Từ Nguyên Học Phi Biên Giới
Nguyễn Văn Ưu
ABSTRACT:
A new approach to etymology concerning the Vietnamese lexicon is presented. This approach relies primarily on non-dualism, addressing the organic nature of lexicon formation and its connection to life and social characteristics in ancient societies. The study uncovers multiple layers of semantic and phonetic transformations that may have occurred before a word evolved into its present-day alphabetic form. Henri Maspero’s proposition of an equivalence between the initial ‘s’ in Vietnamese and the initial ‘l’ in Sino-Vietnamese for certain lexicons is revisited and analyzed using this new approach to etymology.
Thanh Mai, Xí Mụi và Ô Mai
Phải nhìn nhận Đường Thi, tức thơ Đường, được nhiều hâm mộ của giới thơ văn nước Nam qua nhiều thế hệ, nhất là từ khi có quốc ngữ, và cho mãi tới khoảng cuối thế kỉ 20. Theo tin liệu tìm thấy trên mạng, có khoảng gần 50 nghìn bài thơ sáng tác trong thời nhà Đường (618-917 SCN) của hơn 2200 tác giả. Hai thi hào nổi bật nhất về thơ Đường có lẽ là Lí Bạch (701-762) và Đỗ Phủ (712-770).
Một trong những áng thơ Đường nổi tiếng của Li Bai (李白- Lí Bạch) là bài Trường Can Hành (長干行 – Tấu khúc Trường Can), với các bản chữ Hán, Việt, Anh đều có trên mạng, thí dụ [1]. Bài thơ nầy để lại 4 chữ rất phổ biến ngày nay trong các show thực tế trên TiVi, đa phần về chuyện trai gặp gái, hẹn hò cho tương lai. Đó là thanh mai trúc mã (青梅竹马 [qing mei zhu ma]), ngụ ý cặp tình nhân quen nhau từ thuở ấu thơ. Bốn chữ thanh mai trúc mã thật ra gộp lại từ thanh mai và trúc mã nằm ở hai câu sát nhau trong bài Trường Can Hành:
郎騎竹馬來 (Lang kị trúc mã lai)
繞床弄青梅 (Nhiễu sàng lộng thanh mai)
Nghĩa đen của trúc mã là cỡi ngựa giả bằng cách dùng roi làm bằng cành trúc và câu kế của bài thơ tả cảnh cậu bé chạy vòng vòng chiếc phản, tay cầm thanh mai, tức ô-mai, đưa qua đưa lại như trêu chọc (tao có xí mụi (ô mai) nè). Khó khăn ở bề mặt của dịch thuật có thể từ chữ sàng 床 [chuang] và thanh mai青梅 [qing mei]. Tiếng Anh, tiếng Hán, và tiếng Việt ngày nay có vẻ không có chữ miêu tả cho đúng ngữ nghĩa thứ sàng 床 [chuang] dùng trong bài thơ. Nó có thể giống và cũng không giống cái giường, hoặc bed tiếng Anh, hiểu theo nghĩa ngày nay. Gần với床 [chuang] ở đây có lẻ là divan trong tiếng Pháp hay couch hoặc bench tiếng Anh, và đúng nghĩa với床 sàng dùng trong bài thơ có lẻ là cái phản hay bộ ngựa, hoặc sập gụ, ngày xưa dùng để ngồi chơi, ngồi ăn trầu, đánh bài, đánh cờ, ăn cơm, nghỉ ngơi, và …ngủ. Cái phản có công dụng như bộ bàn ghế, bộ sa-lông dùng để tiếp khách ngày nay, cũng như giường để nghỉ ngơi, để ngồi chơi, hàn huyên, và để ngủ. Nhiều dịch giả, Việt cũng như Anh, có thể lúng túng trong việc tìm từ chính xác để chuyển ngữ chữ 床 [chuang], và đồng thời phải tránh chữ giường hay bed, với nghĩa hiện đại khá tập trung là dùng để nằm ngủ hay nghỉ ngơi.
Các từ tiếng Anh và Pháp như couch, bed, lit, divan, sofa, ottoman hầu như không diễn tả được trọn vẹn cái phản hoặc bộ ngựa hay chữ [sayyah] (tiếng Khmer), và những từ này dùng để chỉ một bộ phận nội thất dùng để ngồi chơi, ngồi nghỉ, chuyện trò tiếp khách, và ngủ. Tiếng Hán tương đương với phản có lẻ là 榻床 [ta chuang] hoặc có thể chỉ một chữ 床 [chuang] tức sàng. Chữ sàng mang phát âm giống [seng] thuộc tiếng Phúc Kiến hay Triều Châu. Âm Nôm tương đương với sàng là giường, và âm [giường] tiếng Việt có thể là âm hỗn hợp giữa âm Ngô Việt hoặc Hàng Châu [dzoan]/[dzuan] và âm [seung] tiếng Weitou (Vi Đầu) ở phía nam Quảng Đông [3], nếu lấy床 [chuang] tức sàng, là từ gốc. Một số học giả, dựa trên một giả định là nhiều âm cũ tiếng Hán truyền sang nước Nam, như thời nhà Đông Ngô, nhà Đường, được giữ lại trong khi âm tiếng Hán tiếp tục biến đổi theo thời gian. Tức dùng âm của từ Nôm để suy ra phát âm chữ Hán vào thời xa xưa. Giả định này, thật ra lại dựa trên nhiều giả dụ khác, chung chung mang nhiều tính luân hoàn (convoluted), tức giả dụ là phương pháp khoa học và cũng là kiểm chứng, ba thứ nhập làm một, đã đưa tới nhiều kết quả như buồng là âm Trung Cổ (Middle Chinese) của phòng (房), hoặc giường, kí âm như [dziang], là âm Trung Cổ của sàng tức床 [chuang], hay [mwei], âm Trung Cổ của [mei] mùi hay [wei] vị, viết味, với [mei] là âm Quảng Đông ứng với [wei] Quan thoại. Những giả định nầy không phù hợp với lí thuyết về ngôn ngữ dựa trên hỗn hợp giữa các thổ ngữ và phương ngữ du nhập, cũng như mô hình cây và đất [9] trình bày ở đây. Ngay như chữ giường, không những giường có âm rất giống các âm hiện thời của Ngô Việt [dzuan] hay Quảng Đông [seung], mà còn rất gần với âm bản địa [giơơng] tức [gjəəŋ], thuộc tiếng Bahnar (nhóm Mon-Khmer) [2]. Để ý, lí thuyết trình bày tạm thời tránh tiêu chuẩn định ra từ vay mượn dựa vào ý niệm văn minh thành thị cho đời sống bộ lạc vay mượn thêm từ. Ý niệm nầy mang nhiều tính trực tuyến và định hướng, có vẻ chưa được kiểm nhận bằng thực nghiệm, đối với khung thời gian xa xưa. Do đó, không thể kết luận ngay là ngữ âm [gjəəŋ] của tiếng Bahnar là từ vay mượn của giường tiếng Việt.
Nếu xem qua một cấu trúc mới cho từ vựng và từ nguyên, có thể thấy ráp vần của chữ giường (bed) đã có từ thời Alexandre de Rhodes [4], và vào khoảng đầu thế kỉ 19, Taberd [5] viết kí âm Hán-Nôm của giường là 牀 [chuang], còn viết theo Hán tự là 床 [chuang] ứng với [sàng] tiếng Việt. Tin liệu ở thế kỉ 21, cho biết rất có khả năng ngữ âm [giường] biến chuyển từ âm thứ 2 [jyun] của từ 2 âm 牀沿 [cong jyun] đọc theo tiếng Quảng Đông, mang nghĩa như bên giường, chỗ cái giường. Âm [jyun] (沿) tiếng Quảng Đông có thể kí âm như [jeung] hay [zeung] rất gần với âm [giường] chữ quốc ngữ. Nằm dưới cấu trúc ‘牀沿 [sàng duyên]’ cho ra ‘giường’ chính là cấu trúc của ‘雨遮 [yu zhe] (đồ che mưa)’ cho ra chữ dù / ô (umbrella) lấy từ 雨 [yu] (mưa), hoặc ‘雨遮 [hai bian] (vùng ven biển)’ cho ra chữ biển hay ‘海皮 [hoi pei] (âm Quảng Đông) (vùng bờ bể)’ cho ra chữ bể, xem [6][7]. Cũng nằm trong cấu trúc nầy, ngữ âm và ngữ từ giường cũng có khả năng bắt nguồn từ chữ trường trong trường kỉ 长几 [zhang ji] hay trường ỷ 长椅 [zhang yi], với âm [trường] (长) có phát âm Hẹ là [zhong] và Quảng Đông [zoeng] rất gần âm [giường] tiếng Việt. Cả hai chữ trường kỉ 长几 [zhang ji] và trường ỷ 长椅 [zhang yi] đều có nghĩa cái ghế (bench) dài, thường có chỗ dựa lưng.
Phương pháp truy tìm âm Trung Cổ tiếng Hán dựa trên tiếng Nôm hay “Hán Việt” của ngành ngữ học Tây Phương, như kiểu cho âm [giường] là âm Trung Cổ [dziang] của 床 [chuang], cũng cho âm [thap] tức tháp viết theo kiểu Hán Việt là âm cũ của từ 榻 [ta] trong 榻床 [ta chuang] tức cái sập gụ hay cái phản. Tự điển Alexandre de Rhodes [4] có ghi sặp là giường bằng gỗ không có chân, tức rất giống chiếc đi-văng của Tây. Tự điển [4] cũng phân biệt giường sặp là bục hay phản không có chân, còn giường là giường rộng bằng gỗ có những chân bằng gỗ. Rất có khả năng [sặp] hay [sập] chính là âm nôm-na của [tháp] hay [thạp], và [thap] lại giống âm Quảng Đông hay Hẹ [thaap] ngày nay. Nhìn nhận [sập] hay [sặp] tương ứng với [thap] tức là nhìn nhận có biến chuyển qua lại giữa các âm đầu [s] với [x] và cả hai với [th], như các cặp: xơi/thời, sực/thực, xực/thực, xấm/thấm, xảm xiết (Tày)/thảm thiết, xanh/thanh, 商 [soeng] (Quảng Đông)/thương, 上 [shang] (Quan thoại) /thượng, v.v. Và nên nhớ hầu hết các thứ tiếng bản địa hoặc lân cận như Tai-Nung, Mon-Khmer, Mường, Quảng Đông, Phúc Kiến, Thái-Lan, Lào, và Chăm đều không có âm đầu [s], tức âm [sh] tiếng Anh, như trong tiếng Việt hay Bắc Kinh. Riêng tiếng Quan thoại, không có âm cuối như [k], [c], [p], [m], như trong các thứ tiếng khác trong khu vực: 习 [Xi]/ [zaap] Tập, 榻 [ta]/[taap] tháp, 南 [nan] /[naam] nam, 绿 [lu]/ [luk] lục, 俗 [su]/ [zuk] tục, 竹 [zhu] /[zuk] trúc, 粥 [zhou] cháo/ [zuk], 冊 [ce]/ sách, 北 [bei] / [bak] Bắc, v.v..
Gụ trong sập gụ rất có khả năng biến âm từ gũ hay gõ mà tự điển Huình Tịnh Của [8] ghi là loại cây cứng lắm, ứng với 藁 hay槁 phát âm [gou] theo tiếng Quảng Đông, mang nghĩa gỗ khô, và do đó gụ có thể tương đương với gỗ. Cũng theo tự điển Paulus Của [8], ván sập (có thể hoán chuyển thành sập gụ)là ván lót làm chỗ ngồi nằm. Từ chữ gụ ra chữ ván, và ván chính là chữ quốc ngữ do Taberd [5] chuyển từ bản (版 – [băn]), đổi âm đầu [b] thành [v], mang nghĩa tấm ván, giống kiểu bổn (tư bổn/bản) thành vốn. Trước Taberd, tự điển Alexandre de Rhodes [4] viết ꞗán, tức [byán] hay bản, cho ván. Chữ bản (版) viết kiểu chữ Nho, viết bằng hai chữ 片 [pian/pan] (phiến) và反 [fan] (phản) hợp lại. Chữ phiến (片) mang nghĩa là tấm (tấm ván), và phản (反) có thể xem giống như chữ against trong tiếng Anh, tức chống đỡ, chống trả, ngược lại, trái với, mặt trái. Chữ bản (版), tức ván, do hai từ phiến (片) và phản (反) viết chung với nhau, do đó có thể mang phát âm là phản như trong cái phản, và thật ra chữ bản (版) có phát âm rất giống [baan] trong tiếng Quảng Đông, nhưng âm đầu cũng là [p] như phản trong các phương ngữ thuộc hệ Wu (Thượng Hải, Chiết Giang), tức Ngô Việt (吴越). Còn bộ ngựa là chữ bình dân dùng để chỉ cặp gỗ chống ở hai đầu tấm phản có cấu trúc giống như con ngựa, như thứ workbench (băng thợ mộc), dùng trong công việc thủ công, cưa cắt, khoan dùi, đục, vặn ốc, ráp nối, v.v.
Hai chữ thanh mai (青梅) cũng có thể gây khó khăn không kém chữ sàng trong việc dịch thuật trong khung cảnh của ngữ từ và ngữ nghĩa thời nay. Có người dịch thanh mai là mơ xanh, ứng với chuyển ngữ sang tiếng Anh là blue plums, và cũng có chỗ dịch thành cành cây mơ xanh. Nhìn kiểu tổng thể và ăn khớp, hai kiểu chuyển ngữ này có thể gặp lấn cấn. Ở chỗ mơ xanh hay cành cây mơ xanh, như một bản dịch cho thấy,rất khó đi đôi với từ lộng (弄), tức trêu ghẹo, chọc tức. Thông thường với trẻ con, 弄 [long] (lộng) sẽ mang ý ‘tao có mà mầy hổng có’, hoặc ‘tao có cái tụi mình thích nè’, và cái có, cái không đó sẽ liên hệ đến cái gì trẻ con ưa thích nhất. Và đó phải là xí mụi hay ô mai, tức một thứ ‘kẹo’ hảo hạng, mà con nít rất ưa thích, chứ không phải mơ xanh. Chữ thanh mai (青梅) có phát âm Phúc Kiến là [ci mui] tức xí mụi, với thanh (青) đọc như [ci] tức xí, hiểu theo tiếng Anh là preserved plum hay preserved prune hoặc tiếng Quảng hiện đại là [chan pei mui] 陳皮梅 (trần bì mai) tức quả mơ khô, giữ lâu. Giống xí mụi, và để ăn với cơm trong ẩm thực của Nhật là umeboshi (梅干) tức mơ khô tẩm muối. Cả hai chữ 陳 [chan] và 皮 [pei] trong [chan pei mui] đều có ngữ nghĩa liên hệ đến giữ lâu, bao bọc, tẩm, vỏ khô. Phải để ý chữ thanh (青) trong thanh mai, ngoài nghĩa thông thường là xanh (green) còn mang một nghĩa ít xử dụng trong tiếng Việt, và đó là xanh đen (greenish black) hay đen. Với ngữ nghĩa là xanh đen hay đen, mơ xanh (thanh mai) có thể thay thế bằng ô mai, tức ô (đen – 烏[o] Phúc-Kiến) thay cho thanh (đen), và ô mai có thể xem như đồng nghĩa với thanh mai, nhưng giống như xí mụi, ô mai không phải là mơ xanh mới hái từ cây, mà là một thứ mận hay mơ được tẩm muối, đường, cam thảo, v.v., rồi làm khô để giữ được lâu. Ô mai hay xí mụi là thứ xì-nắc (snack) được trẻ con ưa thích chứ không phải mơ xanh, mặc dù xuyên qua Hán tự, cả ba đều dựa vào một thứ chữ viết là 青梅 [qing mei], tức thanh mai, dịch thẳng sang quốc ngữ là mơ xanh. Tóm tắt, từ nguyên của thanh mai ở đây được xem như xí mụi, ô mai, với ý nghĩa và bản chất không giống như thanh mai, hiểu như mơ xanh, theo chuyển ngữ thông thường giữa Hán Việt và Nôm
Trong câu chuyện thanh mai trúc mã và bài Trường Can Hành, thắc mắc dễ có về cụm từ thanh mai trúc mã là cụm từ này có trước hay có sau bài thơ trứ danh Trường Can Hành của Lí Bạch, và nếu có trước, thì Lý Bạch đã dùng hai câu thơ trích ở trên chỉ để gợi ý thanh mai trúc mã, tức đôi uyên ương ngày nay đã quen nhau từ hồi còn ấu thơ, chứ không phải chính Lý Bạch đã lăng-xê cụm từ nầy từ bài thơ của ông. Cả 4 chữ thanh mai trúc mã đều có thể xem như từ Hán-Việt, nhưng nếu tra từ điển Hán Việt từng chữ một thì ngữ nghĩa của 4 từ nầy, thường ở dạng độc thể theo kiểu Tam Thiên Tự, rất khó hợp với nhau để cho ra ý nghĩa là cặp uyên ương biết và mến nhau từ hồi còn trẻ. Bởi trừ chữ thanh, ba chữ kia (mai / trúc / mã) không gợi nên ý nghĩa gì về chuyện yêu mến, quen nhau từ thuở ấu thơ. Trong lối tiếp cận với cụm từ thanh mai trúc mã sẽ thấy vị trí mai và mã đối xứng nhau, như danh từ với danh từ, còn thanh và trúc đối nhau như kiểu hình dung từ, bổ túc nghĩa cho danh từ theo sau.
Trong nghĩa bề mặt, mai chỉ trái mơ, hay hoa mai, và trúc chỉ cây trúc, dùng như trúc mã có nghĩa làm bộ như cưỡi ngựa bằng cách dùng cành trúc làm roi đánh vào mông con ngựa. Trong chữ thanh mai, rất có khả năng thanh (青) là thanh xuân tức tuổi còn thơ. Muốn tra mai phải tra âm [mai] hay [mo] của tiếng Quan thoại, chứ không nên tra [mai] theo kí âm quốc ngữ của tiếng Hán Việt. Âm [mai] trong tiếng Phổ Thông (Quan thoại) có thể ứng với 脈 phát âm là [mai] hay [mo], với [mo] gần với âm mơ trong quả mơ, hay mộ (慕) trong mến mộ, và [mai]脈 mang nghĩa luyến ái, yêu nhau, mến nhau. Âm Hán Việt của từ nầy, 脈 [mai][mo], là mạch trong mạch máu, ứng với cách phát âm [mak] trong tiếng Quảng Đông, và rất thường từ 脈 [mak] ghi trong tự điển Việt là mạch với nghĩa mạch máu, chứ ít khi, ghi là mến/yêu. Để ý tiếng quan thoại (Bắc Kinh) không có âm cuối [k], hay [t], [c] hay [ch], như mạch giọng quan thoại tương ứng là [mo], rất giống mơ trong quả mơ, chứ không phải [mak] hay [mat]. Từ chỗ âm [mai] hay [mo] ứng với 脈, nghĩa mến/yêu, thanh mai có thể mang nghĩa mến nhau từ tuổi còn thơ, mến yêu từ lúc còn nhỏ.
Nếu hiểu thanh mai trúc mã với nghĩa thông thường là đôi uyên ương đã biết và mến nhau từ hồi còn thơ ấu, từ Hán Việt trúc rất khó mang nghĩa bề mặt là cành trúc dùng làm ngựa giả (trúc mã). Tìm âm gần giống trúc sẽ thấy chữ 属 [suk] (âm Quảng Đông) mang rất nhiều nghĩa, trong đó có thuộc vào hoặc là (to be). Ứng với đó, âm mã không thể hiểu là ngựa mà là âm tiêu biểu cho số 2 hay số thứ 2, tức cặp hay đôi, liên hệ đến từ 孖 [maa], âm tiếng Quảng, mang nghĩa cặp, đôi, song sinh. Trúc mã, do đómang nghĩa đơn giản là thành (属 [trúc]) đôi bạn (孖 [mã]), là vợ chồng, và thanh mai trúc mã sẽ có nghĩa vợ chồng đã mến nhau từ thuở còn thơ. Âm Hán Việt cho trúc 属 [zhu] (thành/nên/là/thuộc) là chúc, thuộc, chú, và cho từ mã (孖) là [ma] và [tư], với tư dựa trên quan thoại [zi], rất xa mã hay [maa] tiếng Quảng. Âm trúc trong trúc mã cũng có thể ứng với 鬻 [zhu][zhou][ju] (chúc, dục), mang nghĩa trẻ thơ, ấu thơ, thích hợp với trúc mã trong nghĩa thành đôi bạn (mã) từ lúc ấu thơ (trúc). Trong khi [mai] trong thanh mai có thể ứng với âm Quảng Đông [maai] của 埋身 [maai san] (mai quyên) mang nghĩa trở nên thân mật, và thanh nếu dùng âm phổ thông [qing] làm chuẩn có thể ứng với 情 [qing], tức tình tiếng Việt, mang nghĩa mến mộ, mến yêu.
Đắt bỏ mẹ và Mắt thấy mồ
Tiêu biểu trong chuyện hỗn ngữ trước và sau khi quốc ngữ ra đời còn phải kể những cụm từ như đắt bỏ mẹ, mắt thấy mồ, giỏi quá ta, ngã ba chú Ía, ngã ba ông Tạ, cầu ông Lãnh, Vũng Tàu (Ô Cấp), v.v.. Thử xem lại đắt bỏ mẹ và mắt thấy mồ, trong tính tương đương giữa hai cụm từ rất “bình dân” này. Đắt bỏ mẹ hoặc mắt thấy mồ, mang nghĩa đơn giản là rất đắt hay đắt ơi là đắt, đắt thật đắt. Có thể thấy ngay đắt ứng với mắt, thấy với bỏ, và mẹ với mồ. Cả hai chữ đắt và mắt thường được tạm xem như thuần Nôm. Riêng chữ mắt có 2 lối đánh vần khác nhau, mắt và mắc. Tự điển tiếng Việt đầu tiên của Alexandre de Rhodes [4] cho 2 lối đánh vần, mắt và mắc, tương đương với đắt. Tự điển Taberd [5], cũng như tự điển Huình Tịnh Của [8], hoặc Khai Trí Tiến Đức [19], hay Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ [20] viết là mắt. Tuy đắt / mắt mang tiếng là thuần Nôm, vẫn có rất nhiều ngôn ngữ ở Á Châu, có từ vựng với hàm ý mắt/đắt mang một âm [mah] hay [mat] giống như mắt: [mah-raG] tiếng Kharia (Munda), [qim-mat] tiếng Uzbek/Tajik (Trung Á), [mah-al] tiếng Tagalog (Phi-Líp-Pin), [ma-han-ga] tiếng Hindi (Ấn), và [măt dêh] tiếng Bahnar bao gồm hai âm: [măt], giống mắt và [dêh] giống đắt. Tiếng Môn trong lớp hạ tầng Mon-Khmer của tiếng Việt xưa có chữ [dɛŋ] có âm gần với đắt mang nghĩa đắt tiền, hiếm quý, và chữ [mat] (giống mắt) mang nghĩa đá quý, đá mắt tiền. Chữ mắt (giá cao) cũng có thể cùng gốc với 岉 [mat] tiếng Quảng Đông, viết bên trái với chữ 山 [shan] (núi) chỉ cao (giá). Đắt trong giá đắt cũng có nghĩa là cao, cao vút, và cao vút trong tiếng Thái chính là [duaat] gần giống với âm của đắt, Trong nghĩa cao vút tiếng Hoa cũng có từ 突 (HV: đột) đọc theo giọng Quảng Đông là [dat] rất gần với đắt. Còn mắt (đắt) cũng có thể cùng gốc với âm Quảng [mut] cho chữ 末 [mo], mang nghĩa cuối cùng hay ngọn cây (rất cao). Để ý một từ thường tưởng là thuần Nôm khác là rất (rất mực, very), thật ra có âm tương đương tiếng Quảng Đông là [zat] (郅) rất gần âm Việt [rất], mà Hán Việt ưa viết là chí (chí lý), hay chất, phỏng theo âm quan thoại [zhi], hay âm Nam Quảng Đông [zak], cho cùng từ 郅 [zhi] mang nghĩa very, extremely.
Hai chữ bỏ mẹ và thấy mồ, mang ý nghĩa của lối nói ta thán, hay theo lối bình dân là văng tục, với nghĩa nôm na là chết mẹ, và nghĩa “chuẩn” là thật sự, thật là (đắt thật đắt). Hai chữ thấy (trong thấy mồ), và bỏ (bỏ mẹ) liên hệ với nhau qua nghĩa thường dùng của thấy tức dòm, ngó, xem, nhìn. Chữ thấy tiếng Việt cũng có thể vừa là “thuần Nôm”, bởi khi phát âm [thấy] thì người nước ngoài dù biết nhiều ngôn ngữ trong vùng, vẫn không thể chối rằng [thấy] là âm thuần Việt, và cũng có thể tương ứng với chữ 睇, âm Hán Việt thê/đệ, nhưng âm Hẹ và Quảng là [thai] rất gần với thấy, với âm cuối [i] đổi sang quốc ngữ thành [y] như kiểu thay đổi giữa Malay và Mã Lai. Thấy mang nghĩa là nhìn thấy, tức không nhất thiết là nhìn thẳng, hay xem thẳng vào một vật gì. Tiếng Chàm tương đương với thấy là [boh], cũng giống tiếng Bahnar [‘bôh], có nghĩa là thấy (to see), đồng nghĩa với bỏ trong đắt bỏ mẹ, hoặc bỏ đứng ở vị trí của thấy trong mắt thấy mẹ (mồ).
Như vậy thấy và bỏ thay chỗ cho nhau chỉ qua ý nghĩa bề mặt của thấy, tức nhìn thấy, xuyên qua các thứ tiếng khác nhau. Nhưng chữ thấy trong thấy mồ hay thấy mẹ lại mang nghĩa chết theo kiểu nói ta thán, văng tục, tức thấy mồ hay bỏ mẹ đồng nghĩa với chết mẹ. Và chữ phát âm gần với [thấy] mang nghĩa chết là [thei] trong tiếng Burmese (Myanmar), nghĩa chết. Trong ý nghĩa ta thán hay văng tục [thấy] cũng có thể ứng với [tho:h] tiếng Thái, một thứ từ chửi thề như kiểu bloody, damn tiếng Anh hay merde tiếng Pháp, [rɔɔk mae] (bloody mother) tiếng Khmer, và [rɔɔk mae], mang một nghĩa đen rất gần với (tìm) thấy mẹ. Chữ bỏ trong bỏ mẹ, với nghĩa chết cũng có thể cùng gốc với tử [po-a] tiếng Mon, cũng mang nghĩa là tử vong. Gần hơn nữa là 仆直 [pu zhi] với nghĩa ngã ra chết (drop dead), có âm tiếng Wuxi (Ngô Tích) ở Giang Tô là [boh jeh], có [boh] ứng với âm chữ bỏ và [jeh] với chết. Còn mẹ và mồ đều có thể cùng gốc với từ mẫu 母 [mou], có phát âm Tô Châu (Suzhou) là [mo] rất gần với mồ, mà tự điển thường ghi là mô (母)
Nếu thấy trong thấy mồ, là kí âm quốc ngữ tương đương với ngữ âm thei tiếng Myanmar mang nghĩa chết, thì từ thấy chỉ là một thứ ngữ âm chứ không phải ngữ từ trọn vẹn, hay một từ thuần Nôm. Cũng giống y như bỏ trong bỏ mẹ len vào cụm từ đắt bỏ mẹ qua trung gian của liên hệ giữa hai ngữ từ thấy và bỏ với ngữ nghĩa chung là thấy, nhìn thấy, ngó thấy. Chuyện nầy cũng tương tự với cụm từ 他媽的 [tha ma tih] đọc theo âm Chiết Giang, mang nghĩa giống như thấy mẹ, trong đó chữ 他 [tha] thay chỗ cho thấy nhưng có ngữ nghĩa không phải là ngó thấy mà là tha trong tha nhân (người khác), trong khi媽 [ma] trong 他媽的 [ta ma de] (con mẹ nó), vẫn có thể mang nghĩa mẹ, như trong thấy mẹ. Chữ chết tiếng Việt một lượt mang cùng gốc với nhóm Mon-Khmer, như [chɒ̱ə̯t], [kəcɛ̱t], [chət], cũng như tiếng Hán chiết (折), âm Hán-Việt rất giống âm [ziet] tiếng Hẹ, và chết có âm giống [ceh] tiếng Ngô ở Giang Tô. Thông thường, 折 [ziet] ưa dùng để chỉ chết yểu 夭折 [jiu zit] (Quảng Đông).
Chà Và Ma Ní Tí Te
Thử xử dụng kiến thức mà ngày nay có thể thu thập từ mạng internet, để xem lại câu hát “đồng dao” khá phổ biến vào khoảng giữa thế kỉ 20 tại Sài-Gòn:
Chà Và Ma Ní tí te,
Cái bụng thò lè, con mắt ốc bươu.
Tí te, nằm ở câu đầu, rất có thể là từ ô-nô-ma (nhại thanh), giống như tò te hay tò tí te, dùng để nhại tiếng thổi kèn, thường có trong những cuộc diễn binh. Chà Và là chữ ráp vần theo kiểu quốc ngữ tương ứng với âm Khmer [Chvéa] thời xưa, và Chà Và ngày trước có thể dùng để chỉ chung người Nam Á Châu như Ấn Độ, Bengali, Miến Điện (Myanmar ngày nay), Mã Lai hoặc In-Đô-nê-xia, v.v., trong khi Chvéa tiếng Khmer, ứng với Chà Và, theo tự điển tiếng Cam-Bốt của Jean Moura xuất bản vào năm 1878 (có trên mạng) cho nghĩa hẹp là người Mã Lai. Theo từ vựng ngày nay, chữ Chà Và lại ăn khớp với Java tức hòn đảo đông dân nhất của nước In-đô-nê-xia, ngày xưa gọi theo tiếng Hoa là Nam Dương. Còn Ma Ní có thể là ngữ âm tương ứng với cư dân ở Manila, thủ đô của nước Phi-líp-Pin.
Như vậy, nếu dựa theo nghĩa tra từ tự điển, Chà và mang nghĩa người Java, tức In-đô-nê-xia, trong khi Chvéa (tiếng Khmer), ứng với Chà và tiếng Việt, mang nghĩa Mã-Lay, và Ma Ní người Phi-líp-pin, thì câu hát không ăn khớp với thực tại, bởi người Java và người Manila không cách gì có thể tham gia diễn binh với tiếng kèn tí te. Hiểu theo góc cạnh hỗn ngữ, và để ý đến trình độ địa dư thế giới của đa phần người dân ở nước Nam thời đó, thì Chà và sẽ ứng với người Ấn (India) và Ma Ní sẽ chỉ người Mã Lai, và cả hai xứ nầy hãy còn là thuộc địa của Anh quốc cho đến thế chiến thứ II. Theo với ăn khớp, những người lính Chà Và và Ma Ní nầy, tức Ấn và Mã Lay, phải thuộc quân đội hoàng gia Anh đến Đông Dương để giải giới quân đội Nhật, vào lúc thế chiến thứ hai kết thúc vào năm 1945. So với ngôn ngữ ở thế kỉ thứ 21, việc gọi tên nước hay dân tộc thường rất lộn xộn cho đến khoảng cuối thế kỉ 20. Thí dụ như ngày xưa nước Spain, tức Tây Ban Nha hay l’Espagne (Pháp) hoặc Hispania, gọi tiếng Việt là Y-Pha-Nho, và Y-Pha-Nho là tên phiên âm từ Iberia hay Hiberia, thường chỉ bán đảo ở bờ biển Tây Nam của Âu Châu bao gồm Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha (Spain) trong thời La-Hy cổ đại, và ngày nay tên Iberia (Y-Pha-Nho) là tên hãng hàng không lớn nhất của nước Spain. Còn chữ Hispania gốc tiếng La-tinh có liên hệ đến chữ Hispanic Americans chỉ người Mỹ hay ở Châu Mỹ có gốc, hay nói, tiếng Tây Ban Nha (Spanish). Tên quen thuộc người Việt thường dùng để chỉ Trung quốc trong suốt hàng nghìn năm là nước Ngô (xem Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi hay Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký), và chữ Ngô có lẻ bắt nguồn từ Đông Ngô (220-280) một trong 3 nước giao tranh với nhau trong thời Tam Quốc (220-280), với hai nước kia là Bắc Ngụy và Tây Thục. Đông Ngô thời đó có thuộc địa ở phía Nam là Giao Chỉ. Chữ Ngô dùng để chỉ Trung Hoa cũng có thể liên hệ đến nước Ngô, đối thủ trường kỳ của hai nước Sở và Việt, vào thời Xuân Thu (771-476 TCN). Địa bàn hai nước Ngô và Việt nầy ngày nay nằm ở khu vực Thượng Hải, Giang Tô, và Chiết Giang (quê hương của Kim Dung, xem [12]), và cần nhớ là tiếng Ngô Việt (Wu Yue), cũng giống như tiếng Quảng Đông, hiện là một thứ tiếng nhiều người xử dụng ở nước Trung. Thoạt đầu nước Ngô lớn mạnh hơn Việt, đánh bại Việt và bắt cầm tù Việt vương Câu Tiễn. Về sau, vua Ngô tha vua Việt về xứ, để rồi chuốc lấy thất bại khi bị Câu Tiễn trả thù, đánh tan và sát nhập Ngô vào Việt (năm 473 TCN). Nước Việt sau đó bị nước Sở từ phía Tây đem quân thôn tính, năm 334 TCN.
Giả thuyết Ngô Việt nầy khác với giả thuyết Đông Ngô ở chỗ liên kết chuyện chạy giặc về phía Nam của thần dân Câu Tiễn và những vua kế vị, khi chiến tranh và giặc giả tại vùng đất họ sinh sống kéo dài đến hằng trăm năm, xem [12]. Cần để ý là ngày nay tư liệu sử học cho biết thêm (xem Wikipedia) là khác với các xứ nội địa thời Xuân Thu, tộc Việt thời đó chuyên về hàng hải đánh cá và nổi tiếng về lối rèn kiếm khí. Đặc biệt là người Việt nầy để tóc ngắn và có tục xâm mình. Tiếng Khmer gọi Trung quốc là Sroc Chĕn, với Sroc giống như Sóc trong Sóc Trăng và [chĕn] mang âm gần giống chân tiếng Việt, cũng ứng với [ê chưng] chỉ phương Bắc. Âm [chân] nầy thật ra gần với âm [qin] 秦, tức Tần, nhà Tần (221-206 TCN) của (Tần) Thủy Hoàng Đế. Chữ Qin (秦) phiên âm theo kiểu Wade-Giles là Ch’in sẽ cho ra Chine tiếng Pháp và China tiếng Anh, và rất gần với Chĕn tiếng Khmer. Tiếng Tai-Nung dùng chữ Hac để chỉ người Hoa, tiếng Chăm dùng chữ Lauw (có âm rất gần chữ Lào) chỉ Trung Hoa và người Hoa (xem [12]). Tiếng Mon dùng chỉ người Hoa là Krɜk, gần giống Kʰɛ tiếng Shan, và hai âm nầy gần như âm [khɛ́k] tiếng Khmu hay tiếng Palaung, hay [khɛ́ɛk] tiếng Mon, mang nghĩa như Khách trong Khách Trú (Cắc Chú). Âm [hac] tiếng Tay Nung, dùng để ngưới Hoa, là âm tương ứng âm Quảng Đông [haak] hay âm Hẹ [hag] (客) cho âm chữ khách 客 (Việt) trong Khách Trú (Cắc Chú), 客住 [ke zhu]. Trong khi người Hoa di cư sang các nước Đông Nam Á có thể tự gọi là người ba đào hay đào nạn (chạy nạn), với chữ đào (逃) chuyển âm sang quốc ngữ bình dân có thể là Tàu, cũng giống như chữ triệt (軼), còn gọi điệt, dật, mang nghĩa chạy trốn, được chuyền âm theo kiểu quốc ngữ bình dân thành Chệt. Cần nhớ là triều đại nhà Thanh, với gốc Mãn Châu, kéo dài gần 400 năm, từ 1644 cho đến 1912. Trong nhiều thế kỷ, người Âu Châu thường gọi Trung Hoa bằng Cathay một biến âm của Khitan (契丹), tức Khiết Đan, một giống dân du mục thiết lập nên nước Liao (Liêu辽), tức khu vực Mãn Châu về sau, vào khoảng năm 907 cho đến 1125. Chữ Cathay nầy hiện vẫn còn dùng cho tên hãng hàng không Cathay Pacific với bản doanh nằm ở Hongkong, và tiếng Nga dùng để chỉ China vẫn là Китай (Kitaj) tương ứng với Cathay. Riêng người Trung Quốc ngày trước ưa dùng chữ Hoa hay Hoa Hạ, hoặc Hán hay Hán tộc để chỉ tộc người Hoa. Nhiều cộng đồng Hoa kiều (ở Đông Nam Á hay ở Mĩ) lại thích dùng chữ Đường nhân (唐人) để chỉ người Hoa và Đường Nhân Nhai [tang ren jie] 唐人街, hay Hoa Phố (华埠 [hua bu]) để chỉ Phố Tàu tức Chinatown.
Câu tiếp theo, Cái bụng thò lè, con mắt ốc bươu, có vài từ mang gốc Việt cổ thuộc nhóm Mon-Khmer. Trong đó chữ bụng rất giống ngữ âm [puŋ] tiếng Khmer, hoặc [pɜ̀ŋ] tiếng Mon, mang nghĩa bụng và bao tử giống y như tiếng Việt. Để ý luật ráp vần tiếng Việt cấm xử dụng chữ P trước nguyên âm, như a, ă, ơ, ư, u, …, và [puŋ] bắt buộc phải viết và đọc là bụng. Giống như chữ 龐 [pang] (mặt mày, diện mạo) phải đọc sang tiếng Việt là bàng, hay皮 [pi] (da), giống piel tiếng Spnish, đọc là bì, và hai chữ nầy có âm Ngô Việt bắt đầu bằng [b] như tiếng Việt quốc ngữ: [bi] 皮 và [baon] 龐 (bàng). Nhưng điều nầy không có nghĩa là phụ âm chữ [b] hoàn toàn do các cố đạo định để vào tiếng Việt quốc ngữ, bởi trong tiếng Khmer thỉnh thoảng cũng có biến âm từ [p] sang [b], như chữ Pali (tiếng Nam Phạn), bắt đầu với âm [p], thì tiếng Khmer đọc là Bali, với phụ âm [b]. Hay tiếng La-tinh pater (Cha), bắt đầu bằng [p] có tương đương tiếng Việt là ba. Và cũng không có nghĩa trước thời có quốc ngữ hoàn toàn không có phát âm chữ P tiếp theo bằng nguyên âm, nếu dựa trên các ngôn ngữ láng giềng và bản địa, như Tay-Nung (pao= bao; po= vo; po khẩu= vo gạo) và Mường (pỏi tản= bói toán; pò rầng= bò rừng). Tiếng Lào [pʰúŋ] (phung), tương đương với bụng cho thấy liên hệ giữa [p] trong [puŋ] với [b] trong bụng và [ph] trong [phuŋ], và chỉ có âm [ph] có thể ráp với nguyên âm, trong tiếng Việt. Thí dụ tự điển Alexandre de Rhodes [4] có ghi chữ phỉng (dối gạt) (tức phỉnh), pho (sách), phỉ làõ (phỉ lòng= thỏa dạ, hài lòng), và cần nhớ lòng viết là làõ theo kiểu ráp vần ghi trong tự điển Alexandre de Rhodes [4], cũng như bọũ là ráp vần theo kiểu tiếng Bồ hồi xưa cho chữ bụng. Nhiều kiểu ráp vần quốc ngữ theo tiếng Bồ về sau được các cố đạo người Pháp, nhất là Taberd trong cuốn tự điển [5] xuất bản năm 1838, thay đổi theo ráp vần tiếng Pháp, như làõ viết lại thành lòng, bọũ thành bụng, Oũ Khỏũ thành Ông Khổng (Khổng Tử). Đây là một điểm rất quan trọng của ‘lí thuyết‘ trình bày ở đây, cho rằng những biến đổi chính giữa ráp vần kiểu Alexandre de Rhodes [4] và kiểu của Taberd [5] là do chính Pigneau de Béhaine và Taberd [5] sáng tác và thay đổi, phần lớn cho hợp với ‘khẩu vị‘ của người Pháp và tiếng Pháp, chứ không phải phản ánh thay đổi phát âm của người Việt bản địa. ‘Tiền đề‘ nầy do đó khác xa với tiền đề sử dụng trong ngữ học Tây Phương cũng như Hán Nôm học.
Chữ thò lè cũng có thể đọc thò lò hay thè lè, cho thấy đây là một từ mang hai âm, ưa đứng gần hay cận vị với bụng, bởi đứng nguyên một âm thì sẽ, có khả năng, mang nghĩa khác, hoặc hơi khác, hay mất tính cận vị với từ bụng. Và cũng có thể đoán chữ nầy bị bỏ quên không định chuẩn nên còn sót lại nhiều ngữ âm (thò lò, thò lè, thè lè) cho một ngữ từ. Có thể đoán ngay là bụng thò lè là bụng bự, bụng phình, bụng to, và từ đó có thể liên kết thò lè với bự, bụng bự. Chữ thò đứng một mình mang nghĩa to, bự có âm gần với ngữ âm [dtoh] tiếng Thái, tức Việt to. Thò mang nghĩa protrude hay bulge (tiếng Anh) cũng có thể gần với [tʰɔ̀] (~ [thò]) tiếng Burmese, hoặc 突 [đột] với phát âm quan thoại là [tu] (~ [thò]) mang nghĩa lồi ra / phình ra. Chữ bự lại gần với ngữ âm [bɜ̀ˀ] tiếng Mon, mang nghĩa big hay to (bụng to, bụng phình), trong khi phình lại gần âm với [paong] tiếng Khmer, [pɛŋ] tiếng Shan, [pèeŋ] tiếng Thai, hoặc paunch (bụng bự) tiếng Anh, với paunch ứng với bug tiếng Đan Mạch, buik tiếng Hòa Lan, và hai chữ bug và buik, và đặc biệt bug tiếng Đan Mạch, chỉ khác với ráp vần của bụng ở mỗi một chữ n.
Theo luật ráp vần tiếng Việt, phần lớn do Taberd chuẩn định vào lúc ban đầu [5], những âm bắt đầu bằng [p] phải chuyển sang [ph], hoặc [b], và có thể [pèeŋ] hay [pình] đã đổi thành phình. Để ý phình khác với to ở chỗ phình gợi lên ý niệm về chưa phình, tức vị trí cũ của phình có thể là nhỏ hay hãy còn thon. Cũng cần để ý là tự điển Alexandre de Rhodes [4] không có ghi bự hay phình, còn tự điển Taberd ghi chữ bự đi với mặt mà tự điển Huình Tịnh Của [8] ghi là chừ bự (mặt chừ bự: mặt buồn giận// chừ bự mang nghĩa gần giống với bí xị (có thể gần tiếng Lào, [béʔ] buồn giận, và [sĭː] diện mạo). Và chữ phình có dạng khác là phềnh (phình bụng/ phềnh bụng), có ghi trong tự điển Huình Tịnh Của [8]. Chữ thò đứng riêng có thể cùng gốc với ngữ âm [thŏt] với nghĩa chính là mập, béo. Và thò lò hay thò lè, với hai âm có thể mang cùng gốc với ngữ âm [thuléay] tiếng Khmer, mang nghĩa to, lớn. Trong khi lè trong thò-lè có thể có liên hệ đến [lea] tiếng Cam-Bốt, mang nghĩa vươn ra, nới rộng ra. Và lò trong thò-lò có thể dính với lồi, lộ hay ló (dạng) viết bằng露 [lu][lou] với phát âm Mân Việt, Quảng Đông, Triều Châu gần như [lò]. Chữ lè trong thò-lè hay thè-lè cũng có thể có ngữ nghĩa gần giống với lè trong lè lưỡi, tức đưa lưỡi ra, và lè lưỡi ứng với [lɛ̂ːp lîːn] tiếng Lao, và cần nhớ ngữ âm lưỡi rất gần với ngữ âm [lei] 脷, tiếng Quảng Đông, có nghĩa lưỡi, trong khi các sách xưa thường cho rằng tiếng Hán (Việt) gọi lưỡi là thiệt (舌 [she]) gần âm Hẹ [siet], âm Quảng Đông [sit], hay âm Phúc Kiến [tsih]. Lè hay le trong le lưỡi cũng có âm gần với [èlèd] tiếng Java mang nghĩa thò lưỡi ra (le lưỡi) [11].
Nếu xem một thứ âm xưa của bụng là [pung], và âm xưa của phình (hay phềnh) là [pèeng] và ráp lại hai chữ nầy thành ra [pung-pèeng], thì sẽ thấy từ hai âm nầy chính là từ nhại thanh (onomatopoeia (ô-nô-ma)) của tiếng vỗ bụng (bự), và từ đó có thể thấy từ nguyên của chữ bụng rất có khả năng là một thứ từ được sáng tác qua ô-nô-ma. Tiếng vỗ bụng cũng có thể kí âm là [thoong] hay [ˈtʰɔ́ɔŋ] trong tiếng Thai, mang nghĩa bụng (belly). Chuyện từ nguyên của bụng mang tính ô-nô-ma cũng có vẻ được phản ánh qua những ngữ từ tương ứng vơi bụng (pụng) trong nhiều tiếng Âu Châu: paunch (Anh), Bauch (Đức) (để ý âm đầu [b] tiếng Đức ứng với [p] tiếng Anh), panxa (Catalan), břicho (Tiệp), buk (Thụy Điển), v.v.. Tức lý giải theo kiểu từ vay mượn có thể được tạm gác qua một bên giữa buk (Swedish) và bụng, paunch (Anh) hay [pung]. Mối liên hệ ngữ âm giữa những từ liên quan đến bụng, ở đây,có thể được lí giải bằng mẫu số chung ở ô-nô-ma tức nhại thanh.
Để ý giả thuyết về từ vay mượn có thể xem như dính liền với việc phân xếp các nhóm ngôn ngữ khác nhau, và với ranh giới giữa các ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ. Rất ít khi thấy một từ thuộc nhóm nầy, được xem như từ vay mượn ở chữ thuộc nhóm khác, thí dụ như hắn (nó), hoặc và (and), hay y (nó – 伊) ít khi nghe nói là chữ vay mượn từ, tuần tự, han tiếng Đan Mạch (Danish), Thụy Điển (Swedish), hay [va] tiếng Ba Tư (Persia), tức Iran ngày nay, hoặc ngữ âm [i] (伊) (nó) trong các tiếng Triều Châu, Phúc Kiến, Ngô Việt, hoặc he tiếng Anh hay Il (nó) tiếng Pháp. Hoặc giống nhau trong ngữ âm giữa to look (nhìn) tiếng Anh với睩 [luk] phát âm tiếng Quảng mang nghĩa trợn mắt (nhìn). Để ý tính chất của từ vay mượn (loan word) có lẻ dính liền với hai tính chất khác của mô pháp là, thứ nhất, từ vay mượn thường nằm trong cùng một nhóm ngôn ngữ, và thứ hai từ vựng thông thường mang tính chất trơ, phát xuất từ định để tức arbitrary, chứ không phải hữu cơ, như kiểu liên hệ giữa máu và màu đỏ (xem phía dưới), hoặc Bắc (hướng Bắc) với back tiếng Anh mang nghĩa cái lưng, hay và (and) tiếng Việt và tiếng Ba Tư với [dva] tiếng Nga chỉ số 2, cũng như [dwa] (2) tiếng Chăm. Gạch nối giữa chữ và tiếng Việt, tiếng Persia (Ba Tư) tức Farsi theo lối gọi ngày nay, và số 2 [dva] tiếng Nga, với [dwa] tiếng Chăm có lẻ không phải do ở vay mượn mà do liên hệ đến thứ từ xuyên qua các tiếng khác nhau dùng để chỉ thần thánh thời huyền sử, có thể là Diva, đứng ở ngôi vị thứ 2.
Trở lại chũ thò trong thò lò hay thò lè. Chữ thò trong tiếng Việt ưa đi với ra (thò ra= lồi ra), phản nghĩa với thụt (thụt vô / thụt vào), như thụt thò (thụt vào thò ra) trong miêu tả cử động của cái đầu con rùa. Chữ [taw] tiếng Lào dùng để chỉ con rùa có âm giống như [thò] trong cử động thò ra thụt vào của đầu con rùa. Trong khi con ba ba, một loại rùa, có chữ ba ba rất giống từ ô-nô-ma nhại bước đi con rùa, hay tiếng Shan [paa pʰaa] cũng chỉ con rùa. Cụm từ miêu tả con rùa đi chậm chạp trong tiếng Mon là [krɛ̀ˀ krùt krɛ̀ˀ krùt] thu gọn sang tiếng Việt có thể là rụt rè mang nghĩa chung khá giống, nhưng ngữ nghĩa chính của rụt rè lại khá phân biệt với cụm từ ô-nô-ma [krɛ̀ˀ krùt krɛ̀ˀ krùt] nhại thanh tạo nên bởi cử động chậm chạp của con rùa. Rất có thể ô-nô-ma [krɛ̀ˀ krùt krɛ̀ˀ krùt] gợi nên [ərùt] trong tiếng Mon mang nghĩa con rùa và cũng có âm khá gần với [rùa]. Chữ thụt trong thụt thò có thể là bà con với thập trong thập thò như trong: bạn trai mới của con gái đang thập thò ở ngoài cửa. Chữ thập thò là một từ mang hai âm, và nếu tách thập ra khỏi thò thì nghĩa chính của thập thò sẽ biến mất. Thập trong thập thò có vẻ cùng họ với thấp trong thấp thoáng. Nếu hiểu thò hay thụt là thò ra thụt vào thì thò hay thụt sẽ có bà con với tiếng Thái [thoht] và thập trong nghĩa của thập thò có thể liên hệ với tiếng Thai [thap] mang nghĩa rút quân, rút lui,
Lâm li hơn có lẻ là con mắt ốc bươu, và có thể hiểu ngay mắt bưu là mắt to và lồi. Chữ ốc mang âm gần với [o] tiếng Triều Châu ứng với 蝸 [wo] có nghĩa là ốc. Tiếng Chăm dùng để chỉ ốc là [abaw] có âm [baw] hao hao gần với bưu, nhất là theođịnh luật [au] biến qua lại với [iu]: hiu-hiu (gió thoảng) đọc ra hau-hau theo tiếng Easter Island (Rapanui). Và ốc bưu tiếng Chăm gọi là abaw darang với darang mang nghĩa (trái) nhãn lớn. Chữ bươu trong ốc bươu do đó mang nghĩa cốt lõi là giống một cái gì đó đã được nhận ra rồi, và trong tiếng Chàm [darang] trong [abaw darang] (ốc bươu) mang nghĩa một thứ nhãn trái to, ốc bưu là ốc giống trái nhãn thứ to. Ngay ở chữ nhãn (trái nhãn) cũng có nghĩa là thứ trái cây giống như mắt rồng (long nhãn).
Giống cái gì đó, là kiểu thành lập từ vựng rất phổ biến trong ngôn ngữ, xưa và nay. Như kiểu ốc bươu là ốc giống trái nhãn to, có thể thấy bánh hỏi có lẻ là bánh với sợi bún quặp lại giống như chòm râu, 鬍 có âm [hu] hay [ho] trong tiếng Hoa, và [hôo] tiếng Phúc Kiến, rất gần âm [hỏi] trong bánh hỏi tiếng Việt. Thí dụ khác là món tré theo nghĩa trơ là một món ăn dân dã và bình dân, cách thức làm có thể tìm thấy trên mạng. Theo thiển ý, tên tré có thể dẫn xuất từ nguyên liệu thường dùng nhất là tai heo. Và như vậy âm quốc ngữ [tré] ứng với các âm Ngô Việt [tze], hay âm Triều Châu [ze], cho chữ 仔 [zai] trong nguyên chữ 耳仔 [gnij tze], [re ze], và [ji zai] theo âm tiếng Quảng, mang nghĩa tai, lỗ tai. Âm Quảng Đông / Quan Thoại [zai] (仔) sẽ ứng với âm [tai] (ear) tiếng Việt. Giống như cái gì đã biết rồi chính là một trong các chìa khóa cho việc sáng tạo từ vựng, từ ngàn xưa cho mãi đến ngày nay và sẽ kéo đến ngàn sau. Kiểu kiến tạo từ vựng nầy khác với kiểu dùng một từ trong từ vựng đa âm, nhất là từ nói về một sản phẩm kỹ thuật mới. Như kiểu télé từ gọi tắt cho té1évision, auto (ô tô) gọi tắt từ automobile, hay dù / ô gọi từ chữ vũ (mưa) trong chữ vũ tản (雨伞 [yu san]), với [yu] (yũ / vũ) mang nghĩa mưa, và [san] (tản) có lối viết như vẽ hình cái ô, 伞, mang nghĩa là vật che, tức vũ tản mang nghĩa đồ che mưa (cây dù). Dù do đó chính là biến âm của vũ hay [yũ] (mưa), trong khi [ô] là âm quốc ngữ tương đương với âm [ho] hay [u] trong tiếng Phúc Kiến hay Triều Châu, tức tương ứng với vũ (hay yũ) cho cùng một từ chỉ mưa 雨 (vũ), tức đồng nghĩa với mưa, y như dù. Âm [vũ] (雨), chỉ mưa, tiếng Việt rất gần âm [wu] tiếng Ôn Châu, ở khu Chiết Giang thuộc địa bàn nước Việt năm xưa [12]. Ô hay dù do đó đều mang nghĩa mưa, chứ không phải đồ vật che mưa), nghĩa đồ vật che mưa. Kiểu lấy ra một ngữ âm từ một chữ đa âm, để tạo nên một từ vựng mới, còn có thể thấy chữ cật, tức quả thận hay bồ dục, lấy từ chữ kết trong từ 3 âm 肾结石 [shenjieshi] (thận kết thạch), tức sạn thận, để tạo ra âm Nôm [cật] chỉ quả thận. Âm [cật] lấy từ chữ 结 [jie] (kết) có âm Phúc Kiến là [kiat] hay [kat] rất gần âm Việt [cật].
Tạo dựng từ vựng cũng thường qua con đường ví phỏng (metaphorical). Thí dụ ngày xưa khi tiếng Việt muốn kiếm từ để chỉ màu đỏ thì họ phải liên kết màu đó với một thứ gì đã có tên gọi sẵn, bất kể từ tiếng trong khu vực hay ngoài khu vực. Tiếng Thái có chữ กำเดา [kam’daw] mang nghĩa chảy máu cam (từ mũi) có âm [kam] ứng với cam và [daw] ứng với máu. Chữ [daw] có vị trí ứng với máu trong máu cam, và cũng ứng với phát âm Việt quốc ngữ đỏ và màu đỏ là màu của máu, trong ngữ nghĩa thời ban sơ. Âm [đỏ] cũng gần với [du] trong dugo tiếng Tagalog (Phi) chỉ máu, và [to] trong toto các thứ tiếng hải đảo Thái Bình Dương như Samoa, Tonga, Tahiti cũng dùng để chỉ máu. Rất ngộ là chữ máu tiếng Việt lại giống với chữ Mud tiếng Sumerian, thuộc đế quốc Sumer ở Trung Đông (phía nam Iraq) cách đây trên 5000 năm, và chữ Máóhk, âm giống máu, nhưng mang nghĩa màu đỏ thuộc tiếng Blackfoot của người da đỏ ở Canada. Cũng giống như màu trắng (tlắng – Mường) trong tiếng Việt là màu của trăng (tlăng – Mường), trong khi trong tiếng Thái, màu trắng [khaaoR] là màu của gạo [khaaoF]. Trong tiếng Anh, màu xanh green (xanh lá cây) là màu xanh của grass (cỏ), tức green và grass có âm gần nhau trong kiểu mô phỏng trường.
Lối sáng tạo từ vựng dựa trên mô phỏng trường (metaphorical field) thường dùng nhất trong ngôn ngữ nhà báo, nhất là tiếng Anh: mercury rising (nhiệt độ đang tăng – mercury là thủy ngân dùng trong nhiệt kế đo nhiệt độ), wages flatlining (lương phạn không tăng – flatlining mang nghĩa đường trên đồ thị chạy ngang), business going south (thương vụ đang xuống – chữ south chỉ hướng nam của kim địa bàn), treaty has been on life support (hiệp ước gần đây chỉ còn sống thoi thóp (bằng bình dưỡng khí)). Và vào thời ban sơ, chữ nhiệt (nóng, hơi nóng, độ nóng) rất có khả năng chính là mô phỏng từ của chữ nhật chỉ mặt trời.
Bảng Đối Chiếu trình bày ở đây giữa chữ nhật (sun) và nhiệt (heat) cho thấy có nhiều ngôn ngữ đã sáng tác nên từ chỉ heat (nhiệt) từ chữ dùng để chỉ mặt trời (sun). Những ngôn ngữ như Breton, Welsh lại dùng âm giống như Helios tiếng Hy Lạp để chỉ mặt trời, nhưng lại dùng ngữ âm khác, có lẽ phổ biến vào nhiều thế kỉ sau, như Heol hay Haul (Heat), để chỉ sức nóng, tức nhiệt. Từ nguyên học theo trình bày ở đây cũng cho thấy từ nguyên của từ tiếng Anh heat (nhiệt) có thể là helios (nhựt/nhật), nghĩa mặt trời tiếng Hy-Lạp, và liên hệ từ nguyên nầy là liên hệ mô phỏng (metaphor) có trong thời ban sơ của ngôn ngữ, không để ý đến ranh giới các ngôn ngữ như trong thời hiện tại. Trong từ nguyên học (etymology)thông thường, chữ heat sẽ được truy về những từ cùng gốc là hot (nóng) hay những từ thuộc tiếng Anh cổ (hætu), v.v., với liên hệ chung giữa heat và hætu vẫn là tính arbitrary, tức định để hay tính trơ, không cần biết đến nguyên nhân hay gốc gác về ý nghĩa cốt lõi của từng từ như heat (sức nóng) và hætu, và giữa heat (sức nóng) với các từ thuộc ngôn ngữ khác dùng để chỉ mặt trời. Ngoài ra trong tiếng Sumer, cách đây 5000 năm, có từ [ud] hay [u] dùng để chỉ mặt trời và cũng chỉ sức nóng, cơn sốt, hoặc mùa hè. Trong tiếng Việt, chữ nóng liên hệ đến chữ 燶 [nung][nóng] (đốt nóng) và Thần Nông (神農 [Shennong]), ông tổ nghề nông, và cũng là Viêm Đế (炎帝 [Yandi]), tức thần lửa (sinh ra sức nóng). Theo chân Thần Nông, chữ nong (侬 hoặc 儂), ngày xưa dùng để chỉ đại từ ngôi thứ 1, và ngày nay vẫn là đại từ ngôi 2 (you) trong tiếng Ngô Việt (Wu), khu vực Thượng Hải, Chiết Giang, và cũng chính là họ Nông, liên hệ đến canh nông, và có thể có biến âm là Nùng, như họ của Nùng Trí Cao (儂智高, 1025-1055), lãnh tụ người Tày Nùng và người Tráng (Quảng Tây) đứng lên đòi tự trị với nhà Tống (960-1279) và nhà Lý (1009-1225).
GHI CHÚ: 1. Chữ nóng liên hệ đến chữ 燶 [nung][nóng] (đốt nóng) và Thần Nông (神農 [Shennong]), ông tổ nghề nông, và cũng là Viêm Đế (炎帝 [Yandi]), thần lửa (sinh ra sức nóng). 2. Âm khác chỉ mặt trời là [hi] ひ ứng với vay mượn [hiito] ヒート từ chữ heat. 3. Hi-Lạp là phiên âm của Hellas (Ελλάς) mang âm gần với Helios (mặt trời). Chữ Hellas nầy có bà con với chữ hélas tiếng Tây mang nghĩa trời ơi/ ối giời (alas).Chữ helios cho ra chữ Helium (He) chất khí sản xuất ở mặt trời. 4. Nhiệt độ (temperature): tymheredd. 5. Nhiệt độ: gwrezverk; 6. Chữ [jua] (mặt trời) có âm giống jour (ngày) tiếng Pháp. 7. Chữ 일 [il] tiếng Hàn rất giống Ilios (ήλιος) (mặt trời) tiếng Hi-Lạp, và 열 [yeol] (nhiệt độ) giống [yang] trong 태양[taeyang] (mặt trời). 7. Trong tiếng Sumer, cách đây 5000 năm, có chữ [ud] vừa chỉ mặt trời, nhiệt, ngày, và mùa hè (nóng).
Trở lại với chữ ốc bươu. Nếu tiếng Chàm dùng ngữ âm [darang] (nhãn to) để chỉ ốc bươu là ốc có kích cỡ như thứ nhãn to thì ốc bưu trong tiếng Việt có chữ bưu dùng để chỉ một thứ dâu to cũng bằng con ốc bưu, tiếng Hoa là藨 [biao] đọc theo tiếng Quảng là [biu], tức bưu hay bươu. Tự điển Alexandre de Rhodes [4] có khá nhiều kiểu ráp vần cho chữ bươu hay bướu: bướu, bơu, bớu, bu, bơâo, bơấo. Và âm [ươu] được giữ cho các chữ bươu (ốc bươu), bướu (cục bướu), hay con hươu, mãi cho đến các tự điển soạn ở thế kỉ 19 như của Taberd hay Huình Tịnh Của. Riêng chữ hươu trong con hươu ghi trong tự điển Alexandre de Rhodes là con nai, còn có thể gọi là con mang hay con hoẵng, con kỉ, con mễn. Chữ mang giống âm với [(r)mang] tiếng Mon hay [rmiang] tiếng Surin Khmer, trong khi hoẵng giống âm Thai/Lao [kwaang] cũng dùng để chỉ một loại nai. Đặc biệt chữ hươu rất có khả năng là một loại từ ô-nô-ma nhại theo tiếng kêu của con hoẵng (hươu), tức từ ô-nô-ma [hoh] trong tiếng Srê, và [iu] tiếng Tiều, [ieu] tiếng Tô Châu, viết là 呦呦 [jau jau] đọc theo tiếng Quảng, tức [hiu hiu] hay [hươu hươu]. Chữ nai trong con nai có thể là một từ cổ phát âm [naai] theo tiếng Quảng ứng với chữ [nai], với âm Quảng Đông hay Quan Thoại [nai] giống y âm Việt, viết bằng chữ羊 [yang] (dê/cừu) ráp với chữ 兒 [ni] (nghĩa chính: con nhỏ), mang nghĩa con cừu hay dê có lông xoắn. Chữ nai cũng có thể mang âm giống với chữ 怩 [nei] miêu tả dáng ngơ ngác, nhút nhát của con nai.
Có thể quan sát thêm chuyện lộn xộn chữ nghĩa trong những thứ từ dùng để chỉ các loại chuối. Chữ chuối có thể là âm quốc ngữ tương ứng với [ju] tiếng Mnong hay Srê thuộc nhóm Mon-Khmer, hay với 蕉 [ziou] hay [ziao] đọc theo giọng Phúc Kiến, ứng với âm Triều Châu [ziē], và âm [ziē] nầy tương cận với âm quốc ngữ [già] cho ra chuối già. Chữ già trong chuối già không có nghĩa lớn tuổi mà chỉ có nghĩa chuối trong kiểu gọi khác, rồi dùng để gọi một loại chuối.Chữ蕉 [jiao] (âm quan thoại của [ziē]) lại ứng với quốc ngữ (Hán-Việt) là tiêu (nguyên chữ cho chuối là hương tiêu 香蕉 hay ba tiêu 芭蕉), và từ hương tiêu đưa tới tên một loại chuối là chuối hương hay chuối già hương, còn ba tiêu dẫn đến chuối ba lùn hay chuối tiêu lùn. Chữ lùn tiếng Việt rất gần [loun:] tiếng Burmese mang nghĩa thấp và béo và chữ lùn là 侏儒 [zhu ru] tiếng Hoa, có phát âm Phúc Kiến (Mân Việt) là [zu lu] với [lu] gần với [lùn]. Chuối lùn rừng gọi là [koj lan] trong tiếng Shan, [koj] chuối, [lan] là cúi thấp, xuyên qua. Thật ra chuối tiêu lùn hay ba lùn có tên tiếng Anh là dwarf banana bởi cây chuối rất thấp (khoảng 1 mét) mà lại cho những nải chuối nhiều trái. Thùng chứa chuối để chở ra chợ bán ngày trước có thể là cái cần xé, với chữ cần có âm giống như [krɑŋ] tiếng Khmer, và xé giống [cɛŋ] (giống [xén]) tiếng Mon, và [krɑŋ] và [cɛŋ] đều mang ngữ nghĩa, và ngữ âm, rất giống cần xé.
Một Tá Cam
Lộn xộn chữ nghĩa và từ vựng thường xảy ra trong những môi trường thiếu chữ viết, người viết và học giả. Ở những môi trường nầy, kiến thức dân gian thường dính liền với chuyện kể, tức narrative, thường xuất phát từ những người cao niên hoặc ông già bà cả, trong khi kiến thức truyền bá theo kiểu sách vở hay hàn lâm thường cố gắng tránh rơi vào chuyện kể, với lí do chính là chuyện kể thường mang nhiều hình thức khác nhau và ưa dính liền với thêu dệt,’sáng tạo’, nhưng kiến thức hàn lâm cũng có khuynh hướng xử dụng chuyện kể để có thêm dữ liệu hỗ trợ. Để ý kiến thức truyền theo kiểu chuyện kể (narrative) thường hấp dẫn, dễ nhớ và nhớ lâu, thường không thể thiếu trong các chính sách về chính trị hoặc kinh tế. Cả hai lối truyền bá kiến thức, chuyện kể và sách vở, đều có điểm hay và điểm dở, và cả hai thật ra đều có thể xem như những mô pháp (paradigm) [13] riêng, ưa cạnh tranh lẫn nhau, và cũng có mang khuynh hướng sát nhập, hỗ tương với nhau. Nhìn hàn lâm và chuyện kể như hai thứ mô pháp sẽ thấy mô pháp nào cũng có thể tự nó khoác lên mình vai trò trọng tài, và có trọng tài nằm trong mô pháp thì kiến thức nằm trong mô pháp sẽ có khuynh hướng được một số người dễ dãi chấp nhận. Và cũng rất thường trọng tài nằm trong mô pháp (paradigm) không phải đơn thuần dựa ở phương pháp hay lô-gich hoặc được minh chứng nhiều lần, mà còn là theo luật đa số nhất là đa số với dòng thời gian và không gian, hoặc được rất nhiều người xử dụng hay mặc nhiên chấp nhận trong một thời gian dài. Trọng tài theo kiểu đa số cũng có thể là qua một phát minh khoa học được một học giả hay một khoa học gia thời danh phát kiến. Trọng tài kiểu nầy thường mang tính tuyệt đối nhưng vẫn không bảo đảm đó là một chân lý một trăm phần trăm, bởi chân lý dựa trên mô pháp, và mô pháp lại luôn luôn cần trọng tài. Và trọng tài kiểu nào thì cũng có trọng tài khác (đã có hay sẽ có) cạnh tranh.
Bản chất thực thụ của khoa học không phải là song thể hay độc thể mà là phi song thể, bởi song thể hay độc thể ưa chấp nhận việc mô pháp với trọng tài có thể nhập lại là một, trong khi phi song thể có thể quan sát paradigm [13] tức mô pháp như một cá thể riêng giống như mọi cá thể khác, xử dụng để đi tìm sự thực hay giải pháp vĩnh cửu cho vấn đề. Cũng cần nhấn mạnh là chữ mô pháp (paradigm) có thể bao gồm nghĩa thật rộng, bao gồm thể chế và phương cách làm việc của khoa học và khoa học gia. Cũng để ý chữ vĩnh cửu trong giải pháp vĩnh cửu có thể dính liền với một định nghĩa về chân lý (truth) cho rằng chân lý mang tính độc thể và vĩnh cửu.Hiểu mô pháp dựa vào, hoặc có thể biểu tượng bằng, song thể, sẽ thấy phi-song-thể mang tính chất cơ bản là dựa vào kiến thức tạo lập (trước đó) bằng mô pháp, nhưng cùng một lúc không hoàn toàn tin vào mô pháp (paradigm). Chìa khóa trong bất cứ mô pháp khoa học nào có thể truy về vai trò hoặc bản chất của cá thể hay bản sắc, nói theo tiếng Anh là identity, và thông thường cá thể ít khi được xem, dù đáng lẽ được xem, mang ảnh hưởng quan trọng trong tiến trình khoa học.Chữ Identity rất khó dịch ra tiếng Việt, thí dụ như lý lịch hay căn cước, cá thể hoặc căn tính hay bản sắc và nếu như theo tiếng Hoa có thể là thân phận, mang nghĩa khác trong tiếng Việt. Cần nhấn mạnh là identity mang bản tính là một đại lượng luôn thay đổi, chứ không cố định, như trong ý nghĩa thường dùng trong sách vở. Thay đổi ý nghĩa của từ ngữ dùng trong luận thuật, còn có thể thấy qua chữ non-dualism dùng ở đây, xem như tương đương với phi-song-thể, cố gắng tránh khỏi chữ bất nhị thường dùng với những ý niệm không nhất thiết giống với non-dualism ở đây.
Cá thể tức identity có thể hiểu nôm na là liên quan đến câu hỏi A có phải thật sự là A hay không? Và trong ứng dụng rộng lớn bao trùm trên mô pháp là câu hỏi về cá thể, biểu tượng bằng tiền đề, định đề, và nhất là sự chấp nhận từng cá thể như những đại lượng riêng biệt, như thời gian, tọa độ, kích thước, không gian, vận tốc, danh từ, động từ, ngữ từ, ngữ nghĩa, nhóm ngôn ngữ trong mọi tiến trình khoa học. Nhất là trong toán học, cá thể có vai trò như một đại lượng tuyệt đối và riêng biệt, hỗ tương với, và được xử dụng trong một hệ lô-gich tuyệt hảo (của toán học). Trong chuyện chấp nhận vai trò siêu đẳng của toán học trong những khoa học dựa vào toán học, như khoa vật lí, có một thứ tiền đề làm gạch nối giữa toán học và khoa học hoặc chân lý suy từ rất nhiều quan sát thực nghiệm, và đó là sự song hành hay giống nhau giữa lô-gich tuyệt hảo của toán học với tiền đề (thực nghiệm) là vũ trụ có một xếp đặt hết sức thứ tự giống y như lô-gich. Khoa học dựa vào toán học nói chung, rất ít khi đặt lại câu hỏi hoặc đặt lại vấn đề về cá thể. Giải thích đơn giản cho chuyện nầy là cá thể nằm chìm trong mô pháp và mô pháp tự nó cũng là một ngôn ngữ riêng biệt, dùng để truyền bá kiến thức, đa phần qua đường học vấn. Như vậy kiến thức truyền qua mô pháp và giáo dục thông thường chỉ diễn đạt được dễ dàng, như một ngôn ngữ cá biệt, giữa những nhà chuyên nghiệp được huấn luyện rất kỹ trong cùng mô pháp. Trong thứ ngôn ngữ đặc biệt đó, cá thể thường đóng vai trò của một từ vựng hay ngữ từ nên rất ít khi được kiểm chứng lại toàn bộ những tính chất của cá thể nằm trong và ngoài mô pháp (paradigm). Nói một cách khác, đối với mô pháp, cá thể thường khoác lên mình một chiếc áo độc thể.
Ý niệm về cá thể là một ý niệm ít khi được để ý trong tiến trình tìm tòi khoa học, bởi mô pháp quen thuộc của khoa học, đặt trọng tâm chính ở lô-gich, có lẽ được dẫn xuất từ thời Aristotle, với phân biệt về cá thể ban sơ giữa hai nhóm cá thể là hữu hình và siêu hình (metaphysical). Thông thường mô pháp (paradigm) hoàn toàn dựa vào tính độc thể của cá thể. Thí dụ, thời gian khác với không gian, vận tốc khác thời gian, vận tốc khác với động lượng (momentum), động lượng khác vị trí, động từ khác với chủ từ, ngữ từ khác với, nhưng có liên hệ một-với-một với ngữ nghĩa, theo thiết định của Ferdinand de Saussure [22], v.v.. Gần như trong bất cứ mô pháp khoa học nào, cũng có thể xét lại tính trung thật với sự thật nếu tạm gác sang một bên, giá trị của lô-gich hay quan sát thực nghiệm, mà nhìn kỹ lại tiền đề và cá thể.
Thử đơn cử một vài thí dụ đặt lại vấn đề A có phải thật sự là A hay không? trong chuyện độc thể (monism) của cá thể (identity). Trong tiếng Anh hai động từ tương đương với đầu hàng tiếng Việt là to surrender và to capitulate. Muốn hiểu surrender khác với capitulate ra sao, thì theo mô pháp sẵn có, cần phải tra từ nguyên của cả hai. Surrender mang gốc gần nhất là tiếng Pháp se rendre, và se rendre có nghĩa tự nạp mình, tự chấp nhận ý kiến người khác (mang một nghĩa của to bow tiếng Anh), hay tự nạp hay tự quăng vũ khí. Còn capitulate có thể tương ứng với tiếng Pháp capituler, hoặc truy về gốc La-tinh [14] là capitulare mang một nghĩa là thảo ra những điều khoản liên hệ tới đầu hàng, dựa vào các sách vở hay thư tịch xưa viết vào khoảng thế kỷ 15-16. Tức từ nguyên học thường dựa vào chữ viết hoặc ngữ âm của một từ mang một cá thể gần giống, tuy có thể thuộc ngôn ngữ khác, trong khi truy tầm từ nguyên ở đây, như máu và màu đỏ, Bắc và phía sau lưng, và với số 2, chú trọng đến mô phỏng tức giống cái gì đã biết trước. Nếu xét về thành tố của đầu hàng ở ngoài mặt trận, sẽ thấy hai thành tố chính, thứ nhất là phải quăng vũ khí xuống đất, và thứ hai là phải cúi đầu để chứng tỏ không tìm cách phản công nên không có để mắt tìm chỗ sơ hở của phe thắng cuộc. Hai chữ đầu hàng (投降 – [tau hong] Quảng), có vẻ như mô tả đầy đủ hai thành tố nầy, với đầu (投) mang nghĩ quẳng đi, ném đi, và hàng (降) nghĩa chính là xuống thấp, giáng thấp, với 降表 [xiang biao] (hàng biểu), giống như capitulare, tức điều khoản đầu hàng. Chữ capitulate cũng mang gốc với kaput mang nghĩa cái đầu trong tiếng Anh cổ, hay với capital trong capital punishment (trừng phạt chặt đầu). Truy tầm từ nguyên theo kiểu nầy là dùng một hay nhiều ngôn ngữ khác, không cần cùng nhóm ngôn ngữ, và chú trọng tới ngữ nghĩa, và các thành tố sau lưng ngữ từ và ngữ nghĩa.
Cũng thử xem lại chữ tá mang nghĩa mười hai (12). Chữ tá thường được cho là một từ thuần Nôm, với lí do đơn giản là chữ Trung mang nghĩa tương tự 打 [da] (đả), có phát âm tiếng Phúc Kiến [tá] y hệt tiếng Việt. Chữ 打 [da] có đến khoảng 20 ngữ nghĩa khác nhau, với nghĩa thường dùng trong tiếng Việt là ấu đả, đánh đập. Riêng đối với tá (打) với ngữ nghĩa của con số 12, thì chữ viết 打 [da] không lột được ngữ nghĩa, chính yếu liên hệ đến số 12, mà chỉ cho ra ngữ âm. Có từ điển [17] cho chữ 打 [da] với nghĩa tá, chính là ngữ âm lấy từ chữ 2 âm 打臣 [dachen] phiên âm từ chữ dozen (tá) tiếng Anh. Chữ 打 [da] nầy có âm Ngô Việt là [taz], hay âm Phúc Kiến [tá], rất giống tá. Muốn truy từ nguyên chữ tá theo kiểu hữu cơ hay có xúc tác, tức có liên hệ đến con số 12, thay vì kiểu trơ, có lẽ cần xem qua những ý niệm ban đầu hoặc chung quanh con số 12. Theo lí thuyết trình bày ở đây, con số 12 ra đời cùng với sinh hữu, qua nhận xét thực nghiệm muôn đời là thời gian chạy theo nhiều chu kì, và cơ bản nhất là 12 kì trăng tròn cho một năm.
Con số 12 ra đời từ quan sát thực nghiệm nầy, cũng như con số 10 bắt đầu từ 10 ngón tay hay 10 ngón chân. Số 12 cho ra thuở ban đầu những thứ tên thứ tự khác nhau gọi ra 12 tháng và 12 địa chi (Tí, Sửu, Dần, v.v.) thuở ban sơ ra đời có lẽ theo kiểu nầy, tức dựa vào tháng, chứ không phải 12 năm như kiểu 12 con giáp. Tiếp theo “thực nghiệm” 12 tháng âm lịch, là “phát minh” chia một ngày ra 12 giở (mỗi giờ trong tiếng Trung xưa ứng với 2 giờ thời bây giờ), và giờ Tí bắt đầu từ 11 giờ tối đến 1 giờ sáng. Con số 12 dùng cho thời gian tính theo Tây Phương sẽ chia ra ngày và đêm, với ngày có 12 giờ và đêm cũng 12 giờ. Có thể vào thời huyền sử mỗi một dân tộc đều có tên riêng cho con số 12 ứng vào 12 tháng, hay 1 năm. Cá thể đầu tiên cần quan sát với tá (12) là từ dùng để chỉ năm vào thời xa xưa. Để ý là rất dễ tìm một quyển tự điển Hán-Việt hay Trung-Việt nhưng cực khó khi muốn có một quyển tự điển Việt-Trung hay Việt-Hán, và nếu chịu khó mò từ các tự điển Hán-Việt (thí dụ [17]) sẽ thấy các tên Hán Việt dùng để chỉ năm tức toàn bộ 12 tháng, ứng với tá (12), theo thứ tự, là tuế歲 hay岁 [sui] (tiếng Việt dùng như tuổi, trong khi âm [tuế] giống Triều Châu [sue]) thời nhà Hạ (夏). Chữ tự 祀 dùng chỉ năm vào đời nhà Thương (商), chữ niên 年, nhà Châu (周), và chữ tải 載, vào đời nhà Đường (唐) và Ngô (吳). Trong các ngữ âm ứng với ngữ từ chỉ con số 12 (=1 năm) nầy chữ tải (載) (Hẹ: [zai]) phát âm theo các tiếng thuộc nhóm Wu (Ngô Việt), thường là [tse] hay [tze], hoặc âm Mân Nam [tsai] [3], rất gần với âm [tá] hay [tải] của quốc ngữ ngày nay.
Nhìn chữ tá theo các ngôn ngữ bên phía Tây, sẽ thấy tiếng Burmese có chữ mang âm [da zin] giống như chuyển âm từ tiếng Anh dozen (tá), hay tương tự chữ Ấn दर्जन [darjan] cũng có lẽ là phiên âm của dozen. Trong khi tiếng Sanskrit có ngữ âm [abda] mang âm [da] như [da zin] hay [darjan] và [abda] trong tiếng Sanskrit là từ dùng để chỉ năm (12 tháng) giống như tải (載) xem ở đây như âm cổ đại của tá (12) quốc ngữ.Phiên âm tá (12) hay 打 [da] tiếng Trung dựa theo dozen hay [da zin] tiếng Miến, chỉ là trong vài thế kỉ gần đây bởi dozen chỉ là từ ghép số 2 và số 10, thí dụ dos (2) tiếng Spanish và zehn (10) tiếng Đức.
Tiếng Lào [lŏː] và rất nhiều tiếng thuộc nhóm Mon-Khmer ưa dùng chữ [loo] tức lô tiếng Việt để chỉ một tá. Âm [loo] nầy (Khmer) cũng dùng như vay mượn từ lot tiếng Anh để chỉ lô đất và thật ra lô (đất) lại cũng có thể gần với chữ 陸 [lu], có phát âm tiếng Ngô là [loh], dùng để chỉ đất bằng phẳng. Cũng chữ Khmer [loo] có thể dùng để chỉ cái lỗ mang âm chỉ khác thinh dấu ngã, nhưng nghĩa giống nhau. Nhiều người không quen thuộc với lối dùng TÁ (12) trong những chợ búa đo lường bánh trái bằng tá sẽ ngạc nhiên khi thấy 1 tá có thể biến đổi từ 12 cho đến 15, hay hơn nữa theo số đếm. Một tá cam hay một tá ổi tính theo kiểu bất định nầy cũng có thể thấy qua các ngôn ngữ khác. Trong tiếng Khmer, có chữ [kbac] chỉ ổ bánh thứ 13, người bán thường tặng thêm khi muốn mua một tá bánh [15], trong tiếng Ấn có chữ [terha] cũng dùng để chỉ tá, một con số lớn, tại các lò bán bánh. Còn tiếng Khasi có từ [shi-spah] nghĩa nguyên thủy là 1 trăm, nhưng có khi mua một shi-spah cam lại có thể nhận được cả nghìn quả cam. Câu chuyện về tính bất định của tá có thể bắt nguồn từ chỗ tá mang tính tương cận với chục, một từ thường hiểu nôm na là tương đương với 10, hay chữ decade trong tiếng Anh. Chữ chục viết trong tự điển Alexandre de Rhodes là Chọuc, và chữ Nôm thường chép là chữ 逐 [ch’uk] (Hẹ) để cho âm, ghép bên phải với chữ十 [shi], tức 10, để cho nghĩa (𨔿). Nhưng tính thiếu chính xác của chục lại có thể bắt nguồn từ những từ cổ hơn mang một nghĩa khác, như là chùm, nhóm, bộ, bó. Tiếng Lahu ở biên giới phía Bắc có từ [chûk] chỉ nhóm, chùm, trong khi tiếng Thái có [gra jook] với [jook] có âm giống [chục], mang nghĩa chùm. Cũng giống như các từ 属, 束, 族, tiếng Trung thường mang âm [zuk] tiếng Quảng (gần [chục]), mang nghĩa chùm, bó, nhóm. Nghĩ tới một nải chuối hay chùm chuối, sẽ thấy nải chuối có con số trái chuối gần với 10 nhưng không thể nào luôn luôn bằng 10.
Thử nhìn lại vấn đề cá thể trong khoa học. Có thể nói cá thể chính là tính chất cá biệt của khoa học phương Tây bắt nguồn từ thời Aristotle, trong khoảng thời gian mà phương Đông cho ra đời quyển Đạo Đức Kinh hoàn toàn không có đề cập tới ý niệm cá thể theo quan điểm kiểu Tây Phương. Thật ra cá thể, mặc dù “thường” được thừa nhận là độc thể, chính nó cũng không thể nào là độc thể (monist) mà luôn luôn ẩn tàng một bản chất song thể (dualist). Thí dụ muốn biết nhanh hay độ nhanh, khoa học sáng tác một cá thể gọi là vận tốc, tính bằng di chuyển không gian chia cho thay đổi thời gian, viết theo kí hiệu là v= Δs/Δt. Nhưng trước phát kiến về vận tốc nầy, và mãi cho tới ngày nay, trong các cuộc chạy đua hay đua ngựa, đua chó, người ta vẫn có thể đo độ nhanh bằng so sánh thời gian hay khoảng cách (không gian) đạt được giữa những cá thể dự phần trong cuộc đua.
Cả ba thứ, vận tốc, không gian và thời gian chỉ có thể cho thông tin về nhanh qua một so sánh lẫn nhau, hay so sánh với một con số nào đó đã nằm trong bộ nhớ hay kiến thức. Nó cũng giống như vị trí x hoặc thời gian t sẽ không mang ý nghĩa gì hết nếu trong bộ nhớ hay kiến thức không có con số gốc hay một con số nào khác để so sánh. Có thể hầu như tất cả cá thể trong hiện hữu đều mang tính song thể che dấu bằng độc thể. Thử xem lại nguyên lý bất định của Heisenberg, thiết định rằng một khi vị trí của một vi tử, tức một phần tử cực nhỏ, đang di động được xác định khá rõ thì động lượng (momentum) của nó chỉ được đo một cách mơ hồ, hay ngược lại, khi động lương được đo khá chính xác thì vị trí của vi tử lại trở nên mơ hồ. Động lượng (momentum) được đo bằng trọng khối m nhân cho vận tốc vcủa vi tử, M=mv, và M là động lượng, nhưng thật ra thành tố chính của M lại là vận tốc v, luôn luôn dính liền với 2 vị trí kế tiếp của vi tử, và vị trí thật, hay tức thời, của vi tử cũng lại cần một vị trí trước để so sánh, và từ đó có thể thấy tính luân hoàn hay hoán chuyển với nhau giữa vị trí của vi tử và động lượng. Tức vị trí của vi tử và động lượng có thể lâm vào cảnh tuy hai mà một, tuy một mà hai, rất khó phân biệt với nhau.
Trong ngôn ngữ, ý niệm về cá thể vẫn được xử dụng thường xuyên, và song hành với cá thể trong khoa học về ngôn ngữ xưa nay là tính trơ (inert / arbitrary) của từ vựng, phản ánh qua liên hệ ngữ từ và ngữ nghĩa. Tính trơ nầy sẽ đưa chủ đề của học thuật về ngôn ngữ theo hướng chuẩn định và định để. Như đã trình bày ở trên, nghiên cứu không dựa vào mô pháp hoặc phương pháp khoa học xưa nay, sẽ phải tìm từ nguyên của một chữ qua những ngữ nghĩa hữu cơ của nó, hoặc các ngữ âm tương cận ăn khớp với kiến thức người xử dụng tiếng nói trong thời mới phát kiến một ngữ từ mới. Thí dụ như tìm từ nguyên của chữ đỏ hay màu đỏ, thì phải xem qua những chữ cổ, bất cứ từ tiếng gì, dùng để chỉ máu, và muốn tìm từ nguyên của tá (12) thì phải tìm chữ gì có nghĩa ở đáy là năm bao gồm 12 mùa trăng.
Thí dụ về xuất xứ, nguyên do, hay ý nghĩa thường bị định để che khuất là từ Bắc (hướng bắc). Trong lối tra cứu từ nguyên thường dùng, có thể dừng ở chỗ bắc mang gốc, hoặc cùng gốc, với từ 北 [bei], phát âm [bak] theo tiếng Quảng. Trong kiểu tìm từ nguyên nầy, phát âm [bak] tiếng Quảng cũng không cho biết ý nghĩa gì, ngoài liên hệ giữa ngữ từ 北 [bak] hay bắc và ngữ nghĩa bắc, hướng tương phản với hướng nam, bắc là bắc. Từ nguyên dựa trên mô phỏng và truy cứu qui ước về phương hướng ở thời xa xưa, như trình bày trong [15], cho biết là từ nguyên của bắc là back tiếng Anh, mang nghĩa cái lưng. Tương tự, từ nguyên của chữ Nam (hướng Nam) là năm (5), khi xưa dùng để chỉ bàn tay năm ngón, nằm ở phương hướng đối chọi với hướng bắc, tức tương phản với lưng. Định lý định để cũng không giải thích lí do trong rất nhiều ngôn ngữ, hai số mười một (11) và mười hai (12) thoạt nhìn đều có tên gọi riêng, như onze và douze (tiếng Pháp), hay eleven và twelve (tiếng Anh), và lí giải đề ra ở đây là đó không phải là dấu vết của hệ thống số đếm cơ 12, mà là toàn bộ tên gọi khác nhau của mười hai mùa trăng đánh dấu chu kì 1 năm. Cấu trúc của onze (11) và douze (12) rất giống eleven (11) và twelve (12), ở chỗ cả hai đều dựa vào những biến âm của từ có sẵn dành cho số 10, 1, và 2. Chữ onze thiết lập bằng cách nhập [on] (số 1, người) với [ze] (số 10, trong các phương ngữ Âu Châu, xem [18], giống như douze (2 + 10). Còn eleven và twelve có thể thiết lập bằng cách dùng từ elf chỉ một loại người trong truyền thuyết Norse ở Bắc Âu, có thể có 12 ngón tay. So với nhiều tiếng ở Bắc Âu, như Hà Lan (11= elf, 12= twaalf) hoặc Đan Mạch (11= elleve, 12= tolv), hay Đức (11= elf, 12= zwölf), sẽ thấy [el] trong eleven (11) tương ứng với số 1, và [tw*] trong twelve (12), ứng với số 2 [two], giống [to] trong tolv (12) tiếng Đan Mạch, hoặc [zw*] (tức zwei (2)) trong zwölf (12) tiếng Đức. .
Công Tử Bột và Chế Độ Tỉnh Điền
Thừ xem qua cụm từ công tử bột. Tra cứu trên mạng, sẽ thấy đa phần những giải thích đều cho là bột là bột, là một chữ nhiều tính Nôm hơn Hán. Tức bột có thể là bột để làm bánh, màu trắng. Hay bột là một từ vay mượn của tiếng Tây la poste, tức bưu điện. Tóm lại nếu cho bột trong công tử bột là một từ Nôm, thì công tử bột sẽ là một thứ công tử có da trắng bệt (vì thường ở trong nhà, ít khi ra nắng) hay giống mấy thầy kí, ăn mặc bảnh bao làm ở sở bưu điện thời Tây. Muốn hiểu chữ bột theo một kiểu khác, không dựa trên tiền đề về cá thể A là A, thử xem lại chữ tự sướng tương đương với selfie, tức tự chụp ảnh, rất thường, bằng điện thoại di động. Chữ sướng trong tự sướng tương đương với phát âm [soeng], tiếng Quảng, ứng với chữ 相 mang phát âm quan thoại là [xiāng] hay [xiàng]. Tiếng Hán Việt đọc chữ 相 nầy là tương hay tướng, mang hai thinh khác nhau và chừng 20 nghĩa khác nhau, trong đó có hình chụp hay chụp hình. Có thể thấy sướng trong tự sướng nối với [soeng3] tiếng Quảng, trong khi tương và tướng ứng với [siong1] và [siong4] tiếng Hakka (Hẹ) hoặc [xiāng] và [xiàng] tiếng quan thoại. Trong khi tương và tướng có thể được ghi trong tự điển Hán Việt, ứng với相 [xiāng] và [xiàng], chữ sướng thường có thể đội danh là một từ Nôm, nhưng thật ra có thể móc nối với chữ 相, phát âm giống sướng qua một tiếng khác.Giống như chữ Hán Việt tỉnh (井) mang nghĩa chữ Nôm là giếng (well). Nhưng các tự điển trực tuyến ngày nay cho biết âm [tỉnh] rất gần với các âm Ngô Việt, điển hình là âm [tsỉn] (井) tiếng Wuxi (Vô Tích) thuộc Giang Tô, trong khi giếng, viết là gyếng theo tự điển Alexandre de Rhodes, có âm gần âm tiếng Hẹ là [ziang] (井). Và để ý thêm là từ tỉnh mang nhiều nghĩa khác nhau, trong khi giếng có vẻ chỉ mang một nghĩa là giếng (well). Tức tỉnh là giếng, nhưng giếng chỉ là một trong nhiều nghĩa của tỉnh (A=B nhưng B≠A). Ngoài nghĩa giếng, chữ [jǐng] 井 còn mang rất nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hồ, vũng nước, làng xã, nơi người ta tụ tập sinh sống, và quan trọng nhất là tỉnh trong chế độ tỉnh điền đời nhà Châu, trình bày trong hình, cũng là hình vẽ cho chữ 井 [tỉnh], chỉ 9 lô đất, tổng cộng 9 trăm mẫu ruộng (mỗi một trăm mẫu là 1 tỉnh). Tám nhà chiếm 8 lô đất chung quanh lô đất chính giữa của vua gọi là tỉnh điền (井田 [jingtian]), Hình 1.
Hình 1: Tỉnh Điền và chữ tỉnh (井) có nghĩa giếng
Rất ngộ là phát âm Thượng Hải (Ngô Việt) cho chữ [jǐng] 井 là [tzin], đọc rất giống chữ quốc ngữ chin (9), tức số 9, trong tiếng Việt, ứng với 9 khu đất trong chế độ tỉnh điền (井田制).
Chữ bột trong công tử bột có thể giải mã theo kiểu nầy, tức trước hết phải xem lại đó là một thứ từ Hán Việt hay Nôm. Nhìn chung có thể thấy ngay công tử bột chắc phải là một thứ công tử nào đó hơi khác với những công tử như thường thấy. Tra tự điển Hán Việt sẽ thấy âm quốc ngữ bột ứng với 3 chữ Hán mang nghĩa có thể bổ túc cho chữ công tử (公子), là 佛 [fó][fú], 茀[fú][bó] và勃 [bó]. Các phát âm theo khu vực của 3 chữ nầy rất đa dạng, phản ánh qua Hán Việt viết bằng chữ quốc ngữ là phật. phất. bột, bật (佛), hay phất, bột (茀) và bột(勃), tất cả đều mang âm chữ bột. Có thể thấy nếu viết theo toàn bộ các phát âm tiếng Hoa thì chữ佛 [fú][fó] có thể viết theo Hán Việt (quốc ngữ) là phật, phất, bột và bật, và rất có khả năng những âm nầy được tạo dựng bởi phiên thiết, 反切 [fanqie], thiết lập sau quốc ngữ.Thiết lập bởi phiên thiết hay không, cũng không quan trọng bằng việc khó nhận diện rằng chữ bột quốc ngữ, có thể là một âm “Hán Việt” chứ không phải Nôm tương đương với các âm như phật, phất, và bật, và ứng với các từ佛 [fó][fú], 茀[fú][bó] và勃 [bó]. Đối với từ 佛 [fó][fú], ngữ từ tương ứng tiếng Việt là Phật và Bụt, với Phật giống như âm tiếng Quảng hay Thượng Hải [fat] và Bụt giống như [but] tiếng Mân Việt tức Phúc Kiến, trong khi âm Hán Việt gần đó là bột hay bật. Chữ Bụt lại có gốc tiếng Phạn kí âm theo tiếng Anh là Buddha. Tự điển Alexandre de Rhodes [4] ghi hai chữ Phật và Bụt với nghĩa tượng thần, trong khi tự điển Taberd chỉ ghi Phật là Phật từ Ấn Độ, còn bụt vẫn là tượng thần, cùng với nghĩa bụt trong bông bụt.
Thử ghép bột với công tử để xem công tử bột có thể mang nghĩa nào đó với ý phát biểu là một thứ công tử hơi khác với đa phần những công tử thường được biết đến vào thời trước. Nhớ là thông thường chữ công tử mang ngữ nghĩa là người nam, con trai nhà quyền quý hoặc nhà giầu, và đôi khi gọi theo lối lịch sự là con trai của một người quen hay một chủ nhân, hoặc đại gia. Muốn ghép công tử với bột, bắt buộc phải xem qua hết các ngữ nghĩa tương ứng với âm Hán Việt viết với 3 chữ Hán tiêu biểu cho bột là 佛, 茀, và 勃, và mỗi chữ có ít lắm là 7 ngữ nghĩa khác hoặc hơi khác với nhau. Đáng để ý nhất là bột công tử viết với佛 [bột] cho ra nghĩa công tử hiền lành hay từ bi như Bụt, hoặc với茀[bột] thì sẽ mang nghĩa công tử có phúc hoặc công tử được nhiều may mắn. Còn bột công tử viết với 勃 [bột] có thể mang nghĩa công tử có tài năng hay tài sản bột phát, hưng chấn thêm ra. Nếu tra trên mạng sẽ thấy hai chữ bột, 佛 [fó][fú] và勃 [bó], được dùng với công tử (公子) nhiều hơn chữ bột 茀[fú][bó] kia. Cũng cần nhớ chữ bột (勃 [bó]) còn mang một nghĩa là phấn hay bột vụn. Và nhìn chung, công tử bột dùng trong tiếng Việt có thể khác hoặc hơi khác với bột công tử dùng ở tiếng Trung. Nhưng điều này không quan trọng bằng chữ bột không phải là một từ thuần Nôm, và nếu là chữ Nôm, sẽ có giải thích bột là trắng như bột, hay bột là từ vay mượn từ tiếng Tây la poste (bưu cục), khác với trình bày ở đây. Cũng xin ghi là chữ bột trong nghĩa như powder / flour ứng với âm Triều Châu [buah] và âm Nam Kinh [mot] (末) trong chữ 粉末 [phấn mạt], mang nghĩa bột nhuyễn.
Thuyết Maspero về Một Liên Hệ Giữa Từ Hán Việt và Thuần Nôm
Ngộ nhận khác biệt giữa Nôm và Hán Việt có thể bắt nguồn từ chính thành phần ê-lít nghiên cứu, xử dụng các từ vựng khác nhau giữa Hán và Nôm, nhưng vì việc phân bố kiến thức, qua những môi trường in-ấn và chữ nghĩa, như sách vở, báo chí và truyền thanh qua kịch nghệ, thường thường và xuyên suốt qua nhiều thế kỉ, rất hạn hẹp, không được phổ biến như ngày nay. Với nhận xét nầy, có thể thấy rất nhiều đề tài hoặc từ vựng có vẻ không quan trọng vào ngày xưa, hoặc không có ghi chép trong các thư tịch xưa cũ hay trước đó, thường được giới ê-lít lướt qua, hoặc không có ghi chép lại trong sách vở. Điển hình là tên gọi các món ăn hay những thứ từ văng tục, như kiểu đắt bỏ mẹ. Hay như kiểu được ghi rõ trong sách vở như giếng là âm Nôm tương đương với âm Hán Việt tỉnh, viết bằng 井 [jǐng]. Nhiều học giả Tây Phương trong tình cảnh thiếu thốn phương tiện trong thời chưa có internet, đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau về Hán Việt và Nôm. Thí dụ như giả thuyết của Henri Maspero (1883-1945) [16], từng làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ, cho rằng các chữ “Nôm” sức, sen, sáp, sườn(g)là biến âm của các từ “Hán Việt” theo thứ tự, lực, liên, lạp, lương, tức âm đầu [l] trong tiếng Hán Việt biến thành [s] trong tiếng Nôm, tóm tắt lại như sau.
Giả thuyết về âm đầu [l] tiếng Hán biến chuyển thành âm [s] tiếng Việt của Maspero [16], như trong 4 chữ lực, liên, lạp, lương, nhìn lại với tin liệu của thế kỉ 21, sẽ thấy có nhiều lấn cấn, đa phần nằm ở những tiền đề, có thể hiểu như những giả định (assumptions), mà một số lớn hãy còn sử dụng cho đến ngày nay. Thông thường nhất là giả định nói về một quốc gia, một dân tộc, một ngôn ngữ đã bàn ở trên.
Thử xem lại từ nguyên của 4 từ chữ Nôm liên hệ ngữ âm với 4 từ Hán Việt theo giả thuyết của Maspero [16], dùng tin liệu dồi dào truy từ các trang mạng ở thế kỉ 21.
Trước hết, so sánh sức và lực. Tiếng Hán có势力 [shi li], với 势 [shi] có âm “Hán Việt” là thế và 力 [li], là lực, và thế lực trong tiếng Việt ngày nay mang nghĩa hơi khác với sức lực. Âm lực giống với nhiều âm trong các tiếng như Quảng, Tiều, Hẹ là [lik] hay [lag], trong khi sức có âm rất gần với [sứ] hay [shi] hoặc [shr] trong các thứ tiếng Ngô hay Phổ thông hoặc Nam Kinh, viết bằng từ 势 [shi]. Tiếng Lào có chữ [sákdàː] hoặc [sūk], mang nghĩa giống như sức hay lực và cả hai có liên hệ đến chữ shakti tiếng Sanskrit (Phạn), mang nghĩa sức, sức mạnh hay quyền lực. Như vậy có thể âm sức giống âm lực qua kí âm chữ quốc ngữ, cộng với vần xuất từ chữ có hai âm 势力 [shi li], cộng với ảnh hưởng từ các tiếng Lao và Sanskrit, chứ sức không phải là một từ định để dựa trên lực, kí âm theo quốc ngữ, như nhận xét của Maspero. Ngoài ra âm Hán Việt của sức lực chính là thế lực, và thế lực mang nghĩa khác với sức lực.
Âm Hán Việt lạp (蜡) thật ra gần như y hệt với âm [lap] hay [laap] của các thứ tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến và Hẹ. Trong tiếng Quảng chữ 蜡 [la] (quan thoại) còn có phát âm [caa], đọc gần như [saa], và nếu phối hợp [caa] với [laap] sẽ cho ra âm gần với quốc ngữ [sáp]. Trong các thứ tiếng hạ tầng của tiếng Việt, tức thuộc nhóm Mon-Khmer, tiếng Chứt (Rục) có chữ [sháːp], phát âm y như, và mang nghĩa như, sáp tiếng Việt [2]. Vấn đề chữ nghĩa ngày xưa thật ra là một vấn đề hết sức phức tạp, với lí do chính là ngôn ngữ và từ vựng ngày xưa không được sắp xếp theo kiểu linearity (trực tuyến) như ngày nay. Theo tự điển Hán Việt Trích Dẫn [17], ngữ âm [lạp] (蜡), ngoài nghĩa là sáp, còn mang nghĩa thường dùng ngày trước là ngày lễ cuối năm. Với nghĩa lễ cuối năm, chữ 蜡 / 蠟 [la] nầy có phát âm [cha] hay [zha] (tức sáp) vào thời nhà Châu (1046-256 TCN), và đọc như [la] (tức lạp) vào thời nhà Tần (221-206 TCN). Chữ lạp (蠟) với nghĩa ngày lễ hội cuối năm, tương ứng với chữ 臘 [la], và chữ 臘 [la] chỉ có âm [la] (quan thoại) chứ không có âm [cha], mang nghĩa khác là tháng chạp (lạp nguyệt 臘月), hoặc thịt cá muối hun khô (như lạp xưởng), ngoài nghĩa cúng tế tháng Chạp giống như 蜡 / 蠟 [la]. Ngữ âm Chạp trong tháng Chạp do đó dựa vào âm quan thoại [cha] thời nhà Châu, viết bằng chữ 蜡 / 蠟 [la], chứ không phải bằng chữ 腊 [la] như trong 腊月 [la yue] (lạp nguyệt). Như vậy, xin nhấn mạnh, âm [chạp] trong Tháng Chạp tiếng Việt, ứng với âm quan thoại [cha] (蜡 / 蠟) có từ thời nhà Châu (1046-256 TCN), giống như chữ lạp nguyệt (腊月 [la yue]) dùng âm [lạp] của chữ 腊 [la].
Trong cặp liên (莲) và sen (莲), chữ liên có phát âm quan thoại hiện nay là [lian]. Nhưng hoa sen thoạt trông rất giống hoa súng tức water lily (bông huệ nước hay pông loa kèn (Mường)), và như thế trong nhiều thứ tiếng, có khuynh hướng dùng chung một ngữ âm hay tên gọi chung cho hai thứ, hoa sen và hoa súng, như trình bày trong Bảng Đối Chiếu.
Trong tiếng Bắc Kinh, chữ 睡蓮 [shui lian] mang nghĩa hoa súng (water lily), đọc theo tiếng Việt là thụy liên, tức hoa sen ngủ, có chữ liên (sen) trong đó. Trong tiếng Phúc Kiến (Hokkien) có 2 chữ chính dùng để chỉ cả hoa sen và hoa súng, là 荷 [hô] và 莲花 [liân-huê]. Chữ 荷 [hô] có âm Việt là [hà] như trong bạc hà (薄荷), còn 莲花 [lian-hua] (sen / súng), với âm [hua] (花) ứng với âm Việt [hoa] hay [huệ] trong bông huệ, tức hoa súng.
Điểm then chốt trong chuyện từ nguyên của sen và súng là hai từ nầy ‘lấy từ đâu ra”. Để ý một trong những từ dùng để chỉ hoa súng trong tiếng Hoa là 百合花 [bǎihé huā] (bách hợp hoa), tức water lily. Chữ chính 百合 [bǎihé] (bách hợp) mang nghĩa bóng là hòa hợp tuyệt vời / hoàn hảo của thiên nhiên, cùng nghĩa với hạnh vận / phước lành. Nguyên từ ngữ dùng để chỉ hoa súng 百合花 [bǎihé huā] do đó còn mang nghĩa là một người thuần khiết và hoàn hảo hay trinh khiết, trong trắng. Chữ thuần khiết (纯洁) do đó có thể dùng để biểu tượng cho hoa súng hay hoa sen, trong đó chữ thuần (纯 [chún] [quán] [tún] [zhūn] [zhǔn] [zī]) có âm Mân Nam là [sun], âm Triều Châu [sung] rất gần âm [súng] trong hoa súng, và âm Nam Quảng Đông [säng], âm Hẹ [shun], âm Nam Kinh [chuen], ứng với [sen] trong hoa sen.
Đặc biệt, chữ huệ trong bông huệ (hoa súng) còn tương ứng với ngữ âm [huệ] 蕙 [hui] mang nghĩa như một loài hoa cỏ có hương thơm, như hoa huệ lan (蕙蘭), hay xuân lan, rất thơm. Chữ huệ (蕙) nầy còn dùng để chỉ người cao nhã, thanh khiết (thuần khiết – 纯洁), giống y như biểu tượng của hoa súng (water lily).
Chữ 梁 [liang] (lương) dùng để chỉ cây sườn hay dầm cái (girder), nói chung tương đương với chữ beam tiếng Anh. Chữ beam hay rafter (kèo) ứng với chữ 椽子 [chuanzi] tiếng Trung, trong đó chữ 椽 [chuan] có âm Quảng Đông [cyun] và âm Nam Quảng Đông [cüng] rất gần âm Việt [sườn].
Rất có khả năng, sở dĩ học thuật về tiếng Việt từ thời xưa dễ mang nhiều ngộ nhận về chữ nghĩa là có rất nhiều chữ trong từ vựng của dân gian không bao giờ được dùng đến trong sách vở thánh hiền, hoặc ngay cả văn thư pháp lệnh từ triều đình. Phân chia nầy theo thời gian biến thành phân chia giữa giới có chữ nghĩa và giới bình dân không có cơ hội đến trường. Thí dụ như cụm từ bình dân nhằm nhò gì có thể tương đương với không đáng quan tâm, nhưng trong sách vở rất ít khi thấy nhằm nhò gì. Các chữ như trứng hay hột trong trứng vịt lộn hoặc hột vịt lộn. Giống như bột hai từ trứng và hột rất dễ nhầm là từ thuần Nôm, với lí do đơn giản là nếu tra chữ egg (trứng) ở các từ điển Anh-Trung thì rất khó thấy chữ nào tiếng Trung có phát âm gần giống với [trứng] hay [hột]. Nhưng nếu tra bằng chữ hột giống sẽ thấy có từ 种 [zhǒng][chóng][zhòng] ứng với hai phát âm Việt là chủng và chúng, mang nghĩa hạt giống (seed). Trong Anh ngữ, seed (hạt giống) và egg (trứng) là 2 từ khác nhau, nhưng trong nhiều ngôn ngữ trong vùng, nhất là các thứ tiếng hạ tầng (Mon-Khmer), hạt giống và trứng thường dùng 1 từ chung. Như tiếng Katu có chữ [kara:w] cho hạt giống và trứng, tiếng Palaung có [kətəm] chỉ trứng và trứng dái (tinh hoàn). Để ý phát âm quan thoại [zhòng], hay Mân Việt [ziong] (种) rất gần hay giống với chữ giống tiếng Việt, trong khi [chóng] giống chủng tiếng Việt, và phát âm Quảng Đông [zung] cũng cho từ种 (seed) lại rất gần với trứng. Từ tiếng Trung tương đương với hột giống tiếng Việt chính là 核种 [hut ziong] theo phát âm tiếng Mân (Phúc Kiến), và hột 核, đọc [huk] tiếng Tiều, [hut] tiếng Mân, chính là hạt đọc theo [hat] tiếng Quảng, thường dùng để chỉ hột (stone/kernel) trong trái cây. Hột và trứng đi đôi nhau và theo lựa chọn được dùng để chỉ trứng (egg) trong tiếng Việt. Âm “Hán Việt” của hột (核) là hạch rất giống [hêg] tiếng Tiều, mang nghĩa gần với nhân (仁) hơn. Trong khi trứng (egg) tiếng Trung là 蛋 [dan], gần với [daːŋ] (đẻ trứng) và [kdoːŋ] (trứng), tiếng Khmu.
Trong khi từ nguyên chữ quốc ngữ trứng có thể kết với chữ 种 [zung] đọc theo tiếng Quảng, thì chữ trứng viết theo tự điển Alexandre de Rhodes lại là tlứng rất giống tiếng Mường ngày nay và có thể kết với [*kʔloŋ] thuộc tiếng Khmu cổ [2], thuộc các lớp hạ tầng của tiếng Việt. Còn chữ lộn trong trứng vịt lộn chính là chữ noãn 卵 [luǎn], nghĩa trứng, hòn dái, đẻ trứng, ấp trứng, và chữ lộn trong trứng vịt lộn không phải mang nghĩa trứng mà là ấp trứng, đã ấp, và do đó trứng vịt lộn là trứng vịt đã ấp. Chữ lộn nầy (卵 [luǎn]) có phát âm tiếng Hẹ [lon], giống lộn, và [neng] tiếng Tiều có âm đầu [n] giống noãn, và vần [uan] trong quan thoại [luǎn], giống [(n)oãn], tức quan hệ giữa âm [luǎn] và [noãn] là hoán chuyển vô tư và tự nhiên giữa hai âm nứu [n] và [l], trong môi trường vắng bóng mẫu tự La-tinh a-b-c, vào thời xưa, chưa biết đến chữ viết theo a-b-c. Hiểu một cách khác lộn và noãn là hai chữ Việt bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng trong lối nhìn hỗn ngữ không dính sát với qui ước tiếng Hán Việt, tiếng Nôm, thì lộn và noãn bắt nguồn từ hai phát âm về một ngữ từ hay ngữ nghĩa thuộc hai khu vực khác nhau.
Tiền Đề, Góc Sự Thật, và Lí Thuyết Khoa Học
Khai triển tiếp tính đa thể của chân lí độc thể, trong đó độc thể mang nhiều khía cạnh khác nhau, tức những góc sự thật, nhưng dính với nhau trong những liên hệ mật thiết, thuần lí và thuần nhất, sẽ thấy ngay ngôn ngữ về chân lí độc thể có thể nói gọn là chân lí đa thể, tuy đó là đa thể của độc thể hay đa thể thuộc một đơn thể. Lấy thí dụ tiếp theo hai góc sự thật, mặt trời mọc mặt trời lặn và quả đất quay quanh mặt trời. Hai góc sự thật nầy sẽkéo theo ý niệm về thời gian, rồi ý niệm về ánh sáng. Góc sự thật của chân lí về ánh sáng, theo tiến triển của khoa học cho ra hiểu biết về ánh sáng được hiện thể bằng những hạt quang tử (photon) cũng như sóng. Phần lớn các sách giáo khoa cho rằng ánh sáng có hiện thể là quang tử hoặc sóng, chứ ít khi cho biết liên hệ tương quan giữa quang tử và sóng trong khung cảnh song thể là như thế nào, nhất là khi đối chiếu chuyển động của quang tử với sóng ngang (transverse wave) hay sóng dọc (longitudinal wave), xem Wikipedia. Như vậy câu chuyện quả đất xoay quanh mặt trời có thể được diễn giải ra một chân lý độc thể bao gồm nhiều khía cạnh hay góc sự thật khác nhau, với những mối tương quan nối liền góc sự thật nầy với góc sự thật kia,
Hình 2 cho thấy sơ đồ về tính đa thể trong chân lí độc thể. Trong hình, chân lí có tất cả 6 góc sự thật khác nhau mang liên hệ mật thiết, thuần lí, và thuần nhất với nhau. Tiến trình khoa học, đánh dấu bằng (III), dùng để chứng minh cho từng lí thuyết đánh dấu bằng (II). Có thể xem lí thuyết tương đương với tiền đề, và như sơ đồ cho thấy, tiền đề chỉ phản ánh một góc sự thật nào đó của chân lí, và cũng chưa chắc phản ánh trung thực của góc sự thật, bởi lý thuyết hay tiền đề trong bản chất chỉ là một mô hình của góc sự thật. Nói một cách khác, tiến trình khoa học, (III) và (IV), thường chỉ minh chứng cho tiền đề hay lí thuyết (II), một mô hình của góc sự thật, chứ không phải cho “sự thật trọn gói” hay toàn bộ chân lí độc thể, bao gồm nhiều góc sự thật, như trình bày ở giai đoạn (I) trong Hình 2.
Hình 2: Sơ đồ về chân lí đa thể trong độc thể (I), cho ra nhiều lí thuyết (II).
Có thể dùng Hình 2 để diễn giải nhiều tính chất của tiến trình hay ngôn ngữ khoa học khác nhau. Trước hết, có thể thấy bước đường móc nối từ giai đoạn (I), tập trung vào 1 góc sự thật, đến giai đoạn (II), thông thường mang tính song thể (dualism), nói ngắn gọn, A là B. Hay, nói một cách khác, nối liền giữa (I) và (II) trong Hình 2 được biểu hiện bằng linearity (trực tuyến), tức giống như một đường thẳng. Tính linearity nầy kéo dài từ (I) đến (IV) cho thấy có khả năng dẫn đến chuyện luân hoàn (convoluted), nói đến kết quả trong cốt lõi có thể phản ánh nguyên vẹn những gì đề ra trong tiền đề, và luân hoàn không phải chỉ biểu diễn bằng vòng tròn, theo ngôn ngữ, mà còn bằng đường thẳng, với những điểm trên đường thẳng, nhất là hai điểm cuối, hoán chuyển vị trí với nhau (Hình 3).
Hình 3, tóm gọn từ góc sự thật 1, kéo ra lí thuyết 1, của mô hình trình bày trong Hình 1 ở trên. Hình 3 cho thấy tính trực tuyến của nhiều mô hình dùng trong khoa học, dẫn tới kết quả khoa học (IV), mang nhiều hệ luận (a b c d e) khác nhau, bắt đầu từ một góc sự thật 1. Trực tuyến, tức tính chất giống như đường thẳng, trong ngôn ngữ, có thể tóm tắt bằng A là B, như ánh sáng truyền theo đường thẳng, phản ánh trực tiếp tính song thể (dualism). Song thể rất dễ chuyển thành độc thể (monism), hoặc lằn ranh giới phân biệt song thể và độc thể rất mơ hồ, với ý nghĩa ngôn ngữ là khi thay thế dạng song thể A là B, bằng A là A, thì song thể có thể hiểu như độc thể, rất giống như khác biệt giữa hai tay và một tay, hoặc quan sát nói rằng qua hai điểm, vẽ được một đường thẳng. Đôi khi, một hiện thể mang bản chất của phi song thể (non-dualism)được biến thành song thể / độc thể do ở mô pháp và truyền thống chân lí độc thể (monistic truth)của khoa học, và của hệ tư tưởng Tây Phương.
Hình 3: Lí thuyết 1 ở (II) trong cơ bản dựa vào quan sát sự thật 1 ở (I).
Phi Biên Giới trong tựa bài Từ Nguyên Học Phi Biên Giới mang tính chất chính của phi song thể là không bị ràng buộc bởi biên giới, về ngôn ngữ hay từ vựng, được chuẩn định bằng khoa học và khoa học gia, ngoài biên giới địa lí theo sát với nguyên lí một dân tộc một quốc gia một ngôn ngữ. Những biên giới nầy thường là cấu trúc của chính trị và xã hội (socio-political construct), mang nhiều tính song thể (dualism) với khuynh hướng của trực tuyến (linearity). Nếu xem bản chất chính của khoa học là phi song thể (non-dualism) thì bắt buộc những khám phá tìm tòi mới mẻ về một hiện thể nào đó phải tạm gác sang một bên những định lý hay nguyên lí xưa cũ hoặc những kết luận về tính chất của, hay chung quanh, hiện thể thường được xem như sự thể (facts) thông thường và hiển nhiên.
Trong số những kết luận quan trọng về ngữ học tiếng Việt, đáng chú ý nhất là việc tái thiết lập hệ thống ngữ âm Trung Cổ—tương ứng với thời nhà Đường (618–907)—của tiếng Hán và tiếng Việt. Việc truy nguyên ngữ âm tiếng Hán Trung Cổ dựa phần nào vào hệ thống phiên thiết được ghi lại trong các thư tịch cổ như Qieyun (切韵 [Thiết Vận]) và Guangyun (广韵 [Quảng Vận]), cũng như vào ngữ âm Hán Việt hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra, các nguồn tham khảo khác như phương ngữ Trung Hoa, tiếng Hàn, tiếng Nhật, v.v., cũng góp phần hỗ trợ quá trình này. Tuy nhiên, cốt lõi của phương pháp này dựa trên hai lý thuyết chính: cấu trúc luận (structuralism) và duy sử luận (historicism). Theo đó, cấu trúc của ngôn ngữ có thể được mô phỏng dựa trên những tương tác lịch sử đã được ghi chép, hoặc có thể phát triển song song với dòng chảy lịch sử.
Nói một cách đơn giản, giả thuyết này cho rằng phát âm tiếng Hán khi du nhập vào nước Nam thời nhà Đường đã được bảo lưu nguyên vẹn, hình thành hệ thống âm Hán Việt hiện nay, trong khi ngữ âm tại Trung Quốc tiếp tục thay đổi theo thời gian. Vì vậy, việc đối chiếu từ vựng Hán cổ với âm Hán Việt tại Việt Nam có thể giúp phục dựng phần nào ngữ âm tiếng Hán Trung Cổ vào khoảng thời Đường.
Tuy nhiên, khi phản biện giả thuyết này, có thể thấy rằng nếu quá trình hình thành từ vựng và cách phát âm trong quá khứ dựa trên nhiều cơ chế khác nhau—trong đó cấu trúc luận và duy sử luận chỉ là hai trong số đó—thì những giả định của cấu trúc luận nên được xem như một góc nhìn về sự thật, chứ không phải toàn bộ sự thật.
Ngoài ra, nếu coi sự biến đổi của ngôn ngữ phản ánh sự biến động của lịch sử, thì việc áp dụng nguyên lý của cấu trúc luận và duy sử luận cũng cần được xem xét kỹ lưỡng. Chẳng hạn:
1. Cần đánh giá lại mức độ xác thực của những ghi chép lịch sử, liệu chúng đã được kiểm chứng qua nhiều nguồn tài liệu khác nhau hay chưa.
2. Quan niệm của duy sử luận cho rằng sự truyền bá từ vựng và ngôn ngữ chủ yếu diễn ra thông qua quá trình xâm lược—tức là các đoàn quân viễn chinh mang ngôn ngữ đến vùng đất mới và áp đặt nó—có thể chưa phản ánh đầy đủ thực tế. Một kịch bản khác có thể xảy ra là sự di cư của dân thường trong thời loạn lạc hoặc đói kém, mang theo ngôn ngữ của họ đến vùng đất mới và hòa nhập với tiếng địa phương.
Lưu ý rằng, ngôn ngữ do dân di cư mang theo thường không được ghi chép lại trong sử sách, bởi thời xưa chưa có ngành ngữ học như ngày nay.
Trong từ nguyên học trình bày bằng nhiều thí dụ ở đây, nhấn mạnh đặt ra ở chỗ truy tầm ‘từ gốc’ có ý nghĩa hữu cơ liên hệ với từ đề ra, trong chuyện được ‘sáng tác’ hay thu nhận từ tiếng khác trong những hoàn cảnh sinh hữu nào. Lối tìm từ nguyên nầy trên cơ bản rất khác với kiểu từ nguyên học Tây Phương, rất thường dựa vào phân biệt Nhóm ngôn ngữ, hay từ nguyên học dựa vào lối phân biệt Hán Việt với Thuần Nôm. Thí dụ tiêu biểu dẫn giải ở trên bao gồm những thứ lí giải khá mới như:
– Từ nguyên của surrender và capitulate: dựa vào từ 2 âm đầu hàng, mang nghĩa vứt bỏ vũ khí và cúi đầu xuống, từ những thứ tiếng xa cách tiếng Anh về địa lí và nhóm ngữ.
– Từ nguyên dựa vào ngữ nghĩa cơ bản hay noumenon, theo ý niệm của Immanuel Kant [21], đã giúp tìm ra từ nguyên của lộn trong hột vịt lộn là có liên hệ với chữ Việt là noãn (卵), mang một nghĩa là đã có ấp.
– Từ nguyên của cật (kidney) dựa vào kiểu từ nguyên của dù / ô, hay biển / bể. Truy tầm từ nguyên kiểu nầy không dựa vào thống kê (statistics) nói về nhiều kết quả của các nhà khoa học cho biết, mà dựa vào kiểu ăn khớp. Ăn khớp (fit-in) ở đây là có sự đồng thuận giữa 2 ngữ âm [dù] và [ô], hay [biển] và [bể] của tiếng Việt, với 2 ngữ âm khác ở hai hoặc trên hai thứ tiếng khác ở phương Bắc, và ngữ âm nầy nằm trong một từ đa âm dùng để chỉ một sự vật hay hiện thể duy nhất. Ăn khớp đồng thuận với thuyết khả suất (possibility) hơn là xác suất (probability) phù hợp với thống kê và luật đa số.
– Từ nguyên học nới rộng cũng cho biết chữ thanh mai xem ra rất văn vẻ và hàn lâm, che đậy ý nghĩa rất bình dân, nói ra ai cũng hiểu ngay, là xí mụi hay ô mai, tức quả mơ được tẩm muối và/hay phơi khô. Đặc biệt chữ thanh (青), có phát âm tiếng Phúc Kiến [ci] ứng với xí trong chữ xí mụi, có một nghĩa là xanh đậm, xanh đen, đen, ứng với chữ ô (đen) trong ô mai (mai là mơ, quả mơ), thanh mai= xí mụi= ô mai.
– Đa phần những thí dụ kể trên cho biết phân biệt âm Hán Việt và âm Thuần Việt (Thuần Nôm) có vẻ là phân biệt mang tính cơ bản của dualism (song thể), tức bắt buộc sẽ có theo đường hướng dualism của khoa học nói chung. Có nghĩa, khi giản lược (abstract) các ngữ âm trình bày trong phân tích từ nguyên ở trên, các âm Nôm cho một từ thường ứng với âm phương ngữ ở phía Bắc, có thể viết bằng một chữ viết bằng Hán tự. Thí dụ như chữ dù hay ô, ứng với hai âm [yu] và [hO] (hay [u]) của các tiếng Bắc Kinh/Ngô Việt và Phúc Kiến. Hai âm nầy ứng với âm [wu] tiếng Ôn Châu, và [vũ] (雨) tiếng Việt, mang nghĩa mưa. Giống như chữ 井 [jing] có âm Ngô Tích (Wuxi) ở khu vực Chiết Giang là [tsin] rất gần với âm ‘Hán Việt’ [tỉnh], ứng với âm Nôm [giếng] rất gần âm Hẹ là [ziang].
– Cần nhấn mạnh là phương thức truy tầm từ nguyên của 4 chữ đề cập trong thuyết Maspero, và nhất là cho hai chữ sen và súng, hoàn toàn dựa vào ý nghĩa noumenon (cao nhã / thanh khiết) và ngữ âm của những từ nầy trong tiếng Hán. Chuyện nầy, xin nhấn mạnh, chỉ có thể thực hiện vào thế kỉ 21, bởi có nhiều tự điển trực tuyến cho ra từ nói về thanh nhã tinh khiết (纯洁) khi muốn tra từ tiếng Hán cho water lily (hoa súng)
Tóm tắt, khi tìm một kiểu giải thích mới, khác với các giải thích thông thường, có khả năng việc truy tìm sẽ dẫn đến khám phá mới về từ nguyên học. Thí dụ như chữ ống heo (piggy bank), đối với ngữ học của quốc ngữ, là một từ có vẻ như thuần Nôm, nhất là kiểu tả chân một cái ống có hình dáng con heo bé tí làm bằng đất nung hay thiếc dùng để bỏ vào đó các đồng tiền xu để dành dụm. Rắc rối của từ nguyên tiếng Việt là chữ ống heo lại có vẻ như dịch thằng từ chữ piggy bank tiếng Anh, hoặc chữ 豬仔錢罌 [zyu zai cin aang], tức ống heo, theo tiếng Quảng Đông. Trong đó 豬仔 [zyu zai] có thể mang nghĩa con lợn bé, và 錢罌 [cin aang] (âm Quảng Đông) mang nghĩa như ống tiền. Đối với câu hỏi ống heo có phải dịch từ piggy bank hay không, thì nhờ ở tiến bộ internet, thí dụ [14], ngày nay có thể kiểm chứng rất dễ. Theo đó, chữ piggy bank tiếng Anh chỉ bắt đầu xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ 20,rất lâu sau tiếp xúc giữa Đông và Tây. Tuy vậy nếu dùng con lợn như một vật đem lại may mắn hay tiền tài (xem Google), thì chữ piggy bank hoặc ống heo đều có thể xuất hiện trước, hoặc cùng một lúc, ở phương Đông cũng như phương Tây. Nếu cho là chữ Quảng Đông 豬仔錢罌 [zyu zai cin aang] (trư tế tiền ống), tức ống heo, có trước chữ piggy bank thì về ngôn ngữ, chữ trư tế tiền ống (豬仔錢罌) nầy có dấu vết gì để cho biết là không phải do dịch thuật từ piggy bank mà ra, hay không. Điều nầy lại có khả năng xác nhận bằng kiểm chứng theo ví phỏng từ (metaphornym).
Đại khái, ý niệm về ví phỏng từ, như đã trình bày,cũng gần giống với ý niệm về ô-nô-ma (onomatopoeia) tức từ nhại thanh, như kiểu con cóc có cóc là âm nhại theo tiếng kêu khàn khàn (croak) của con cóc. (Từ nhại thanh ô-nô-ma là tên gọi tắt của onomatopoeia, với phần đầu mang âm [noma] giống như noma hay nama, tiếng Anh cổ, và nom tiếng Pháp, mang nghĩa tên (name), hoặc danh từ (noun), còn phần sau liên hệ đến poiein (sáng tác), dính dáng đến chữ poet (thi sĩ) [14]. Dùng ví phỏng từ cho từ ống heo, cần để ý là từ dùng để chỉ dành dụm tiền (savings) là 儲積 [cyu zik] đọc theo âm Quảng Đông, tức trữ tích (tích trữ) theo Hán Việt. Trong đó âm [trữ] (儲), mang nghĩa để dành, tích trữ, trừ bị, rất gần với [trư] tức 豬 [zyu] mang nghĩa con heo (lợn), và có thinh (tone) giống nhau trong một số tiếng ở Trung Hoa. Còn chữ ống trong ống heo có thể giống như âm [aang] 罌, tiếng Quảng, trong 豬仔錢罌 [zyu zai cin aang] chỉ piggy bank, tức ống heo, với chữ 罌 [aang] mang nghĩa lọ phình ở giữa và miệng nhỏ.Chữ ống trong ống heo thật ra là âm tương đương với âm úng cho chữ 瓮 [ung] Quảng Đông, hoặc [ong] Phúc Kiến (giống ống), mang nghĩa một cái lọ hoặc bình chứa làm bằng đất nung. Ống heo ngày trước thường làm với hình dáng con lợn bé tí, với chữ 豬 [zyu] trư,mang nghĩa heo (lợn) có ngữ âm giống như [cyu] (trữ) 儲 mang nghĩa chứa, để dành (tiền). Thành ra ống heo có thể mang nghĩa bóng và trực tiếp là ống để dành tiền. Theo ý niệm noumenon, có thể thấy việc để dành tiền xu trong ống heo cũng giống như, hoặc có cùng một noumenon, với chuyện nuôi lợn cho béo (nuôi heo cho mập).
Kiểu truy tầm từ nguyên như ống heo cho thấy theo lối chấp nhận từ vựng sáng tác bằng kiểu arbitrary (định để), thì ống heo là ống để dành tiền xu ngày xưa làm với hình dáng con heo bé tí. Theo kiểu ví phỏng từ, thường giống như những kiểu sáng tác chữ theo nhại thanh (ô-nô-ma), sẽ thấy là heo trong ống heo lại nhại ra từ chữ đồng nghĩa là trư 豬[zhu], và trư lại ví phỏng, qua âm thanh, với chữ trữ trong tích trữ tức trữ tích (儲積), tức để dành, để dành tiền. Tóm tắt là liên hệ ngôn ngữ trong chữ ống heo theo kiểu thông thường là miêu tả hình dáng của ống để dành tiền xu, giống như con lợn bé, che lấp liên hệ nguyên thủy là chữ heo trong ống heo có liên hệ ngữ nghĩa với để dành tiền, bằng cặp豬 (trư / heo) với儲 (trữ / để dành), mang phát âm cùng thinh [zyu] và [cyu] trong tiếng Quảng Đông, cũng như một ý niệm chung chung, là chuyện để dành tiền bằng ống heo có chung noumenon với chuyện nuôi heo cho mập/ nuôi lợn cho béo.
Quan trọng trong lối tìm từ nguyên khi so sánh ống heo và piggy bank là chuyện tìm xem chữ nào có trước. Chuyện nầy đối với các thứ tiếng Âu Châu thì dễ, nhưng đối với tiếng Việt thì cực khó, bởi tiếng Việt chỉ có chữ viết, được phổ biến rộng rãi trong vòng trên dưới 100 năm qua. Thí dụ như khác nhau giữa hai chữ lạp và sáp, hay lạp và chạp, với tương ứng hoặc chuyển âm giữa lạp và sáp do Henri Maspero đầu tiên nêu lên, xem ở trên, trong khi lạp và chạp, viết cùng một chữ Hán 臘 [la],được Trần Kinh Hòa cho là hai từ dị âm đồng nghĩa. (Ghi chú: Henri Maspero (1883-1945) là một học giả Pháp làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ, và Trần Kinh Hòa (1917-1995), một giáo sư về Đông Phương học tại Viện Đại Học Huế.) Các tự điển trực tuyến ngày nay, cho biết chữ lạp (臘) mang nghĩa chính là cuối năm, và lạp nguyệt (腊 月 [la yue]) chính là tháng Chạp, giống tiếng Tay-Nung Bươn Lap, Bươn là tháng, là trăng, mùa trăng. Từ chữ lạp (臘), cuối năm, dẫn đến lạp mang nghĩa ướp muối hoặc hun khói để giữ thịt được lâu, như chữ lạp xưởng. Trong khi chữ lạp viết như 蜡, khác với 臘 [la], cũng mang nghĩa ngày lễ cuối năm, nhưng còn mang phát âm khác là [chá], có thể đổi thành chạp hoặc sáp, cộng theo nghĩa thường dùng là sáp (wax), hoặc nến (đèn cầy). Điểm đáng để ý là cả Maspero và Trần, đều quan sát các phát âm nầy theo nguyên lý từ vựng mang tính trơ hay arbitrary. Các tự điển trực tuyến ngày nay cho biết là trong hơn 12 thứ tiếng khác nhau trong khu vực, gần như tất cả các âm dành cho 臘 [la], đều có âm giống [lah] hay [lap] hoặc [rap] (Korean), trong khi âm cho chữ 蜡, ngoài âm [la], còn có những âm như [cha], [za], [zha], [sa] hoặc [shaku] (Nhật), và những ngữ âm nầy (của ngữ từ蜡 [la]) rất dễ ứng với [chạp] hay [sáp] tiếng Việt, bởi âm Bắc Kinh không có âm cuối [-p]. Ngoài ra, và quan trọng hơn hết, theo Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn, ngày lễ tất niên nhà Châu (1046-256 TCN) gọi là chá 蜡 [cha][la][zha],nhà Tần (221-206 TCN) gọi là lạp 臘 [la],tức chữ 蜡 [chạp][lạp][sáp], được sử dụng trước chữ 臘 [lạp] cũng vài thế kỉ.
Sydney, cuối tháng 2, 2025
NVU
THAM KHẢO
1. Lí Bạch (701-762) Trường Can Hành. Bản Dịch:
– https://thotinhquehuong.blogspot.com/2015/04/truong-can-hanh-ly-bach.html/
– https://www.jstor.org/stable/24725267
2. SEAlang Mon-Khmer Languages Project:
http://sealang.net/monkhmer/dictionary/
3. 漢語方言發音字典 (Chinese Dialectal Pronunciation Dictionary):
https://zh.voicedic.com/
4. Alexandre de Rhodes (1651) Dictionarium Annamiticum – Lusitanum – Latinum. Hiệu đính: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính. Tái bản: Viện Khoa Học Xã Hội – HCM 1991.
5. A J. L. TABERD (1838) Dictionarium Anamitico-Latinum. Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học – Nhà Xuất Bản Văn Học tái bản (2004). Bản Điện Tử: The Vietnamese Nôm Preservation Foundation:
http://nomfoundation.org/nom-tools/Taberd-Dictionary?uiLang=vn
6. Nguyễn Văn Ưu (2023) Tết Ta và Tiết Nguyên Đán. Firmament, Vol.15, No. 4, January 2023, pp 163-182
7. Nguyễn Văn Ưu (2023) Tháp Babel và Ngôn Ngữ Ngày Xưa. Firmament (Thế Hữu Văn Đàn), Volume 16, No. 3, October 2023, pp 70-92.
https://vietnampoetry.wordpress.com/firmament/
8. Huình Tịnh Paulus Của (1895) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Imprimerie Rey, Curiol & Cie. Tái bản: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1998.
10 Nguyễn Văn Ưu (2024) Âm Lịch và Ngôn Ngữ Ngày Trước. Firmament (Thế Hữu Văn Đàn) Vol. 17, No. 2, July 2024 //
https://www.dropbox.com/scl/fi/1moplmbhtffuncynvo0tt/Lunar-Calendar.pdf?rlkey=fobe2go6vtw2bs5g0kgmm8y1s&e=2&st=ltdt0kri&dl=0
11. SEAlang Library, Javanese: http://sealang.net/java/dictionary.htm
12. Nguyên Nguyên (2024) Thử Đọc Lại Kim Dung (2): Nguồn Việt và Kim Dung:
13. Thomas Kuhn (1962) The Structure of Scientific Revolutions (1st Ed.), Chicago: University of Chicago Press, pp 172.
14. Online Etymology Dictionary: http://www.etymonline.com
15. SEAlang Library Khmer (2007): http://sealang.net/khmer/dictionary.htm
Nguyễn Văn Ưu (2024) Ngôn Ngữ của Đông Tây Nam Bắc. Thế Hữu Văn Đàn (Firmament): https://vietnampoetry.wordpress.com/firmament/
– Part I: Volume 17, No. 1, April 2024, pp. 220-236
– Part II: Volume 17, Issue 3, October 2024, pp. 293-317
16. Henri Maspero (1912) Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite. Les initiales. Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 12, 1912, pp 1-124
17. Từ Điển Hán Việt Trích Dẫn: http://www.vietnamtudien.org/hanviet/
18. Mark Rosenfelder (Compiled by): Numbers from 1 to 10 in over 5000 languages:
https://www.zompist.com/numbers.shtml
19. Phạm Quỳnh (chủ bút), Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, và Đỗ Thận. (1931) Hội Khai Trí Tiến Đức Khởi Thảo: Việt Nam Tự Điển. Nxb Trung-Bắc Tân Văn: https://vietnamtudien.org/vntd-kttd/
20. Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970) Việt Nam Tự Điển. Nxb Khai Trí.
21. Immanuel Kant (1781) The Critique of Pure Reason. Translated by J. M. D. Meiklejohn (2010-2013). The Electronic Classics Series.
22. Beata Stawarska (2015) Saussure’s Philosophy of Language as Phenomenology: Undoing the Doctrine of the Course in General Linguistics. Oxford University Press. 286pp





