Kỷ Niệm Vui Buồn Với Các Anh Không Quân

Tô Văn Cấp

Kể từ sau khi đọc xong cuốn “Ðời Phi Công” của tác giả Toàn Phong, mỗi buổi sáng thay vì chạy bộ như thường lệ thì tôi lại dang thẳng hai tay nghiêng cánh sắt, khi nghiêng bên phải lúc nghiêng trái chạy vòng vòng, môi chúm lại, phát ra những tiếng “ù ù”, chúi đầu về phía trước, bắn súng miệng: “pằng-pằng”. Mê Không Quân (KQ) đến như thế nên khi Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ đến trường Petrus Ký thuyết trình và chiêu dụ thanh niên chọn con đường “đi mây về gió” là tôi nạp đơn tình nguyện liền, mặc dù lúc đó mới đang học lớp đệ nhất. Vì thiếu kinh nghiệm khi đi khám sức khỏe tôi không biết phải uống 2 lít nước trước khi bước lên bàn cân. Vì thế, tôi bị loại vì không đủ 50 kg.

Thua keo này bày keo khác, vừa hoàn thành “tú-đúp”, tôi lại nạp đơn ngay. Rút kinh nghiệm thất bại kỳ trước, kỳ này tôi uống thật nhiều nước, một lít nước nặng 1 kg chứ ít sao. Ông trung sĩ có phận sự cân đo kích thước và sức nặng của các thí sinh biết được “tẩy” của những chàng nhẹ ký nhưng nặng tình với KQ nên ông ta cứ tà-tà, không đi đâu mà vội! Chỉ tội nghiệp cho người chuẩn bị đứng trên bàn cân, vì đã trót uống hai chai nước nên phải ôm bụng nhăn nhó đau khổ vì có thể bị “tức nước vỡ bờ” bất cứ lúc nào.

Khám sức khỏe xong thì tôi hồi hộp chờ đợi, cuối cùng niềm vui cũng đến, tôi nhận được giấy Trường Võ Bị gọi trình diện tại Biệt Khu Thủ Ðô hôm trước thì hôm sau nhận được giấy KQ gọi trình diện trại Phi Long Tân Sơn Nhứt, “phúc trùng lai”, biết tính sao bây giờ?

Tôi trình bày rồi hỏi ý kiến “Bà Mẹ Quê”, thì Bà bảo:

– Con đi lính “bay bay” làm mẹ sợ lắm! Con lên Ðà Lạt mà học, trên đó có chị con lo cơm nước cho, sau này nhờ anh con xin cho làm ở Ðà Lạt cho mẹ an tâm.

Nghe lời khuyên thật thà “chân quê” của Mẹ, tôi thương Mẹ quá, thôi thì mộng giang hồ tính sau, trước mắt tôi quyết định đi Võ Bị cho Mẹ an tâm, dù lòng vẫn muốn Không Quân. Chính vì tình dở dang với KQ, nên dù đã là Võ Bị, là TQLC, tôi vẫn yêu mến KQ, rất hãnh diện được làm quen, biết với những chàng KQ tử tế và hình như họ đều như thế cả.

Người đầu tiên tôi phải kể là tên Nguyễn Xuân Thanh, tuy cùng lớp, chung trường Petrus Ký nhưng nó giá sống, tôi rau muống, nên nó và đồng bọn “ác ôn” hành hạ tôi vô cùng khốn đốn. Người xưa có nói: “Trăm năm trả thù vẫn chưa muộn” nên tôi chờ sau khi tốt nghiệp Võ Bị, tình nguyện về TQLC rồi mới đi tìm tung tích hắn. Gần 50 năm sau bất ngờ chúng tôi đụng nhau trên đường Bolsa. Nó lái Honda 90 từ Oklahoma, đường xa vạn dặm, về Little Sài Gòn dự Ðại Hội KQ.64, thế là ác chiến xẩy ra tại chiến trường “bún chả Hà Nội”, vui như Tết.

Một người cùng lớp Petrus Ký khác là Nguyễn Quang Kim. Anh ta đi Khóa 17 Võ Bị rồi được chọn về KQ. Khi tôi vào Võ Bị thì Kim là khóa đàn anh và dĩ nhiên tôi được anh ta phạt nhiều hơn. Ban ngày phạt nhưng tối đến, anh làm bộ đi kiểm soát, ghé vào phòng tôi nạt nộ: “Sao giờ này chưa đi ngủ?” rồi dúi vào mùng tôi bịch kẹo Nougat (quý hơn vàng). Nghe nói Niên Trưởng Kim bay khu trục nhưng không biết “giờ này anh ở đâu?”

Nhớ về KQ Quang Kim mà không nhắc đến các “Hung Thần” KQ/K17 khác là một điều thiếu sót: Ðó là các “Ông” Duy Diệm, Võ Ý, và Tiến Ðức.

Hai ông Duy Diệm và Võ Ý là “đồng tù” của tôi nên các ông thương đàn em lắm, thương dài dài cho mãi tới nay. Gặp nhau đâu là ông Diệm đứng nghiêm chào tôi trước rồi mới mỉm cười sau. Ông đẹp giai, lái giỏi, lại có tài chơi Lục Huyền Cầm. Nay tuy không còn trẻ như xưa, nhưng “đàn” nào cần đánh thì ông sẵn sàng giúp ngay. Vì thế có tên đàn em “giỡn mặt”, khen ông chơi đàn “Lục Thiên Huyền Cầm” không biết mệt, đứt giây nào bỏ giây đó.

Còn ông có cái tên ngắn nhất thế giới là Võ Ý, tôi gọi ông là VOY, vì khỏe như voi nên gánh vác việc chung, việc riêng không biết mệt. Ông vừa lái vừa viết, cả hai đều cần tài “lách” khéo léo của ông. Ông là người “dẫn đường” cho tôi đi.

Nếu hai ông Diệm-Ý chỉ cười thì ông Tiến Ðức là “Hung Thần” thật sự. Chiều ngày 22/12/1962, Sinh Viên Sĩ Quan Cán Bộ Nguyễn Tiến Ðức K17, cho tập họp tân khóa sinh Khóa 19 trước phạn điếm (nhà ăn), ông đứng trên bục cao, mắt “eagle” liếc qua liếc lại đám lính mới rồi gằn giọng:

– Hôm nay có chương trình văn nghệ để chúc mừng các tân thiếu úy Khóa 16 vừa tốt nghiệp, các anh mới chỉ là Tân Khóa Sinh, được trường cho tham dự, vì vậy các anh phải tuyệt đối tuân theo kỷ luật: Ngồi thẳng lưng, cấm vỗ tay, cấm cười, nghe rõ chưa?

– Rooooõ.

Hằng trăm tiểng hô “rõ” kéo dài vang cả sân trường!

Chiều văn nghệ chấm dứt, các tân sĩ quan K16 cùng thân nhân và người yêu tíu tít cười nói ra về thì tân khóa sinh Khóa 19 nghe lệnh tập họp với tâm trạng “buồn lo”!

Buồn vì các Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) K16 đã là thiếu úy, còn chúng tôi mới chỉ nhập trường vừa tròn tháng (23/11/62), mong sao cho thoát 8 tuần “hành xác”, được là SVSQ mừng lắm rồi, còn thiếu úy ư? Ðường trường xa! Chuyện trước mắt là lo chuẩn bị tinh thần và thể xác để nhận hình phạt, dù chúng tôi có ngồi yên như “phỗng đá” thì vẫn bị phạt. Mỗi tối trước khi đi ngủ là phải chạy, nhảy, hít đất, không có bất cứ lý do gì cũng bị phạt. Các “hung thần” chỉ trái ớt bảo là trái chuối rồi bắt tân khóa sinh ăn thì họ phải ăn, vừa tức vừa cay chảy nước mắt! Thật là vô lý!

Ngày “Ông” Tiến Ðức mang cấp bậc Thiếu Úy Thủy Quân Lục Chiến*, đó là mộng ước ban đầu của tôi, tôi mon men đến chào Thiếu Úy và cố ý dò hỏi xem làm cách nào được chọn về TQLC? Ông Thiếu Úy cười, nụ cười hiền lành rất dễ thương, tâm sự:

– Sở dĩ tân khóa sinh bị phạt hành xác liên tục, không cần lý do là để luyện tập sức chịu đựng, thân thể tráng kiện, còn bị phạt những điều vô lý là tập cho biết phải tuân lệnh: “Kỷ luật là sức mạnh quân đội”, ngoài ra, cũng là để sau này ra đơn vị, là cấp chỉ huy, thì đừng bao giờ ra những cái lệnh vô lý, quái gở bắt buộc thuộc cấp phải thi hành. Vì kỷ luật, họ phải thi hành, nhưng không phục. Cấp chỉ huy phải biết lãnh đạo, làm sao cho thuộc cấp tâm phục, khẩu phục mới thành công. Ðó là chủ đích của Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Huyến.

(*Khi tôi được chọn về TQLC thì Niên Trưởng Tiến Ðức lại chuyển qua Không Quân. “Cố nhân” không còn dịp “phạt” đàn em, dạy đàn em đánh giặc, thật đáng tiếc!)

Ngoài Niên Trưởng Tiến Ðức, Niên Trưởng Phạm Minh Ðức K16 cũng xác nhận chủ đích của Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Huyến là: “Chỉ huy phải đi đôi với lãnh đạo.”

Trở lại với những Không Quân khác:

Một tên cùng lớp, cùng xóm với tôi là trực thăng Ðỗ Văn Minh, không biết hắn học khoá mấy, đơn vị nào nhưng từ sau vụ Hạ-Lào 71, chúng tôi cùng chung giới tuyến Quảng Trị, KQ và TQLC thường hay nói chuyện “trên trời dưới đất” với nhau. Phi hành đoàn của Minh biệt phái cho Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, với nhiệm vụ tiếp tế tản thương, đã nhiều lần Minh tải thương kịp thời, cứu nhiều TQLC.

Nhưng rồi TQLC được lệnh đi tiếp cứu một trực thăng bị rớt cách động Ông Ðô 5km hướng Tây Bắc. Ngày thứ nhất qua đi không tìm thấy gì, ngày thứ hai thấy xác trực thăng nhưng không thấy “xác” phi công. Ðơn vị tiếp tục bung rộng lục soát từng hốc đá bụi cây và rồi tôi nghe tiếng Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng báo:

– Trình thẩm quyền, thấy phi công rồi.

Người phi công, quần áo bị cháy dở dang, nằm thở thoi thóp trong bụi rậm, kiến bu quanh vết thương đùi đã có mùi, có dòi! Ðã hai ngày rồi còn gì! Vậy mà chỉ cần vài nắp bi-đông nước cho ướt cặp môi khô đang rỉ máu thì bản năng sinh tồn khiến người phi công mở mắt, nhe hàm răng, đã hai ngày không bàn chải, mỉm cười:

– Tụi mày cứu tao đấy à? TQLC đẻ tao lần thứ hai.

Thật khó khăn nhận ra nó nếu không có cái bảng tên Minh. Chính nó là trực thăng Ðỗ Văn Minh đã chui vào đạn pháo binh cứu thương binh TQLC mấy ngày trước. Bức tranh huynh đệ “KQ & TQLC” này dễ thương thật.

Cũng cần thêm vào bức tranh “KQ & TQLC” này một tấm lòng của phi công chở quan… tài, anh bay C130 khứ hồi Sài Gòn Ðà Nẵng chở quân, chở quan và quan tài của TQLC suốt trong thời gian SÐ/TQLC hành quân ở Vùng I. Anh bay không mệt mỏi vì nhu cầu chiến trường, tiếp tế, tải thương, bổ sung quân số. Những khi phi cơ chở đầy quan tài thì anh cho phép quan đi phép ngồi trong phòng lái. Nhờ vậy tôi mới biết thế nào là “sướng tận 9 tầng mây xanh”. Anh lái chim sắt chui qua những tầng mây xám, máy bay thì rung lúc lắc, mây bay vùn vụt như đập vào mặt khiến chúng tôi nghiêng đầu tránh, chân đạp thắng, tay ôm ngực, tay bịt mồm cho khỏi bị ói khiến quan tư Trâu Ðiên Trần Văn Hợp chửi thề:

– Thằng Vinh Ðèo mày bay như c. c…

Rồi 3 thằng bạn cùng khóa, một KQ, hai TQLC nắm tay nhau cười, nay thì Hợp ở “chín suối”, còn KQ ấy chính là Vinh Ðèo Ðào Quang Vinh, Florida.

Chẳng cứ phải là trực thăng Ðỗ Văn Minh hay C130 Ðào Quang Vinh cùng lớp, cùng khóa, cùng xóm với TQLC mới đối xử với nhau tận tình như thế, kể sao cho hết những trường hợp người không quen mặt, bạn không biết tên. KQ đã quên mình trên trời mà cứu Bộ Binh dưới đất. Tôi không có đủ khả năng để kể hết, nói lên những tấm gương sáng này, chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp xin gửi lời cám ơn muộn màng đến những chàng KQ không quen biết đã tiếp và cứu đơn vị chúng tôi trong những lúc nguy nan khốn đốn nhất.

Năm 1965, trên đường vào cứu đồn Ðức Cơ, Kontum, Tiểu Ðoàn 2 và Tiểu Ðoàn 5 TQLC sa vào thế trận công đồn đả viện của VC thì những “con ma, thần sấm” đến thả bom cứu bồ TQLC. Rồi thình lình một phản lực xì khói, cánh dù bung ra trên tít trời cao! Những phản lực còn lại bỏ mục tiêu dưới đất mà bay vòng tròn bao quanh cánh dù và thả bom diệt những tràng đạn lửa phòng không dưới đất bắn lên. Nhìn cánh dù lơ lửng trên trời cao lúc chiều tà, tôi cầu mong sao cho dù bay về hướng quân ta, nhưng buồn thay, dù cứ bay xa về hướng địch trong ánh nắng hoàng hôn và mất hút ở biên giới Việt Miên! Tôi không biết người phi công ấy là Việt hay Mỹ nhưng lòng buồn khôn tả! Trên khắp các chiến trường đã có những cánh dù như thế, họ thật cô đơn, lửng lơ trên trời chịu trận với súng phòng không địch! Còn chúng tôi dưới đất, đồng đội nằm sát bên nhau, súng đạn tấn công lại quân thù. Người phi công không bao giờ trở về! Cảnh tượng ấy in trong óc tôi, cho tới nay, khi viết những dòng này, tôi như còn trông thấy cánh hoa dù từ từ xuống thấp về phía biên giới Việt-Miên.

Phản lực đi rồi thì khu trục AD6 đến, trông nó xấu trai nhưng liều ra phết, nắm chắc phi công là phe ta chứ không phải Tây, các chàng bay sát ngọn cây để tránh phòng không dày đặc để thả bom xăng ngay trên tuyến những người “anh em”, khiến họ không thành chả thì cũng thành nem nướng. Tuy nằm cách xa mà chúng tôi cũng cảm thấy nóng tới độ muốn quăn cả lông mày lẫn lông tao. Sau vài “bát” napal, AD6 vọt lên cao lại còn xịt những tràng “đui-sết” 12.7 về phía hậu làm con cháu baác đành bỏ xác bạn chạy lấy người, mặt trận trở nên yên tĩnh.

Ðêm về, chúng tôi nằm ngửa mặt lên trời trên tuyến phòng thủ, nhìn ánh trăng không xuyên qua khỏi những lớp khói đạn bom, miệng há hốc vì không đủ ốc (xy) để ăn nhưng được an ủi không phải tiếp tục bóp cò và ăn pháo kích, địch đã cao chạy xa bay. Ngày hôm sau chúng tôi tiến vào tới đồn Ðức Cơ thoải mái.

Cám ơn những người anh em phi công hào hoa, không có các anh tiếp đạn chắc chúng tôi sẽ vất vả lắm đấy, nhưng cho đến bây giờ vẫn không biết các anh là ai, những người cầm lái những khu trục đó?

Quay về Vùng Bốn, trận chiến trên kinh Cái Thia quận Cai Lậy vào ngày 31/12/1967, giữa Tiểu Ðoàn 2/TQLC và 2 Tiểu đoàn VC (162A &162B) không kém khốc liệt. Trực thăng vừa đổ quân ta xuống là đã bị đánh phủ đầu ngay bởi đủ mọi loại súng từ trong bờ kinh xối xả bắn ra, đạn xuyên màng tang Trung Úy Nguyễn Quốc Chính, Ðại Ðội Phó của tôi khiến thằng em gục ngã ngay đợt xung phong đầu tiên. Vì là ngày “hưu chiến” nên không có hỏa lực yểm trợ của KQ Hoa Kỳ khiến chúng tôi sa lầy ngoài ruộng lúa!

Rồi không biết lệnh từ đâu, hồi lâu khu trục tới, dĩ nhiên là Pilot Việt Nam cầm lái. TQLC chúng tôi thở phào thoải mái, nằm im ghìm súng nhìn chàng AD6 chúc đầu xuống trút bom rồi nghiêng cánh sắt, lắc mình vọt lên không, không quên xịt xuống thêm vài tràng 12 ly 7.

Quá đã! Từng bụi tre tróc gốc nói chi đến đám VC, chúng bị chôn sống, đám còn lại kiếm đường chuồn! Họa vô đơn chí cho đám con chồn cháu cáo, khu trục đi thì Hỏa Long đến. Trong đêm tối, nhìn rồng phun lửa, đạn từ trên phủ xuống đầu địch như những giải lụa hồng đẹp ơi là đẹp. Chúng tôi chiếm được mục tiêu vào lúc 5 giờ sáng, ta nhìn xác địch la liệt không toàn thây bên những hố bom.

Trở về Vùng Ba, vào một sáng sớm tháng 9/68, khi sương mù còn bao phủ rừng Cầu Khởi, Hố Bò, chín trực thăng thẩy 90 anh em ÐÐ1/TÐ2/ TQLC chúng tôi xuống trảng trống rồi vụt bay đi. Nói “thảy” vì khi trực thăng còn đang lơ lửng trên không là chúng tôi phải nhảy vội xuống rồi, không cần biết dưới đất là cái gì.

Nhiệm vụ của 90 anh em tôi là “nhảy diều hâu”, nói cho dễ hiểu là bất chợt từ trên trời nhảy xuống đất, nếu không gặp địch thì trực thăng đến bốc về. Nếu đụng địch thì diệt, diệt không được thì cầm cự để tiểu đoàn đến tiếp sức. Trò chơi này cũng hấp dẫn lắm, lính bộ binh mà không phải lội bộ ngày 10 cây số là thú vị rồi.

Nhưng chẳng thú vị được bao lâu, vì từng đám VC, mình chúng cài đầy cành lá ngụy trang đang lom khom men theo từng gốc cao su áp sát chúng tôi và hai bên súng nổ. Bài này không phải để diễn tả trận đánh của bộ binh nên cho phép tôi bỏ qua diễn tiến chuyện bắn nhau, chỉ sơ lược đại khái để độc giả thấy anh em tôi đang trong tình trạng thập tử chí nguy. Cuối cùng thì khu trục, gunship HU1D, Cobra đã luân phiên thay nhau tác xạ vào địch quân theo lệnh “bà-già” bao che và cứu chúng tôi. Nằm ghìm súng dưới đất, ngước mắt lên nhìn các cô-ba (Cobra) thân hình thon gọn với hai ống hỏa tiễn hai bên, liệng qua lách lại phóng hỏa chưởng xuống đầu địch mà sướng rên. Nhờ cứu bồ tận tình và kịp thời mà trong số 90 anh em chúng tôi chỉ có 20 wishky (bị thương) và 8 kilô (hy sinh)! Nếu không có cô-ba, tôi chẳng còn có dịp ngồi đây viết gửi lời cám ơn muộn màng, sau hơn 40 năm, đến các anh KQ.

Còn nhiều lắm, nhưng bấy nhiêu đó cũng đủ nói lên sự tối cần thiết và quan trọng của những chàng KQ trong cuộc chiến, một đơn vị cấp đại đội như chúng tôi mà còn cần đến KQ như thế thì những đại đơn vị tiểu đoàn, lữ đoàn, những chiến thắng to hơn thì cần sự góp sức và công của KQ cần thiết biết là bao nhiêu. Nhưng hình như các “ngôi sao” anh dũng tưởng thưởng cho các phi công thì… lơ thơ tơ liễu, “gửi gió cho mây ngàn bay”!

Dù cấp lớn hay đơn vị nhỏ, từ Gio Linh Ðông Hà tới Năm Căn, Cái Nước Cà Mâu, đâu đâu mỗi bước TQLC chúng tôi đi đều được “Bà Già” hay cô “Loan 19” theo sát để săn sóc sức khỏe. Nếu không có quý “bà và cô” thì chúng tôi sứt mẻ khôn lường. Một lần tại chiến trường Chương Thiện, địch xung phong đông trong khi những AD6, A37 còn bận đổ xăng thì “Cô Loan” bèn xịt xuống một hỏa tiễn khói trắng để hù, địch khựng lại trong giây lát là đủ thời gian “xì-kai-đơ” lên vùng.

Nếu như ở hậu phương, “vua” nằm chờ Hoàng hậu, sốt ruột vua phải than:

– Ðêm Xuân, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng đó ái khanh.

Thì ngoài chiến trường, lính đánh giặc chúng tôi cũng kêu:

– Cứu quân bạn, mỗi khắc giá đáng ngàn sinh mạng đó các anh KQ ơi.

Và lúc nào các anh KQ cũng sẵn sàng. Chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị ư? Mấy ai đã biết cái Cổ Thành là cái chi chi. Nếu chị không phải là người Huế, anh không quê Quảng Trị thì làm sao biết thành cao hào sâu bao nhiêu? Cao lắm không leo lên được, rộng lắm không bơi qua được, nếu không có hỏa lực KQ tiếp sức thì phải cần bao nhiêu xương và máu mới chiếm được Cổ Thành? Có mấy ai biết rằng trung bình mỗi ngày có tới hằng trăm TQLC được gói poncho để dưới chân tường thành làm nấc thang cho đồng đội tiến lên và tiếp tục gục ngã!

Không biết trong số những anh KQ A.37, AD6, Gunship HU1D, Phantom, các Cô-Ba (cobras), Cô-Loan (L.19) để giúp TQLC thanh toán mục tiêu Cổ Thành thì có anh KQ nào mang tên Nguyễn Văn Ức, Nguyễn Duy Diệm, Phan Trừng, Nguyễn Xuân Huề, Lê Hồng Triển, Ðịnh Lắc, Vinh Ðèo, Lữ Minh Ðức, Trực Khều, Nguyễn Văn Tỏ, Minh Lõ, Phạm Ðình Khuông, Nguyễn Kỳ Phong, Nguyễn Mạnh Trinh hay không?

Ngoài những anh KQ ngoài chiến trường mà tôi yêu mến, còn có những Không Quân ở hậu phương tôi hằng kính phục, dù đã hơn 40 năm qua. Khi viết những dòng này tôi không còn nhớ quý vị ấy mang cấp bậc gì, chức vụ cao thấp ra sao mà chỉ nhớ đến những biệt danh mà thuộc cấp ưu ái dành tặng cho họ. Họ là “Anh Sáu Lèo, Anh Năm Vinh”.

Trận Mậu Thân 1968 tại Saigon, đơn vị TQLC chúng tôi “bị” đặt dưới quyền sử dụng của Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát và Giám Ðốc Ðài Phát Thanh. Tôi dùng chữ “bị” vì một lính tác chiến rất ngại đến gần, nói thẳng ra là không có cảm tình với mấy ông quan to ở thành phố, nhưng sau một thời giam làm việc dưới quyền của các ông, mọi ác cảm trong lòng tôi phải nhường chỗ cho sự kính phục.

Dù ở chiến trường hay hậu phương và nhất là sau ngày 30/4/75 ở trong tù, tôi thấy các anh, những cái tên KQ quen thuộc vẫn giữ được phong thái phi công hào hoa và quả cảm của những chàng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Nhân dịp Ðại Hội KQ.64 ABCD xin chân thành gửi đến tất cả các anh lời cám ơn đã SOL chúng tôi, “Save Our Lives”, cứu chứ không phải bán sol. Huynh đệ chi binh QLVNCH chẳng bao giờ bán nhau. Chúc các anh khỏe mãi để bay bổng và chúc quý vị “lái phi công” luôn điều khiển được những con chim sắt, bắt chim… sắt phải nghe lời./.