THẦY CŨ TRƯỜNG XƯA
Tô Văn Cấp
Tới tuổi ngồi tính sổ cuộc đời thì mỗi người trong chúng ta đều có những niềm vui và hãnh diện riêng, người thì hãnh diện với bằng nọ cấp bậc kia, người thì hãnh diện có nhà to cửa nhỏ, vợ đẹp con khôn. Còn đối với tôi, bước vào tuổi “cổ lai hy”, xét lại chẳng làm nên cơm cháo gì, nhưng tôi vẫn có ba niềm vui và hãnh diện, đó là: học trường Petrus Trương Vĩnh Ký, tốt nghiệp Võ Bị, và đội mũ xanh Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam.
Từ một chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” mà tôi dám nạp đơn thi “công-cua” vào lớp đệ thất trường Petrus Trương Vĩnh Ký niên khóa 1954-1955 với số thí sinh dự thi trên 7 ngàn mà chỉ lấy hơn 300 thì thật là liều mạng, tuy rằng trước khi di cư, tôi đang học lớp đệ thất trường Ngô Quyền Hải Phòng. Ngày coi bảng kết quả, tôi không có hy vọng gì, không dám nhìn từ trên xuống, mà tôi coi số thứ tự cuối cùng là 320 dò lên, dò tới số 200 chưa thấy tên, tới số 100, rồi 50, 21 vẫn không có! Mắt tôi bắt đầu nhòa, tim đập mạnh khi nhớ đến lời khuyên của anh tôi:
– Không thi đậu vào trường công thì làm sao có tiền để học tư!
Sắp hết rồi, chỉ còn 20 tên nữa thôi, tôi đọc được tên người trúng tuyển số 20 là Đàm Quang Hiển. Hiển và tôi trước kia cùng học với thầy cô Nguyễn Hữu Lãng và thầy Nhữ Đình Chu ở trường tiểu học Kiến An. Ngày đó thi tiểu học, Hiển đậu tôi trượt (rớt), tôi phải đúp một năm lớp nhất nữa. Ám ảnh quá khứ làm tôi lo lắng: “Nó đậu thì chắc mình sẽ rớt!”
Nhắm mắt ti hí ngó lên thêm một dòng nữa, số thứ tự 19 tôi thấy họ Tô, chân tôi muốn khuỵu xuống, nhưng đọc hết thì là Tô Văn Thình. Lấy tay đè lên ngực, tôi đọc số thứ tự 18: Tô Văn… Lần này thì tôi khuỵu xuống thật, hai tay ôm chặt lấy ngực để tim khỏi lọt ra ngoài, tôi thấy tên tôi trên bảng rồi, không cần biết số 17 là ai, tôi vụt đứng dậy, chạy một mạch về nhà báo tin.
Niềm hãnh diện đầu đời của tôi là thi trúng tuyển vào lớp đệ thất rồi học liên tục 7 năm và tốt nghiệp trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký (1955-1962).
Niềm hãnh diện thứ hai là sau khi đậu Tú Tài 2 thì tôi nạp đơn và được nhận vào Khóa 19 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Sau 2 năm trui rèn trong lò luyện thép, ngày tốt nghiệp thiếu úy, tôi lại may mắn chọn được một chỗ trong số 30 người về Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến. Niềm mơ ước về binh chủng này tôi đã có từ lâu, từ một người tôi vẫn coi là thần tượng, người anh rể Nguyễn Duy Xướng ở Tiểu Đoàn 1/TQLC. Ngày 23/ 11/ 1962, khi nhập trường Võ Bị, trong túi hành lý của tôi đã có cái mũ nồi xanh mà tôi xin của anh rể để mang theo.
Trước ngày mãn khóa (28/11/1964) là giai đoạn chọn đơn vị, gần 400 tân thiếu úy tranh nhau 25 chỗ dành cho Mũ Đỏ Nhảy Dù cố gắng. Tới phiên Mũ Xanh, khi hai Đại Úy TQLC là Đỗ Kỳ và Phạm Văn Chung thông báo chọn 30 tân sĩ quan thì hơn 300 thiếu úy đưa cao tay. Không biết làm sao giải quyết khi số cung vượt quá số cầu nên hai ông viết 60 lá thăm, ai bốc trúng thì vào vòng sơ tuyển. Đây là lúc tôi lo nhất, nếu không bốc trúng thì hỏng, nhưng thánh nhân đãi kẻ khù khờ, tôi bốc trúng 1/60 lá thăm.
Vào vòng chung kết, hai ông TQLC lại yêu cầu 60 thiếu úy trúng vòng sơ tuyển đứng dựa lưng sát vào tường theo thứ tự từ cao xuống thấp để họ chọn lấy 30 người cao mà thôi. Trước viễn ảnh bị loại vì không được cao, tôi phải nghĩ cách, cùng tắc biến, nội quy cấm SVSQ ăn gian nói dối. Nhưng tôi không còn là SVSQ nữa, đã là thiếu úy nên tôi kiếm giấy độn vào gót giầy cho cao thêm chút nào hy vọng chút đó, cuối cùng tôi vẫn đứng số 31, số 30 là Nguyễn Chí, tức Chí “trắng”, còn có biệt danh khác là “Chí Xịa”.
Đại Úy TQLC Phạm Văn Chung đứng trước mặt Nguyễn Chí và tôi quan sát để chọn người cuối cùng, tôi ráng nhón gót chân thêm chút nữa, khó phân biệt cao thấp, nhưng nhờ có nước da bánh gai, cái mặt lại có vẻ “gió sương” nên tôi, số 31, được chọn, còn Chí trắng số 30 bị loại.
Đó là niềm hãnh diện thứ ba tôi “trúng tuyển” về Binh Chủng TQLC. Được về TQLC mà lại trình diện Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên là mãn nguyện rồi. Nhờ trời thương, cả đời lính chiến tôi được thưởng 5 ngôi sao đỏ (chiến thương bội tinh).
Tuổi già sống kiếp tha hương, mong tìm về dĩ vãng, về nơi mình đã học tập, chiến đấu và bị tù đày trên quê hương, đó là những nơi đẹp nhất trong tâm hồn mỗi người, nhưng chúng ta không thể đến, không thể về nên chúng ta gặp nhau để kể lại cho nhau nghe, viết lên giấy để truyền tay nhau đọc, nên ngày nay ở hải ngoại, tôi tham dự đều đặn mọi sinh hoạt của hội cựu SVSQ Võ Bị, hội TQLC. Đến đó, tôi được nói và được nghe những kỷ niệm đời sống quân trường, biết tin tức chiến trường, đồng đội, ai còn, ai mất, nhưng chưa một lần được nói và nghe chuyện: “Thầy Cũ Trường Xưa” .
Mỗi lần có thông báo của hội cựu học sinh Petrus Trương Vĩnh Ký họp mặt thì lòng tôi lại “nao-nao” nhớ đến thầy cũ trường xưa, tôi rất muốn đến tham dự nhưng chưa bao giờ gặp được những bạn cũ, còn tên các vị trong hội thì toàn là những cái tên xa lạ, đó là lý do làm tôi ngại đến với hội.
Năm 2001, khi thấy tên Nguyễn Hồng Đảnh trong danh sách ban tổ chức họp mặt, tôi nghĩ là thầy Đảnh hơn 45 năm về trước, tôi gọi phôn cho thầy:
– Thưa tôi là Cấp, cựu học sinh Petrus Trương Vĩnh Ký, xin được nói chuyện với thầy Đảnh.
– Tôi là Đảnh đây, nhưng không phải là thầy, có lẽ bạn lầm rồi, có 2 Đảnh cùng lớp nhưng khác họ, giáo sư Phạm Ngọc Đảnh hiện ở bên Đức, còn tôi là công chức Nguyễn Hồng Đảnh hiện ở Bolsa*.
(*Anh Hồng Đảnh đã qua đời khi tôi viết bài này.)
– Không thầy thì huynh, quyền huynh thế phụ mà.
Anh Hồng Đảnh rất vui vẻ và nhiệt tình trong câu chuyện làm tôi thấy ấm lòng, vài ngày sau anh gởi cho tôi cuốn đặc san Petrus Ký năm 2000, kèm theo lời nhắn nhủ viết bài cho đặc san Petrus Trương Vĩnh Ký, nhất là những kỷ niệm thời học sinh.
Tôi thật xúc động khi đọc cuốn đặc san Petrus Trương Vĩnh Ký với những hình ảnh của trường xưa và nhất là khi nhận ra hai gương mặt quá quen thuộc, dù cho bao năm xa cách tôi vẫn thấy như các thầy đang ngồi nghiêm chỉnh trên ghế sau bàn giáo sư, đó là hình của hai thầy Phạm Ngọc Đảnh và thầy Trần Thượng Thủ.
Thầy Phạm Ngọc Đảnh thì lúc nào cũng tươm tất với nụ cười hiền lành, thầy Trần Thượng Thủ đầy đủ bề ngang, khiêm tốn bề cao, không bao giờ thầy cần lược để chải tóc, thầy ký tên là T.T.T (T3) nên chúng tôi gọi là thầy “Ba Tê”.
Về nội dung cuốn đặc san thì toàn là bài của các thầy cô như tài liệu giảng dậy đã được sửa soạn thật kỹ, nghiêm túc quá! Không tìm thấy chỗ nào có cái ồn ào, cái nghịch ngợm và phá phách của tuổi học trò khiến tôi bị khớp, không dám gởi bài, không trả lời cho anh Phạm Hồng Đảnh nữa và… lặn luôn.
Đầu năm 2003, nhân dịp về VN bốc mộ cho thân phụ khi nghĩa trang bị giải tỏa, tôi ghé thăm trường cũ lần đầu tiên sau 40 năm xa cách (1962-2003). Tôi đã lặng người khi bước chân qua cổng trường, cắn chặt môi để khỏi khóc thành tiếng khi ngồi trên bậc cầu thang gỗ. Chính nơi mà ngày xưa tôi đã ngồi khóc vì tụi nhóc học trò “Nam Kỳ” kỳ thị, chọc ghẹo, phá phách một thằng “Bắc Kỳ” con duy nhất cùng lớp đệ thất B1.
Ngoài cái cảm xúc riêng tư, tôi còn có nỗi buồn chung của bất cứ cựu học sinh nào khi nhìn lại ngôi trường mẹ, một bà mẹ già chỉ còn da bọc xương trong cơn hấp hối! Tôi nghĩ là nên kể lại những cảm xúc này cho những ai đã từng một thời là học sinh của ngôi trường Petrus Trương Vĩnh Ký thân yêu.
Đúng ra thì tháng 4 năm 1985, sau gần 10 năm theo học trường “Làm Súc”, may mắn không tốt nghiệp thành súc vật nên sau khi ra nhà tù nhỏ, tôi đã có dịp trở lại thăm trường cũ, nhưng người bảo vệ đã không cho vào, buồn thay!
Lần này, năm 2003, rút kinh nghiệm, tôi đưa mấy gói 3 số 5 đi trước thì được chấp thuận ngay. Người bảo vệ còn ân cần cho tôi biết muốn coi chỗ nào cũng được, muốn chụp thì chụp, muốn quay thì cứ thoải mái. Tội nghiệp quá, muốn về thăm trường cũ cũng phải hối lộ!
Tôi đến thăm trường vào sáng Chủ Nhật, “từng bước từng bước thầm”, như sợ những hòn sỏi dưới chân làm mất đi sự yên tĩnh, tôi dừng chân ở giữa sân phía trước, nhìn đảo một vòng từ phải qua trái, hình như có lực nào đó bắt tôi đứng yên, nhắm mắt lại, nghẹn lời, cổ họng co thắt thật đau.
Trường MẸ đây ư? Nơi tôi đã trải qua 7 năm học hành và tu luyện, mẹ tôi già quá rồi, răng long tóc bạc da nhăn nheo! Chưa yên, họ còn giải phẫu tàn phá dung nhan của NGƯỜI, cắt chỗ nọ, vá chỗ kia, thay tên đổi họ! Tôi sẽ phải thưa lại với các thầy cô và huynh đệ của tôi, hiện là những nhà phẫu thuật tài ba, những y bác sĩ mát tay, những thầy cãi giỏi, cùng tất cả những ai từng mài đũng quần trên ghế nhà trường rằng: “Trường Mẹ cần sống lại như xưa”. Có nhìn tận mắt mới thấy hết cái tiều tụy, hom hem bệnh hoạn của bà Mẹ bị mất “giấy khai sinh” đang chờ các con đòi lại.
Đứng từ ngoài đường Cộng Hòa nhìn vào thì sát ngay bên tay trái cổng chính, họ đã xây một căn nhà cho những người bảo vệ (X)! Căn nhà nhếch nhác này che khuất tầm nhìn vào tiền sảnh, mất hết vẻ đẹp và trang nghiêm, giống như cô nữ sinh bị đổ chàm lên nửa khuôn mặt xinh tươi. Chính diện đã luộm thuộm như thế thì các nơi khác ra sao? Cơn “gió đỏ” nào đã thổi bay đi những nét trang nghiêm, cổ kính của trường tôi?
Những cây bông sứ hoa trắng nhụy vàng xinh tươi ngày xưa nay đang trở thành những nàng cổ thụ già sống lây lất trong đám cỏ dại trông như những cây hoa đại ở các lầu đài hoang phế! Tôi bước lên bậc tam cấp, đứng giữa hành lang, đây là dẫy hành lang đẹp nhất trong tất cả các trường trung học và đại học ở Sài Gòn khi xưa, những viên gạch men trắng đỏ không còn bóng láng nhưng vẫn còn nét đẹp trang nghiêm và duyên dáng.
Tận cùng phía tay trái hành lang là khu văn phòng và là nơi hội họp của các giáo sư, ngoài cửa vẫn còn cái trống treo trên giá, không biết có phải cái trống gióng lên những tiếng “thùng-thùng” báo hiệu giờ vào lớp từ hồi tôi còn học lớp đệ thất hay không? Tôi yêu những hồi trống khoan thai nhịp nhàng khi tan trường hơn là tiếng chuông điện rộn ràng chói tai.
Hành lang nối văn phòng và phòng họp giáo sư
Tận cùng hành lang phía tay phải cũng là khu văn phòng, có bàn giấy của cô Ngà, cô thường mặc áo dài lụa Hà Đông màu mỡ gà, lúc đầu cô là giáo sư dạy vạn vật lớp đệ thất, sau cô đổi lên làm việc văn phòng. Trò nào nghỉ học không xin phép trước, ngày hôm sau trở lại trường thì phải đến gặp cô với lá thư xin phép nghỉ có chữ ký của phụ huynh. Nhiều khi cô biết đó là thư giả mạo nhưng cô vẫn lờ đi với nụ cười bao dung:
– Chữ ký này không được giống lắm với chữ ký của Ba con.
Con cám ơn cô Ngà, con đã trốn học nhiều lần không phải vì lười mà vì sợ giờ Pháp Văn của thầy Phạm Văn Ba. Con còn nhớ ngày đó cô và con cùng ở bên Khánh Hội, nhà cô ở đường Hoàng Diệu, còn nhà con ở hẻm 172/18 đường Lê Quốc Hưng, sáng nào đi học con cũng đi ngang cửa nhà cô, không biết nay cô có còn… và còn ở đó không?
Qua khỏi hành lang, bước vào sân chính giữa của trường thì ngay góc trái là một cái sàn gỗ, có lẽ dùng để làm sân khấu, tấm ván cong, miếng gỗ mục, đinh thì cái rụng cái lung lay! Hẳn là đã lâu ngày không có ai lên đó để nhảy “son đố mì”. (Một diệu múa du nhập từ Cộng Sản Tàu, dùng trong các buổi tập họp dân ở vùng bị Việt Cộng chiếm đóng.) Tôi không thể hiểu nổi cái thẩm mỹ và trật tự của những người có trách nhiệm!
Chính giữa sân, trên trụ xi-măng đá mài, xưa kia là bức tượng của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, người thầy của đạo lý và văn chương nay bị “cuồng phong” gió chướng thổi bay mất rồi, thổi bay cả những gì thuộc về văn hóa ra khỏi ngôi trường.
Hơn 4 ngàn năm văn hiến mà không kiếm được một danh nhân nào xứng đáng đặt tên cho một ngôi trường mà phải dùng đến biểu tượng nón cối dép râu! Quốc Tổ Hùng Vương còn bị kéo xuống cho bằng ngang phải lứa, “bác dựng nước, tôi giữ nước” thì nói chi tới những người tuy cùng da vàng máu đỏ nhưng cái đầu không đỏ thì cho “tất tần tật” vào tù. Không biết ông cụ Trương Vĩnh Ký của chúng ta bị “cải tạo” ở nơi nao và bao giờ mới tiến bộ để được tha về? Bao giờ Cụ được trả về chỗ xưa?
– Thôi, đừng đứng đó mà càm-ràm, họ chiếm chỗ của ta trong ngôi trường này, nhưng họ không bao giờ chiếm được chỗ của ta trong lòng các con, những cựu học sinh Petrus Ký, con hãy đi thăm trường cũ đi.
Tôi nghe như có tiếng ai nhắc nhở khiến bừng tỉnh giấc mơ, người và cảnh vật đã thay đổi nhưng ngôi trường cũ tên Trương Vĩnh Ký mãi mãi vẫn đẹp trong lòng mọi cựu học sinh. Nơi đây đầy tình thương, bao dung và nhân ái và cũng đầy đủ kỷ luật nghiêm minh mà bất cứ học trò nào cũng “ngán” nhưng lại rất hãnh diện về điều đó.
Bẩy năm mài đũng quần nơi đây nên đi đến đâu tôi cũng gặp những hình ảnh quen thuộc thật xúc động, hành lang lát gạch men trắng đỏ chạy thẳng tắp, không một bóng dáng học trò, hình như đang trong giờ học, chỉ thấy có thầy tổng giám thị Thử và thầy giám thị Tập cắp tay sau lưng đi tới đi lui canh chừng những chú nhóc nhảy qua cửa sổ trốn học. Ngang qua mỗi lớp tôi nghe như có tiếng giảng bài của thầy cô trên bục, tiếng khúc khích của học trò dưới cuối lớp, từng khuôn mặt các bạn học cũ với những kỷ niệm lần lượt trở về.
Bước theo những bậc cầu thang gỗ lên lầu hai, tôi đứng trước phòng học đầu tiên, đây là lớp đệ thất B1 niên khóa 55-56. Chính lớp học này là nơi tôi, một tên “Bắc Kỳ” duy nhất trong lớp, phải hứng chịu những chọc ghẹo do đồng môn “Nam Kỳ” gây ra mà cho tới nay, gần 60 năm sau, những kỷ niệm đau khổ ấy tôi vẫn nhớ, nhớ từng khuôn mặt của đám “nhất quỷ nhì ma thứ ba” là chúng, mỗi khi trông thấy tôi là bọn chúng la:
– Bắc Kỳ ăn cá rô cây! Bê-Ka bắn súng nục.
Lúc đầu thấy chúng ồn ào làm tôi sợ chứ có biết cá rô cây và súng nục là cái gì đâu! Sau này mới hiểu ra chúng nhạo báng sự nghèo nàn và nói ngọng giữa L và N làm tôi đau khổ thêm. Chưa hết chúng còn chế lời một bài ca để phá tôi:
– Từ Bắc zô Nam tay cầm bó rau, tay kia cầm sợi dây xích mà dắt con cầy!
Vì mới di cư từ Hải Phòng vào Sài Gòn, chưa thông thuộc đường đi nước bước, hơn nữa cơ quan làm việc của anh tôi nằm trong thành “Ô-Ma”, đối diện với trường Petrus Ký, nghe bạn đồng sở nói rằng đó là trường công lập danh tiếng khiến anh tôi nộp đơn cho tôi thi vào lớp đệ thất. Danh tiếng hay không chưa cần thiết, nhưng con nhà nghèo, nếu đậu và được học không phải đóng tiền là tốt rồi.
Tôi may mắn được trúng tuyển thứ 18/320 trong số hơn 7 ngàn hoc sinh dự thi vào lớp đệ thất niên khóa 55-56. Niềm vui và hãnh diện của một gia đình Bắc Kỳ di cư có con thi đậu vào trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký thật là hãnh diện, nhưng không ngờ đó lại là một đại họa đến với tôi, tôi lo sợ khi tới trường, khóc trên đường về. Sau một tháng chịu đựng không nổi, tôi xin với gia đình cho tôi bỏ học, anh tôi buồn và thất vọng lắm nên an ủi:
– Cố gắng theo học một vài tuần nữa xem sao, bỏ học ở đó thì lấy tiền đâu cho em đi học tư? Không lẽ nghỉ học đi bán “cà-rem” à!
Tuổi 14 mà được đi bán cà-rem thì vui rồi, tương lai túi đầy tiền, nhưng vẻ nghiêm nghị của người anh bắt buộc tôi phải tiếp tục con đường “thập tự giá”!
Mỗi buổi sáng tôi phải đi bộ từ Khánh Hội, qua cầu Mống, dọc theo đường Nguyễn Đức Chính, Phạm Ngũ Lão, xuôi theo đường Võ Tánh đến đường Cộng Hòa, rẽ tay phải là đến trường. Càng gần tới trường thì chân tôi như tê đi, không muốn bước thêm, rồi lững thững như một cái xác không hồn cũng vào tới lớp. Trong giờ học, khi ra chơi, lúc nào bên tai tôi cũng văng vẳng những câu: “Bắc-Kỳ ăn cá rô cây, bắn súng nục, cọng rau muống, từ Bắc zô Nam v.v…”
Nổi tiếng trong đám “quỷ sứ” chọc phá tôi là tên Nguyễn Xuân Thanh, tóc hớt ngắn, má có nốt ruồi đen, giọng khàn khàn, nói luôn miệng làm bọt trắng cả hai bên mép. Tôi nghe đồn nó là bà con với thầy giám thị Tập, nên tôi ghét luôn thầy Tập và đặt cho thầy cái tên “Bớ-Tí-Xồi”.
Đồng lõa với tên Xuân Thanh là “bè lũ ác ôn” mà cho tới nay tôi còn nhớ mặt đặt tên đến hơn nửa lớp, không hiểu vì lý do gì mà tôi nhớ dai những cái tên và họ của chúng nó đến như thế? Có thể là do mối “hận ngàn thu”. Kể ra thì dài dòng nhưng đã gần 60 năm, nhắc đến họ như một lời thăm hỏi chân thành quý mến thay cho mối thù xưa, dù là bạn đã mất hay còn lang thang khắp Năm Châu, xin một lần gọi tên các bạn sau:
Cao Hoàng Anh, Lê Văn Ba, Ngô Văn Bê, Nguyễn Ngọc Bửu, Đặng Văn Cảnh, Nguyễn Đức Cần (K19VB*), Cẩn, Phạm Thượng Chí (K19VB*), Nguyễn Đồng Chí, Lê Văn Chiểu (K19VB), Vương Bình Dzương, Đạt, Đặng Chiếu Điện, Lê Đình Điển (K19VB*), Huỳnh Văn Đởm, Bùi Mạnh Đức, Đinh Văn Hòa, Phạm Đức Hòa, Phan Chi Hảo, Hoàng, Huệ, Hùng, Hưng, Đinh Văn Hơn (K19VB), Hoàng Gia Hiếu (K19VB), Khoa (lé), Phan Ngọc Khải, Khiết, Khôi, Lê Văn Kiệt (K19VB), Lý Chi Lan, Phạm Huỳnh Tam Lang, Phan Thành Long (Long trên), Trần Quốc Long (Long dưới), Huỳnh Văn Ngày, Ngô Văn Nô (K19VB*), Ngô Minh Quan, Trần Văn Quây, Bùi Vĩnh Thạnh, Võ Thạnh Thời, Thắng, Nguyễn Thành Tư, Nguyễn Ngọc Tư (K20VB), Tô Văn Thình, Lê Quan Trường (K19VB), Nguyễn Tấn Tờn, Nguyễn Tấn Kinh, Hoàng Luyện Huỳnh Hữu Duy Toản, Phan Bá Vân, v. v…
(K19VB: Khóa 19 Võ Bị. K19VB*: Khóa 19/VB đã tử trận.)
Tôi nói họ đồng lõa với nhau vì chúng cùng la hét đập bàn cười nhạo báng mỗi khi giáo sư Pháp Văn Phạm Văn Ba bắt tôi đọc “đích-tê”.
Năm 1953-54, khi còn học lớp đệ thất tại trường trung học Ngô Quyền, Hải Phòng, thày Pháp Văn dạy chúng tôi đọc “manh” (main) là bàn tay, “ma tanh” (matin) là buổi sáng, còn trong Nam thì đọc là “me” hay “ma te”. Không những chỉ bị học trò nhạo báng mà cả thầy cũng cười, thầy Ba bắt tôi phân tích mệnh đề “a-na-li-zê grammatical”! Trời ơi là trời! Tới giờ Pháp Văn của thầy Ba là như tôi sắp bị đem lên đoạn đầu đài, đó là lý do tôi trốn học.
Ngoài chuyện nhạo báng tôi dốt tiếng Pháp, nói “nẫn-nộn” hai chữ L và N (sau 1975 tôi lại cười đồng hương BK 75 của tôi), chúng còn dở thói vũ phu. Ngồi sau lưng tôi là các tên Nguyễn cài giấy vào lưng quần tôi rồi châm lửa đốt, rồi chúng tuyên bố đốt pháo cột đuôi trâu như trong truyện Tàu cho ngưu xung trận! Hận lắm nhưng đành ngậm miệng. Sau này khi tôi là Trâu Điên thực sự (TĐ2/TQLC), tay cầm súng “nục”, đi tìm chúng để trả thù, bắn cho nát mông thì chúng đã là lính Hải Quân, lính KQ có súng to và dài nên lại sợ, còn thằng nào về TQLC với tôi thì cùng tôi đi đánh nhau với VC.
Tôi vốn dĩ là dòng dõi con nhà nghèo, cái áo sơ-mi trắng bị chúng vẩy mực tím loang lổ nhưng vẫn mặc, rách sau lưng mẹ chưa kịp vá cũng vẫn phải mặc đi học, những tên Nguyễn này đưa ngón tay vào móc cho rách thêm! Tôi đâu dám thưa thầy, giận tím gan mà đành mặc áo rách ra về, miệng lẩm bẩm chửi thề. Những tên này hiện nay đang ở Houston TX. Chúng tôi vẫn liên lạc với nhau, chửi thề rồi cười vang trong điện thoại.
Suốt thời gian đệ nhất tam cá nguyệt của niên học, tôi mất tinh thần, như một con cù-lần lúc nào cũng gục mặt xuống bàn ở cuối lớp học, đội sổ liên tục khiến ông anh vừa ký vào sổ học bạ vừa thở dài lắc đầu buồn bã!
Tôi cũng buồn lắm, nhưng dứt khoát là phải bỏ học thôi, có mấy thằng bạn hàng xóm ở hẻm 172 Lê Quốc Hưng Khánh Hội, Quận Tư, đã chỉ cách đi bán cà-rem hoặc theo bọn chúng ra bến Nhà Rồng bám theo dây leo lên boong các tàu buôn phá phách, cảnh sát Thương Khẩu bắt gặp thì tụi tôi sẵn sàng “bờ lông-nhông” xuống sông, chúng dậy cho tôi hút thuốc lá Craven “A”. Máu du côn bến tầu Khánh Hội theo tôi vào lớp, không chịu làm con cù-lần nữa mà phải vùng lên để hy vọng “được” đuổi học.
Một buổi sáng, bước lên cầu thang mà lòng tôi nặng trĩu, giờ Pháp Văn đang chờ mà tôi thì có hiểu gì đâu! Đã vậy trong lớp lại có một thằng cùng họ Tô là Tô Văn Thình thì giỏi Pháp Văn nhất lớp, khi Tô Cấp đứng im lặng cúi đầu thì thầy Ba gọi Tô Văn Thình giảng cho tôi và cả lớp nghe. Tô này xấu hổ và giận lây sang Tô kia thì bỗng nghe có tiếng chọc ghẹo phía sau lưng:
– Ê, ê Bắc Kỳ ăn cá rô cây…
– Quê hương tao, Bắc Kỳ nhào vô quá nhiều, bên bờ mương, bên bờ ao chúng trồng rau “muốn”…
Như một cái máy, không cần biết người nói, người hát đó là ai, tôi vung mạnh cái cặc-táp về phía sau lưng và trúng mặt hắn. Tôi đang đứng ở bậc thang phía trên, tiện chân tôi đạp vào ngực hắn, hắn lăn xuống chân cầu thang và gãy mất một cái răng cửa nên sau này có biệt danh là “Thanh sún”. Tôi bị trình diện thầy tổng giám thị và thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Trương.
Tuy mới chỉ học lớp đệ thất thôi nhưng vì muốn “được” đuổi học nên tôi không còn sợ như trước nữa mà cãi lung tung, nào ngờ đã không bị đuổi mà các thầy còn bắt trò Thanh xin lỗi và hứa không được kỳ thị nữa. Nhưng để duy trì kỷ luật, hai chúng tôi bị “cồng-si-nhê”, mỗi thằng được 2 hột vịt đựng trong hộp (0-0), sáng Chủ Nhật vào trường ngồi học 4 tiếng.
Kể từ sau ngày đánh lộn, tôi hết bị chọc ghẹo, chuyện kỳ thị Bắc-Nam không còn trong đám học trò nữa, chúng tôi chơi thân với nhau hơn. Nhờ đó, từ vị trí đội sổ, thứ hạng trong học bạ của tôi nhích dần lên và trụ lại ở hàng “top-ten”, rồi đậu Trung Học, Tú Tài 1, Tú Tài 2. Nếu như ở môi trường khác, không có tình thương và kỷ luật nghiêm minh thì có lẽ tôi đã trở thành đứa trẻ bụi đời ở bến tàu Khánh Hội, quận Tư, Sài Gòn rồi, làm sao có được niềm hãnh diện là cựu học sinh Petrus Ký để viết lại những kỷ niệm này.
– Con xin cám ơn thầy Hiệu Trưởng, thầy Tổng Giám Thị và tất cả các thầy cô đã dạy con trong 7 năm trời, xin kính dâng những nén nhang lòng lên quý thầy cô đã quy tiên, xin kính gửi lời chào, thăm hỏi và nhắc đến những thầy cô mà đã gần 60 năm con vẫn chưa quên quý danh và hình dáng các thầy cô.
Thầy Pháp Văn Phạm Văn Ba là giáo sư tôi sợ nhất trong số các thầy cô vì lý do tôi rất dốt môn này, nhưng nhờ con trai của thầy là Phạm Thượng Chí (Chí Tây lai) khuyến khích tôi học thêm Pháp Văn tại gia mà sau này tôi khá hơn, biết chia vẹc-bờ aller “ira, irong, irê”. Tuy nhiên tôi vẫn không hiểu tại sao cái cà-vạt của ông Tây thắt cổ thì lại là giống cái “la”, còn cái “sắc” bà Đầm cầm tay thì lại là giống đực “le”?
Một kỷ niệm khó quên với thầy Ba mà có lẽ nó ảnh hưởng đến cái tính “tối dạ” của tôi sau này. Khi thày bảo tôi dịch câu “table libre” ra tiếng Việt, mặc dù tôi hiểu nghĩa “table” là cái bàn, còn “libre” là tự do, nhưng không biết dịch ra tiếng Việt sao cho xuôi tai. Không lẽ lại dịch là “cái bàn tự do”! Nghe tôi trình bày, thày nhíu mày nói:
– Sao trò tối dạ thế, “cái bàn tự do” là cái bàn còn trống, chưa có ai ngồi, người nào muốn ngồi vào thì cứ tự do, có thế thôi mà cũng không hiểu.
Quả thực là tôi tối dạ và cho mãi đến bây giờ tôi vẫn còn tối dạ như thế, chẳng hiểu được lý do tại sao cộng đồng người Việt bị VC đuổi chạy té khói ra hải ngoại mà vẫn còn những người tai to, mặt lớn lòn trôn quỳ gối để xin chúng ban cho cái danh “Zịt-Cừu iêulước!”
Môn Anh Văn có thầy Đồ và thầy Thái.
Thầy Đồ không cho học sinh nói tiếng Việt trong giờ học, thầy luôn luôn nhắc nhở muốn nói, hỏi cái gì thì giơ tay lên: “If you want, put your hand up.”
Mới chỉ bập bẹ “what is this? This is Jack, Jack is a boy, boy is a person, person is not an animal” thì làm sao biết nói bằng tiếng Anh câu muốn hỏi, thôi đành im lặng. Vì thế cho đến nay tôi vẫn nói tiếng Mỹ bằng tay!
Thầy Thái thì lúc nào đầu tóc cũng chải brillantine láng coóng, sắc diện luôn “hồng hào”. Học trò của thầy phải viết lại tất cả những danh từ ở sau cuốn “6ème-bleu” và phần phiên âm quốc tế cong queo rồi thêm nghĩa tiếng Việt vào là thành cuốn tự điển của mình!
Dạy Sử Địa có 3 vị là cô Sâm hiền lành dễ thương, cô Thiên Hương trẻ đẹp, cô (bà) Dung không bao giờ cười, trò nào lên bảng cầm cục phấn vẽ con sông từ cửa sông trở lên nguồn là cô cho ăn hột-vịt muối. Khi phát bài thi, cô luôn gọi từ điểm thấp lên cao nên các trò hồi hộp ngồi chờ mong cô gọi tên mình cuối cùng.
Thầy Lê Trọng Phỏng còn rất trẻ và phong lưu với áo sơ-mi gài mang-sết, thắt cà-vạt và đi cái xe đạp có cái vành sau cong-cong! Thầy chạy phía trước, trò đạp xe theo sau trên đường Hồng Thập Tự để xem cái bánh xe sau của thầy nó “lắc lắc” thật dễ thương.
Thầy Tạ Ký và thầy Thái Chí dạy Việt Văn, một lần trước giờ học của thầy Tạ Ký, tên Nguyên Xuân Thanh (vẫn là nó) vẽ trên bảng đen một bao gạo với chữ “100 kg” thật to, khi vào lớp thầy đứng ngắm bao gạo rồi lắc đầu mỉm cười mà không thèm hỏi thủ phạm là ai, chắc hẳn là thầy hài lòng với lối khôi hài của đám học trò quỷ quái.
Thầy Thái Chí rất yêu trò và cũng thương chó, thầy ở độc thân trong một villa cũ kỹ gần trường trung học Kỹ Thuật Cao Thắng. Khi chúng tôi đến thăm thầy thì thấy có quá nhiều chó mèo, thức ăn và đồ phế thải vung vãi khắp nơi, môi trường không được thơm tho nên vài trò có ý định “heo” thầy một tay, bèn hỏi:
– Sao không có ai dọn cứt… vậy thầy?
Thầy cười cười rồi bảo:
– Thầy mà dọn những thứ đó thì ai soạn bài để dọn cái đầu của mấy trò?
Câu hỏi vô duyên của trò được thầy giải đáp quá là văn chương và thâm thúy. Lúc đó tôi không biết lý do tại sao thầy sống độc thân mà lại nuôi nhiều pet. Nay thì tôi hiểu và chắc nhiều trò ở vào tuổi 60 cũng muốn theo gương thầy cũ, pet không bao giờ biết cằn nhằn và trách móc, ngược lại thì…! Vì trong đặc san Petrus Ký 2000, cô (bà) Phượng có viết một đoạn như thế này:
-If your dog is barking at the back door and your wife is yelling at the front door, who do you let in first?
– The dog, of course, he will shut up once you let him in.
Quả là chí lý, không ai hiểu nhau bằng chính các chị.
Môn Lý-Hóa có thầy Đảnh và thầy Đính, cả hai thầy còn rất trẻ và đẹp-zai, hình như mới tốt nghiệp từ trường Đại Học Sư Phạm ở bên cạnh trường Petrus Trương Vĩnh Ký.
Thầy Đảnh thì tóc tai mượt mà óng ả, miệng lúc nào cũng cười, còn thầy Đính thì mốt hơn, mái tóc bồng bềnh, đôi bốt cao-cao, nghiêm nghị hơn, trò nghe tiếng giầy của thầy kêu “cộp-cộp” ngoài hành lang là ngưng đánh cờ ca-rô ngay, nếu để bị thầy bắt gặp thì thầy sẽ hỏi “HO2” là chất gì? Trò nào nhanh nhẩu đoảng thưa thầy đó là Nước (H2O) là được thầy cho ăn 2 trứng vịt ung ngay. Thú thật cho đến giờ này tôi cũng không biết cái chất ký hiệu “HO2” là cái giống gì, có vẻ như viết tắt của chữ “2 hột vịt”.
Thầy Bích, thầy Giỏi, thầy Quý, thầy Sum lo về thể chất, tôi nhờ có đôi bàn tay biết “nâng” banh chính xác nên thầy Bích tuyển tôi vào đội bóng chuyền, buổi đầu thi đấu với trường Đại Học Dược Khoa, Petrus Ký thua liền 3 séc. Đội tuyển đá banh của thầy Giỏi có Phạm Huỳnh Tam Lang phòng thủ, Duy Toản trung phong còn tôi thì nhờ kinh nghiệm lúc trước leo cửa sổ, trèo tường nhanh để trốn học giờ Pháp Văn nên thầy cho tôi chạy “tả biên và hữu biên ngoại” tức là biên ngoài, chạy ngoài sân để lượm banh.
Vị thầy đáng kính và quan trọng đối với lớp Đệ Nhất B chúng tôi là thầy dậy hình học Nguyễn Văn Binh. Thầy không giảng lý thuyết, cũng không bắt học trò trả bài, nhưng trò nào cũng phải cố giải cho được những bài toán ở trang sau cuốn toán “Le Bốt-Xê”.
Vừa vào lớp là thầy gọi một trò lên bảng giải bài toán mà thầy đã cho tuần trước, nhiều khi gặp bài toán khó, cả thầy lẫn trò cùng bóp trán suy nghĩ. Thầy thật bình dân cùng trò tranh luận đúng sai, cuối cùng, nếu không có lối thoát thì lúc đó thầy mới mang bửu bối ra, đó là tập tài liệu phương pháp giải những bài toán khó do thầy biên soạn rất công phu và dự tính sẽ in thành sách sau này.
Ban B thì toán là quan trọng nhất, hệ số 3, đi thi Tú Tài mà làm trúng bài toán thì coi như kết quả đạt 50% đoạn đường. Học với thầy Binh không có vấn đề trúng tủ, vì thế kỳ thi Tú Tài 1B năm 1961, học trò lớp đệ nhị B1 của thầy đậu 95%. Đậu bình và bình thứ là những tên: Trương Bá Hùng, Trương Trung Nguyên, Trương Quang Tuấn, Cao Thanh Tòng, Lê Quan Trường, Phan Ngọc Khải, Trần Xuân Kiêm, Bùi Vĩnh Thạnh v.v..
Đậu hạng thứ gồm có: Tô Văn Cấp, Lê Đình Điển, Đinh Văn Hơn, Ngô Duy Khiêm, Lý Chi Lan, Lý Trần Tôn Thân, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Thành Tư, Phan Chi Hảo, Trần Xuân Lộc, Nguyễn Hữu Nhất, Đoàn Văn Chấp, Đinh Văn Hòa, Phạm Đức Hòa, Nguyễn Tấn Hưng, Trần Văn Quây, Lâm Trường Thương, Đặng Chiếu Điện, Nguyễn Võ Kỵ, Lý Thành Phương, Trịnh Thành, Lê Văn Chiểu, Võ Thạnh Thời, Huỳnh Văn Ngày, Hoàng Luyện Huỳnh Hữu Duy Toản (tên thật dài), v.v… Đến kỳ thi Tú Tài 2B năm 1962, lớp của thầy Binh đậu 98%
Tôi chỉ còn nhớ được bấy nhiêu thôi, trong số những người kể trên, có tên đã hy sinh ngoài chiến trường, ra đi vì bệnh (dù không hoạn), những người còn lại thì đang từng bước từng bước thầm, không cần chờ “người yêu đến” mà từ từ tiến đến mục tiêu cuối cùng! Ước chi gặp nhau để ôn chuyện cũ. Nếu không, xin hẹn tất cả về tề tựu đông đủ vào niên khóa 2055-56, kỷ niệm 100 năm nhập học lớp đệ thất B1 (1955-56) dưới mái trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký, viết tắt là L.P.K.
Cháu chắt các bà Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt thường trù ẻo đám L.P.K là “Lũ Phơi Khô”, tưởng họ nói chơi cho vui, nào ngờ độc mồm độc miệng khiến ngày nay chuyện đã trở thành sự thật, đám L.P.K ngày xưa ấy, nay tuy mới bước vào tuổi lục thất tuần thôi mà trò Petrus Trương Vĩnh Ký nào cũng khô như cá mắm, khô cả thể xác lẫn tình cảm. Kẹt ở chỗ gia đình cụ Petrus Ký thường kết thông gia với gia đình các cụ Gia Long, Lê Văn Duyệt nên nếu chúng tôi bị “khô khan” thì không phải lỗi ở chúng tôi, hai họ cùng bị thiệt hại chung chớ riêng một mình ai đâu!
Tôi đứng tựa vào lan-can trên lầu, chỗ ngày xưa chúng tôi vẫn dựa trong giờ ra chơi, nhìn qua dẫy lầu đối diện, nhìn xuống sân trường, những bộ đồng phục áo trắng quần xanh ngày xưa đi đâu cả rồi? Nay chỉ là một toán em nhỏ quàng khăn đỏ đang tập múa hát theo bản nhạc “Sóc-Băm-Bô”, bản nhạc tôi quá quen thuộc trong những ngày ở tù trên núi rừng Việt Bắc khiến tôi không còn hào hứng chụp những tấm hình như dự định, tôi đi xuống lầu, vòng ra cửa sau, cái cửa mà 60 năm về trước chúng tôi chen chúc xô đẩy tranh nhau mỗi khi tan trường.
Bẩy năm ra vào cổng này mà nay tôi không còn nhận ra đâu là đâu! Tứ bề bị bịt kín bởi những căn nhà lầu của công nhân viên (?), không còn nhìn thấy khu trường đại học, trường Chu Văn An (cũ), không thấy thư viện Quốc Gia, sân vận động, bãi đất trống nơi các “vận động viên” của thầy Bích tụ tập ngốn bò khô, đổ xí-ngầu-lắc, uống nước mía, nước đá nhận. Các bạn còn nhớ nước đá nhận là gì không? Nước đá bào thật nhuyễn, ấn vào ly cho chặt, nhỏ vào đó vài giọt xi-rô đỏ, vừa đi vừa mút là chúng ta có được đôi môi mọng đỏ, đâu cần phải len lén bôi tí son lên môi như mấy cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt khi đi học.
Hai hàng cây sao cao vút vẫn còn (may quá)! Vẫn thả những cánh hoa xoay chong chóng, nhưng những dẫy nhà để xe đạp của học sinh không còn nữa mà là những dẫy nhà lầu của ai (?). Từ những hàng cây sao vào tới chân tường các lớp học ngày xưa thì nay như bãi hoang với vài mái tôn ngả nghiêng trên những cọc gỗ xiêu vẹo!
Nhớ lại khu vực để xe, ngày xưa đa số là xe đạp, loáng thoáng một vài xe mobylette, solex, sash, torpedo, hồi đó chưa có xe honda, đây là nơi Bắc Kỳ tôi giải quyết ân oán giang hồ, thân cô, thế cô nên tìm cách phục kích “lũ ác ôn”, kẻ yếu trừng trị kẻ mạnh. Chỉ một cây kim băng thôi, đi nhẹ một đường “nhất kim chỉ” là khi tan trường, tôi có quyền nhếch mép mỉm cười nhìn địch thủ nhăn nhó đẩy xe vê-lô xì-lốp đi vá. Thế võ này gọi là “vê-lô xì-lốp” được mang từ Liên Xô về.
Bây giờ họ không cần nhà để xe nữa, tận dụng lề đường mặt tiền nhà trường làm bãi để xe, còn bộ hành, khách đi đường thì phải đi dưới đường là đúng rồi chớ tại sao “khách đi đường” lại đi trên vỉa hè? “Kách mệnh” là như thế!
Tầng 2 bên tay trái là phòng sinh họat Hiệu Đòan
Trước khi trở về thăm trường, trí tưởng tượng của tôi vẫn là ngôi trường nguy nga nằm trên đường Cộng Hòa với những cậu học trò áo trắng quần xanh, mang trên nắp túi áo “anh-xin” bản đồ nước Việt Nam, cây viết và văn bằng cuốn lại, đẹp hơn huy hiệu hình hoa mai vàng nhiều. Những hình ảnh quen thuộc đáng yêu làm tôi háo hức nôn nóng phải về thăm trường cũ như đứa con xa nhà lâu ngày mong về thăm cha mẹ hay lãng mạn một tí, cậu Petrus Trương Vĩnh Ký đi du học Mỹ mong về để thăm người yêu. Nhưng thật buồn như khi người thân đã mất, trường Mẹ bị bệnh nan y! Thực ra ai cũng đoán được điều đó nhưng mong quá hóa ảo.
Kính thưa quý thầy cô, thưa các huynh trưởng cùng các bạn đồng môn
Có nhìn tận mắt mới thấy xót xa và sự phục hồi sức khỏe cho trường Mẹ là cần thiết. Những ai đã từng dậy và theo học tại ngôi trường này, dù lâu hay mau, dù thành đạt hay chỉ là những công nhân, quân nhân, dù xu hướng chính trị khác nhau nhưng mọi người đều phải có trách nhiệm ít nhiều về cái tên trường “Petrus Trương Vĩnh Ký”.
Một lời kêu gọi, nhiều người hưởng ứng, một chữ ký đòi lại tên trường sẽ có ngàn ngàn chữ ký tiếp theo, cho dù người đối thoại với chúng ta luôn luôn mang máy trợ thính với cái nút nghe lúc nào cũng vặn về OFF, nhưng rồi có lúc máy nghe cũng phải hết pin, chắc chắn trong tương lai, chúng ta lại được gọi tên Người. Lúc đó thầy mang hộp sơn, trò cầm cây cọ, chúng ta cùng về sơn lại mái trường, xóa cái tên “Hồng Phong”, trả lại tên trường là Trương Vĩnh Ký.
Một tập thể chỉ có thầy cô và cựu học sinh Petrus Ký, không có ông nọ bà kia, không có anh Năm chị Sáu, không có ông trưởng bà phó, chỉ có tiếng kêu cứu của thầy và trò thì sẽ vọng lên tới Thiên Đình. Tin tưởng vào lòng người, nào xin mời quý thầy và đồng môn hát: “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường. Kiếm nguồn tươi sáng. Ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông. Từ nay ra sức anh tài. ..”
Lời cuối xin quý thầy cô và đồng môn tha thứ cho những lầm lỗi và thiếu sót, xin gởi lời thăm và nhớ lại “những ngày xưa thân ái”./.
Trường Petrus Trương Vĩnh Ký
Niên Khóa 1955-1962