Pacheco và Pêro Alberto, hai vị sau này đều sinh ở Bồ. Đối diện với họ, Alexandre de Rhodes chủ trương một lập trường trái ngược, và ý kiến của ông bị gạt bỏ. Mặc dầu sau đó một vì dòng Tên người Sicilia còn trẻ, tên Metello Saccano hăng say hỗ trợ lập trường của ông, nhưng rồi quyết định trên vẫn giữ lại.”

2bis. Nhật báo công giáo Pháp La Croix ngày 18-1-1996 tường thuật chuyến viếng thăm của đoàn hàng giáo phẩm công giáo Pháp đến Việt Nam do tổng giám mục Joseph Duaval, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp hướng dẫn. Trong thư gửi Đức Tổng Giám Mục để trình bày quan điểm của mình về lời phát biểu của ngài được thuât lại trên tờ báo, Roland Jacques, một nhà nghiên cứu lịch sử Giáo Hội Việt Nam, viết như sau:

Ký giả trích dẫn trong ngoặc kép những lời phát biểu mà Đức Cha đã nói để giải thích lý do chuyến viếng thăm này: Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó được thành lập nhờ những nổ lực của các nhà truyền giáo Pháp. Có lẽ người ta đã méo mó những lời nói của Đức Cha, nhưng dẫu sao một sự xác quyết như thế là một sự sai lầm, và là một phương cách rất đáng tranh cãi để chuẩn bị khung cảnh (thuận lợi) cho cuộc gặp gỡ.

Ai đã thành lập nên Giáo Hội Việt Nam? Trả lời cho câu hỏi có tích cách lịch sử này, phải khẳng định (sans ambiguité) rằng các vị thành lập, kể từ năm 1615, là những giáo sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản, tỉnh dòng có tích cách quốc tế trong việc tuyển chọn (nhân sự) và thuần tuý Bồ Đào Nha trong các mối lệ thuộc về mặt pháp lý… Khi những vị người Pháp đầu tiên như tu sĩ Joseph Francis Tissanier và Pierre Jacques Albier – đi tàu biển đến xứ này vào năm 1658, thì có gần 70 vị truyền giáo gồm 8 quốc tịch đã tiếp tục nhau đến trước, trong số đó có 35 vị người Bồ, 19 vị người Ý và 7 vị người Nhật. Những giáo dân được đào tạo kỹ lưỡng hướng dẫn họ, có đủ khả năng đương đầu với những cảnh khó khăn nhất.

Thật sự có sự kiện là lịch sử được viết theo lối người Pháp cố nêu lên sự nghiệp to lớn này cho một mình cha Alexandre de Rhodes…Ngoài ra, tên tuổi ngài được gắn liền với các công trình ngữ học về tiếng Việt nhờ những tác phẩm ngài đã xuất bản tại Âu Châu vào năm 1651. Trong lãnh vực này cũng như trong công việc truyền giáo nói riêng, sự thành công của ngài lệ thuộc vào công trình của các vị tiên phong đi trước ngài. Đây là một công trình tập thể rõ rệt, không thể gán cho công lao một xứ nào riêng, dẫu người Bồ Đào Nha gián tiếp đã là những bậc thầy thi công, cũng như họ là những người thợ đông nhất…

Đức Cha hẳn nhiên là vô tình mang lại một cái dựa cho môt luận cứ từng gây nên nhiều tại hại cho người công giáo Việt Nam, và luận cứ đó từ mấy năm nay dấy lên một cách mạnh mẽ. Lời mỉa mai của dân chúng hoặc cả đến các giáo sư đại học tên tuổi đã từng kịch liệt chứng minh về sự thông đồng giữa chủ nghĩa thực dân Pháp và sự lan tràn của đạo Công giáo vào Việt Nam.” (xem bài “Câu hỏi trong khuôn khổ lịch sử khách quan:

Ai đã thành lập giáo hội Việt Nam? đăng trong Định hướng, 14, Mùa đông 1977, tr.120-122).

[3] Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại, Đại Nam Publish,1334N. Pacific Aven. CA. 91202. USA, tr.37.

[4] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Tân Biên, Tập 3, ĐạiNam Publish, tr. 67-69.

[5] Huỳnh Văn Tòng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Chí Đăng &Hiện Đại Học Hòa Hảo, tr. 53.

Sau đây là những luận cứ về việc đạo công giáo đã có mặt từ khi nước ta còn nội thuộc nhà Hán. Trong Bài Uẩn Khúc Lịch Sử Chung Quanh Việc Giáo Sĩ Đắc Lộ Đến Bắc Bố Chính Trong Tháng 4 năm 1629, đăng ở Định Hướng số 17 Mùa Thu 1998, dựa trên các tài liệu trong số đó 2 tài liệu chính là: Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài & Hành Trình Và Truyền Giáo của giáo sĩ Đắc Lộ, hai tác giả Linh Phong và Hoàng Đình Hiếu thuật lại rằng:

a) Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có nói vào năm 1533, đời Lê Trang Tông, có một vương nhân tên là: Ine-khu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Châu và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy. Tuy nhiên cũng có truyền thuyết cho rằng, ngay từ thời kỳ đầu của giáo hội, đã có các môn đệ của thánh Tôma tông đồ xứ Ấn, theo tàu buôn của các xứ lân cận, đến truyền giáo cho người Việt ở quận Cửu Chân, thời nước Việt còn nội thuộc nhà Hán mà quan thái thú Sỹ Nhíp cũng gọi là Sỹ Vương, như sách Đại Việt Sử Ký nói, là Gia Tô Thập Tự. Ông chết 226 sau công nguyên, thọ 90 tuổi. Mộ của ông, 160 năm sau bị quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) đến chiếm phá, khi mở hòm ra, thấy xác vẫn còn nguyên như khi mới chết. Con cháu của ông vẫn tiếp tục giữ đạo cho đến đời thứ 5, rồi không rõ lí do gì mới chấm dứt.

b) Ngoài ra một sự kiện được giáo sĩ Đắc Lộ ghi lại trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, thì có lẽ đạo Công Giáo đã có mặt từ những ngày xa xưa:

“Một điều đặt biệt làm cho ta tưởng đức tin đạo Kitô đã gia nhập nước Đàng Ngoài này. Đó là khi một trẻ vừa lọt lòng mẹ thì người ta dùng mực hay phẩm hồng vạch thập tự trên trán. Lần đầu tiên tôi thấy vẽ trên trán đứa bé, tôi hỏi cha mẹ vì cớ nào làm như vậy. Họ trả lời là để cho ma quỉ (thù nghịch của đức bé) không làm hại trẻ hay gây tai hại cho đức bé. Tôi gạn hỏi thêm họ biết tại sao biết hình đó có phép trừ tà ma thì họ không thể đáp gì hơn là họ giữ một tục lệ có từ lâu đời mọi người trong nước này đều làm. Đây là một dấu hiệu khá hiển nhiên tỏ ra niềm tin vào đức Kitô xưa kia đã được rao giảng cho họ và ơn cứu rỗi bởi cây thập giá họ đã nhận được mà ngày nay họ còn kính cẩn giữ lại dấu hiệu.”

c) Theo tác Fernando da Soledade thì trong một bức thư của vua Lê Anh Tôn gửi cho đức giám mục Carneiro ở Macao để xin giáo sĩ tới Đại Việt truyền giáo, nhà vua có kể câu chuyện thập giá mới xảy ra ở kinh đô An Trường để chứng tỏ dân chúng đã sẵn sàng theo đạo. Số là dạo ấy ở kinh đô có một ông quan theo đạo, được rửa tội trong một chuyến đi sứ đến khu buôn bán của người Bồ. Trở về ông dựng một thánh giá trước cửa nhà mình. Mỗi lần đi ngang qua, ông kính cẩn dừng lại, vái 3 cái. Nhiều người chế giễu ông. Các sư sãi còn xúi giục chặt bỏ thánh giá ấy đi, nhưng người cả gan làm chuyện đó đã bị phạt chết. Câu chuyện được truỵền ra khắp nơi, dân chúng đua nhau dựng thánh giá trước nhà và lòng tin đạo lên cao. Nhà vua cũng truyền đem thánh giá bị chặt để gần thánh giá mới khám phá được trong một ngôi đền cổ, mà theo linh mục Nguyễn Hồng trong cuốn Lịch Sử Truyền Giáo Ở Việt Nam (Q1, tr.23, Hiện Tại xb, Sài Gòn, 1959), thánh giá của ông quan có đạo tên là Đỗ Hưng Kiểng, còn thánh giá tìm thây trong ngôi đền cổ là của Sỹ Nhiếp).

d) Ngôi đền này chính là chùa Dâu mà Trương Vĩnh Ký có ghi lại trong cuốn Cours d’Histoire d’Annam, tome I, Sàigòn, 1875, tr.27:

“Được biết gần nha môn của Sĩ Nhiếp xưa, có thành Luy Lâu là thủ phủ của Giao Chỉ thời Đông Hán, đến thời Tam Quốc đổi thành Giao Châu (nay thuộc Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) cách Hà nội chừng 30 cây số, có một ngôi chùa được coi là cổ nhất Việt Nam, xây vào thế kỷ thứ II sau công nguyên. Theo truyền thuyết, chùa được xây theo lệnh của Sĩ Nhiếp. Vào thời Lý Trần, chùa có tên là Thiền Định Tự, sau đổi là Diêng, rồi Pháp Vân, vì trong chùa có thờ tượng Pháp Vân là vị nữ thần nổi tiếng linh ứng khi cầu mưa (Pháp Vân là một trong tứ pháp: Pháp vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Nhưng dân chúng quen gọi là chùa Dâu, vì làng Khương Tự có tên nôm na là làng Dâu, mặt chùa hướng ra sông Dâu chảy qua làng:

Dù ai buôn bán đâu đâu,

Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về;

Dù ai buôn bán trăm nghề,

Nhớ ngày mồng tám thì về Hội Dâu.

[6] Walter Feinberg, Jonas F.Soltis, School And Society,Teachers College Press, 1985.p.18.

[7] Hương Giang Thái văn Kiểm, Giáo sỹ Trần Lục, trongnguyệt san Emmau do nhóm trẻ giáo xứ Việt Nam Paris, Mars1990.

[8] Nguyễn văn Trung, Chủ Đích Nam Phong, Nam sơn xb,Xuân thu tb, 1989, Ca, USA tr.139-141 (trích dẫn lấy từ bài “Gốc Luận” của Nguyễn văn Vĩnh trong Nam Phong tạp chí số2 ngày 22-5-1991.

[9] Nguyễn văn Trung, Chủ Đích Nam Phong.

[10] Voyage to Tonkin in the year Ất Hợi (1876), P.J. Honey,London School of Oriental and African Studies, 198[1].

[11] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngư, Nam sơn xb,Xuân thu tb, 1989, Ca, USA tr.115-116.

[12] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngư, Nam sơn xb,Xuân thu tb, 1989, Ca, USA, tr.81 & 114.

[13] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngư, Nam sơn xb,Xuân Thu tb, 1989, Ca, USA tr.115-116.

[14] Phạm thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên,tập 3, Đại Nam Co, Glendale, CA, USA, tb.tr.70.

[15] Phạm thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên,tập 3, Đại Nam Co, Glendale, CA, USA, tr.74-76.

[16] Huỳnh văn Tòng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Trí Đăng &Viện Đại Học Hòa Hảo, tr.55-56.

[17] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngữ, tr.23. Chủ ĐíchNam Phong. tr.105.

[18] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngữ, tr.95.

[19] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngữ, tr.99-101.

[20] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngữ, tr.63.

[21] Nguyễn văn Trung, Chữ Và Văn Quốc Ngữ, tr.69.

Những tài liệu liên quan tới Petrus Ký trên đây hầu hết đều tham khảo và trích dẫn từ cuốn: “Un savant et un patriote Cochinchinois: Petrus T.V.Ký” (J. Bouchot, 2ème édition, Nguyễn văn Của, 1927).