Thoại kịch hay kịch nói là một thể loại mới đối với Việt Nam dù đã có ở Tây phương từ nhiều thế kỷ.Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì trước đó chúng ta đã có Chèo và Tuồng tức hai hình thức kịch hát (nhạc kịch). Hai hình thức này có phần giống nhau ở chỗ sân khấu là nơi diễn tuồng, diễn viên hát đa phần và người xem đến rạp để xem, con mắt thưởng thức trước, tâm trí phản ứng sau. Tuồng, ngoài Bắc gọi là Hát tuồng, trong Nam Hát bội, ảnh hưởng Trung Hoa nên thường diễn những tích lịch sử Trung Hoa hoặc đề cao đạo Nho, do đó khô khan, trong khi Chèo có Việt tính hơn thiên về những tích chuyện ta và đề cao đạo đức dân gian. Hát Chèo thiên về hài và dân gian hơn, thường được diễn ở các sân đình sau các vụ gặt. Người xưa xem Hát Bội hay Chèo tức là coi hát. Nhưng nói chung, cả hai đều có tính ước lệ (yếm đỏ thắm của Thị Màu, Trương Phi mặt đỏ…), điển hình (trung, ác, hiền…) và tượng trưng: xem là nhớ lại, là kiểm chứng sự tích, câu chuyện, và cứ thế, trong khung cảnh văn hóa đó, mà xem mãi không chán!

Các văn bản Tuồng của đạo Công-giáo Việt – nhà Đạo, nhưng đồng thời cũng là những tác-phẩm văn-học đại chúng còn lưu lại trong đó đi đầu là tuyển tập Vãn Và Tuồng (nhà in Tân Định, khoảng 1881, tb lần 3 năm 1899. 616 tr.), gồm 35 Vãn và Tuồng đa phần khuyết danh và nhiều tác phẩm sau được in riêng. Các tác giả – tu sĩ và giáo dân, soạn hạnh tích các Thánh, các nhân vật đạo đức và giảng dạy đạo lý, sử dụng thể loại văn vần mà đa phần là lục bát. Nếu về Vãn có hạnh các thánh, các nhân vật đạo đức, giáo lý, luân lý,.. thì về Tuồng, là những Cecilia đồng trinh tử đạo vãn và tuồng, Đavit thánh vương tuồng, tuồng thánh Antôn, Gioan Lều tuồng,… Các ban diễn tuồng như Ban Đức Hoàng Hội, Ban Thiện Hòa Anh đã thành công thu hút khán giả ở vùng Sàigòn mà đến cả Bà Rịa, Mỹ Tho, trở nên phong trào khi Tuồng Thương Khó của Lm. Nguyễn Bá Tòng được diễn nhiều lần tại Bà Rịa và Tân Định.

*

Tuồng hát nói chung thường nôm na, bình dân như nói chuyện thường ngày. Tuồng Công giáo tại miền Nam được cổ võ với mục đích “giúp vui, bổ ích về mặt đạo, tránh cho tín đồ khỏi lui tới vui chơi trong những chỗ bất hạp ý Thánh giáo”. Văn bản kịch nói đầu tiên được xuất bản là Tuồng Cha Minh (Nhà in Tân Định, 1881, tb 1924) của lm. J.M.J. tức là lm. Marie-Antoine Louis Caspar (cố Lộc) – cũng là soạn giả cuốn Dictionnaire Annamite-Français / Tự Vị An Nam-Pha Lang Sa (1877) mà theo Lm. J.F.M. Génibrel trong lời ngỏ với độc giả / “Au lecteur” cuốn Dictionnaire annamite-français xuất bản năm 1898 cho biết cuốn đây tuy ghi chú là ấn bản 2 vì soạn lại tiếp nối cuốn của cha Caspar nay là giám-mục Huế.

Tuồng Cha Minh viết về thánh tử đạo Phan Văn Minh, thật ra gần kịch nói hơn là tuồng, văn đối thoại đã rất gần gũi với lời nói của dân giả, mới mẻ và đơn giản hơn cả câu văn đầu thế kỷ XX như văn Nam Phong sau đó vẫn chuộng lối văn biền ngẫu và cách điệu! Tuồng Cha Minh là một “vở kịch nói kiểu Tây phương hoàn chỉnh, nghĩa là nó hội đủ những đặc điểm của một vở kịch, thuộc loại kịch tự sự và tác giả nó đã Việt Nam hóa bố cục!” và đối thoại dùng ngôn ngữ nói của dân giả (1). Thiển nghĩ văn học Việt-Nam cũng như văn học Công giáo Việt-Nam nên ghi nhận vở kịch tuồng Tuồng Cha Minh này dù tác giả là người Pháp nhưng nội dung và hình thức tác phẩm như của người Việt sống đạo và trên đất Việt – cùng trường hợp với các tự vị và từ điển đầu tiên có sự hiện diện của tiếng Việt và cộng sự viên người Việt, cũng như trường hợp lm. Gérard Gagnon tức cha Nhân Dòng Chúa Cứu Thế.

Nhân vật chính trong vở kịch nói chính là linh-mục Philiphê Phan Văn Minh – là tác giả cộng sự viên soạn Tự vị Taberd (1838) và tử vì đạo năm 1853. Trong đoạn đối thoại dưới đây, hai vị đại diện triều đình – quan Án và quan Bố, được tác giả thể hiện như hai kẻ hủ nho, thiển cận và cả hài hước:

“Bố: – Thầy rằng đi nước lạ phương xa, mà xa mô?

Cha Minh: – Chỉ vua truyền như vậy, tôi bèn sang Mả-cao vì trong nước ấy vua quan không có bắt kẻ giữ đạo ngay Thiên Chúa như trong quê nhà tôi.

Án: – Mả-cao đâu xa ngài?

Bố: – Tôi cũng không biết đâu, thảy nói xa thì hay rằng xa” [1924, tr. 32].

Cũng hai viên quan này, trước phiên xét xử Cha Minh đã trao đổi với nhau về cách làm việc như thế này:

“Bố: – Hôm nay hệ ngày, mắc xử mấy thằng tù Da tô, nghỉ không đặng.

Án: – Không hề gì, ta tra sơ, bắt đạp thập ác, bằng thuận thì ta dong, bằng chẳng thì ta bẩm với ông lớn, ngài định, chớ biết làm sao, mà lạ chớ, ngài, chỉ đức vua truyền cấm Da tô đạo, lại xưa nay ta nghe đâu, thì cũng đã bắt chém hết nhiều, sao nay lại còn?” [tr. 28].

Thái độ làm việc qua loa cho có: “tra sơ”, “bẩm với ông lớn”, “chớ biết làm sao”… hoàn toàn phù hợp với hành động bừa bãi của hai ông ở cuối phiên xét xử là lệnh cho lính nhấc hai đầu gông, khiêng Cha Minh qua cây thập ác, cho xong việc. Để rồi quan lí luận một cách vừa ngang ngược, vừa hài hước rằng: “Thầy đã bước qua rồi, không, sao mà qua bên kia?” [tr. 39].

Tuồng Joseph của Trương Minh Ký

Tuồng Joseph là văn bản kịch nói đầu tiên ký tên tác giả người Việt, được diễn và xuất bản năm 1887. Tuồng Joseph (2), đã đăng Gia Định Báo từ ngày 26-4-1887: Ghi là “tuồng” vì thời ông chưa dùng từ “kịch”, một vở kịch nói và hát đạo, cũng là vở tuồng được sáng tác bằng chữ quốc-ngữ đầu tiên và văn bản tuồng 362 câu soạn xong tại “Chợ-lớn ngày 20 tháng 9 năm Đinh-hợi, 5 novembre 1887” được in ra và ghi rõ đã trình diễn lần đầu ngày 13-7-1887 – tuồng và kịch bản cũng như ca nhạc, có xuất bản thì mới phổ biến và lưu truyền được! Tuy nhiên, cách cấu tạo vẫn hãy theo truyền thống chuyển tải đạo lý Á Đông dù đề tài đạo Thiên Chúa. Điều nên ghi nhận là Trương Minh Ký, tác-giả vở tuồng, là người ngoài Công giáo. Tuồng Joseph có thể theo thời thượng thời buổi nửa cuối thế kỷ XIX chuộng tuồng hát, nhưng đây khác biệt những Tuồng và Chèo trước và thời đó ở tính tự sự, trữ tình và ít dùng văn hay thơ chữ Hán, diễn lại sự tích nhiều tình tiết trong sách Cựu Ước. Ngoài ra ông còn soạn tuồng Phong Thần Bá Ấp Khảo chia làm hai “thứ” và gồm có bốn hồi và Tuồng Kim Vân Kiều (1896) gồm ba hồi, cả hai phiên âm từ chữ Nôm.

Tuồng Joseph mở đầu như sau – in nghiêng và viết hoa theo nguyên bản, cốt nhắc nhở người đọc và diễn :

“JOSEPH VIẾT:

1 Phong điều vô thuận,
Quốc thới dân an,
Trong vẻo nước sóng vàng,
Lặng trang trời biển đỏ.
5 Joseph là tên mổ,
Quê quán ở Chanaan,
Như tôi, thung dung rèn tới bực tài năng,
Kềm thúc luyện theo đàng nhơn đức.
Thỉ chung một mực,
10 Trong hiếu hai đàng,
Hà! nghĩ cha già mừng được còn an.
Nhớ mẹ yếu thảm thương sớm mất.
Chừ cũng đã khuya rồi phải vào mà nghĩ.
(Chiêm bao thấy anh em gặt gái ngoài đồng, thấy mặt trời mặt trăng, ngôi sao v.v.).

Lời kết của người soạn kịch:

“Lời nói nghe coi cũng khó thay,
Hoặc là rủi đó hoặc là may,
Nghĩ tình cốt nhục còn xa cách,
Nên phải tính lời mới được vay”  (tr. 3, 16)

Đây là vở tuồng do một người không Công-giáo và là môn sinh của Trương Vĩnh Ký theo đúng thể loại tuồng cổ Việt Nam và cũng không do nhà xuất bản Công-giáo Tân Định ấn hành. Theo tuồng cố cho nên Trương Minh Ký vẫn sử dụng văn vần và bài bản kịch cùng đánh số hàng chữ.

Tuồng Joseph diễn về cuộc đời của ông Joseph từ thuở nhỏ, khi đang ở cùng cha mẹ ở Palestine. Ông là con thứ 11 trong 12 người con của Jacob, và là con đầu lòng của bà Rachel đã mất. Trong gia đình các anh cùng cha khác mẹ ghen ghét nên trong một chuyến chăn cừu xa nhà, ông đã bị các anh hãm hại, đánh đòn rồi định giết đi, nhưng một người anh can ngăn nên họ đã nhốt ông trong một cái giếng khô, rồi bán ông cho các thương nhân người Ai Cập. Khi về nhà họ nói với cha Jacob là Joseph đã bị thú dữ ăn thịt, khiến cho ông cha vô cùng đau khổ, cứ ngỡ con trai mình đã chết thật.

Trích đoạn cuối lúc các anh trở về nhà:

“CHÚNG TỬ VIẾT:
Dạ dám thưa cha. Con về tới gần nơi hang cọp,
Thấy một manh áo trắng còn đây. Chẳng hay hai đứa em ở nhà nó có đi đâu không?
JACOB VIẾT:
(Nhìn đi nhìn lại cái áo của Joseph)
Ôi con! Con ôi! Cha già đâu tưởng làm vầy,
Con trẻ không dè ra vậy!
CHÚNG TỬ VIẾT:
Ôi em ôi! Thôi đã hết thấy,
Khôn lẽ còn trông!
JACOB CHÚNG TỬ ĐỒNG THÁN VIẾT:
Biển vùn dậy sóng!
Trời phút nổi dông!
Cuộc đời còn mất dường như mộng,
Người thấy nở tàng dát thể bòng!
Vừa mới non xanh,
Vẫn lại trăm nhành đều đủ có,
Còn đang tươi tốt,
Phút đâu một trận hóa ra không!
HỰU VIẾT:
Chúc thái bình nam bắc tây đông,
Nguyền yên phận sỉ nông công cổ,
Sự Joseph tồn vong chưa rỏ,
Coi hạ hồi phân giải mới hay.
NGÂM VIẾT:
Lời nói nghe coi cũng khó thay,
Hoặc là rủi đó hoặc là may,
Nghĩ tình cốt nhục còn xa cách,
Nên phải tính lời mới được vay.”

Tuồng Thương Khó của Lm. Nguyễn Bá Tòng

Linh-mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng sinh ngày 7-8-1868 tại Gò-Công, thụ phong chức linh-mục ngày 19-9-1896 và được bổ nhiệm làm Thư ký Tòa giám mục địa phận Tây Đàng Trong, ngày 2-4-1917, được chuyển về làm Quản xứ Bà Rịa (nơi đây có diễn vở tuồng Thương Khó), năm 1926 làm linh mục chính xứ Giáo xứ Tân Định. Ngày 10-1-1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc chỉ bổ nhiệm Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục giữ chức Phó đại diện Tông Tòa với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm.

Linh mục Nguyễn Bá Tòng nổi tiếng về diễn giảng hay và viết bài cho báo Nam-Kỳ Ðịa Phận (Sài-Gòn), báo Vì Chúa (Huế), có in một số sách như Đức Cha Tòng Với Thiếu Niên (Nam Định: Mỹ Thang, 1935), … nhưng nổi tiếng với vở Tuồng Thương Khó (1912) đã được diễn năm 1913 tại Sài-Gòn và năm 1917, 1924 tại Bà-Rịa và Sài-Gòn – và theo các báo ghi nhận thì vở tuồng rất được ưa thích, có hàng ngàn người xem mỗi dịp diễn và được diễn lại ở nhiều nơi. Trên trang bìa tác phẩm trong ấn bản đầu tiên năm 1912, soạn giả cho biết về nguồn của vở tuồng: “đã dọn theo sách gẫm sự thương khó Đ.C.G. và theo tuồng Thương khó đã làm tại Ober-Ammergau và tại thành Nancy”. Tuồng Thương Khó là một vở kịch có chủ đề tôn giáo – thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội, nội dung khai thác từ Kinh Thánh, diễn lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su. Soạn giả thêm các nhân vật và chi tiết để cho thích hợp diễn tuồng như việc bắt thăm lấy áo của Chúa Giê-su trở thành lắc xí ngầu phổ biến trong xã hội bình dân Việt Nam. Sự cứu rỗi và tình yêu Thiên Chúa bao trùm vở tuồng trong khi tâm lý cá nhân và tập thể cũng được khai thác khiến tuồng mang thêm tính thời đại như những xung đột nội tâm của các nhân vật trong tương quan thầy-trò (Giu-đa vả Giê-su) và tập thể cộng đồng dân Chúa) – ông đã thêm vào những thay đổi cần thiết về cảnh trí, tình huống sao cho hợp với người Việt.

Sau khi lược lại lai lịch xuất phát và sự thành công của vở tuồng, linh mục nêu câu hỏi: “Xưa nay đất Nam Kỳ chưa thấy cuộc tốt lành thể ấy. Mà như có làm, thì ai dám trông đặng toàn hảo như các Nước Phương Tây? Nhưng vậy tôi thấy sẵn dịp rất trọng, là lễ Ngũ Tuần Nhà trường Latinh Sài-gòn, sẽ làm năm tới (Avril 1913), sẵn lòng rộng rãi chư vì giáo nhơn phụ giúp, sẵn nhiều quí hữu đồng tâm hiệp lực, nên tôi mới dám ra công mà dọn tuồng này” (2).

“Tiểu tự in lần thứ hai” viết cho bản in lại năm 1923, sau khi đăng lại bài của ông Giude (Mặc Bắc) đã đăng trên Nam-kỳ Địa-phận ngày 15-3-1913 sau khi xem diễn lần đầu, Lm. Nguyễn Bá Tòng vui “cũng bằng trẻ lại mười năm, mà hưởng cuộc hân hoan tốt lành cùng lòng sốt sắng giáo hữu đã hưởng trong lúc xem tuồng Thương khó năm 1913”. Ông cho biết mất công sức nhưng đã “liều công thi hành cùng in sách này lại. Tôi đã coi lại kỉ càng: có chỗ sửa chút đỉnh, có nơi thêm một hai điều. Lại mỗi khi đổi Thứ Lớp, đổi bức tranh cùng đồ trần thiết, thì sẽ hát Cantiques, hoặc kinh, hoặc bài tiếng langsa, ám hạp với mỗi Thứ, mỗi Hồi ”. Như vậy Tuồng Thương Khó ban đầu gồm 2 phần, tổng cộng 16 “Thứ”, mỗi Thứ (có thể) chia làm nhiều “Hồi”. Mỗi Thứ, mỗi Hồi đều có nhan đề, nay thêm Cantiques, lời ca sinh động hơn.

Trong khi sân khấu nước nhà chỉ biết những tuồng cổ truyền thống với cốt truyện và nhân vật Trung-Hoa, Tuồng Thương khó đã là một vở kịch mang tính hiện đại với hình thức văn xuôi – ca nhạc chỉ là tô điểm, phụ diễn – và so với Tuồng Joseph nói trên thì đã là thay đổi khá nhiều và Việt Nam hơn. Tác giả sử dụng ngôn ngữ bình dân Nam Bộ, khán giả ai cũng có thể xem và hiểu, như chuyện thường ngày trong xã hội. Hiện đại nhất là về kỹ thuật, cấu trúc kịch với những  thắt, mở và những diễn tiến. Kịch có ngôn-ngữ đặc-biệt của nó: ngôn-ngữ kịch, một ngôn-ngữ bình dân miền Nam được cụ thể và sống động qua diễn xuất. Khán giả kịch nghệ khác độc giả văn-chương ở nhiều điểm, mà điểm đáng ghi nhận nhất là sự có mặt thiết yếu và hội nhập (vào diễn tiến và nội dung câu chuyện) của khán giả khi một vở kịch được diễn – và Tuồng Thương Khó đã thành công như những cảm tưởng sau khi xem của một khán giả tên Giude (Mặc Bắc) đã đăng trên Nam-kỳ Địa-phận là bằng chứng.

Vở tuồng được chia làm hai phần: – Phần thứ nhứt: từ khi Ðức Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cho đến khi Giuđà nộp Người; – Phần thứ hai: Từ khi Giuđà nộp Ðức Chúa Giêsu cho đến khi Người sống lại.

Trích Hồi thư III “Hạ xác”:

Madalenna. Kẻ nghịch đã đi hết rồi, bây giờ chúng tôi mới an lòng, vì đây là của trọng vô giá. Ôi ôi! biết Ðức Mẹ đau lòng xót dạ là dường nào!

Ðức Mẹ. Ớ các con. Hãy coi chúng nó đã làm cho Người hư nát cho đến nỗi nào!

Matta. Ðó là việc cứu chuộc loài người. Ðức Mẹ đã cực lực vì chúng con lưỡi nào kể đặng.

Gioang. Xin Ðức Mẹ ngồi đây. Chúng con lo việc phong phần (Giude Arimathia, Nicôdêmô và Gioang lo việc hạ xác. Ðoạn Giude ôm xác Ðức Chúa Giêsu để trong lòng Ðức Mẹ). Xin Ðức Mẹ hãy chịu lấy xác con Ðức Mẹ.

[Choeur invisible, hát bài Lamentations de Jérémie]

Ðức Mẹ. Ôi ôi ! Nó trả con tôi lại cho tôi như vầy!

Gioang. Lạy Ðức Mẹ, chúng con mới hiểu lòng Người yêu dấu chúng con quá hậu.

Madalenna. Nhờ đó, chúng con mới rõ lòng Người yêu dấu chúng con quá hậu.

Nicôđêmô. Xin Ðức Mẹ để chúng con ướp thuốc thơm, rồi liệm xác Người trong bức khăn nầy.

Madalenna. (đổ thuốc thơm dưới chơn Ðức Chúa Giêsu). Lạy Thầy tôi đổ thuốc thơm nơi chơn Thầy. Phen nầy là phen sau hết.

Giuse Arimathia. Bây giờ ta hãy đem xác vào vườn, mà táng trong huyệt đá.

Ðức Mẹ. Ớ Giêsu, Con ôi! Này là việc sau hết Mẹ làm cho Con là đem con đi phần mộ. Xin Con đừng để Mẹ xa Con lâu ngày, một cho Mẹ hiệp vầy cùng Con cho kíp” (bản 1923, tr. 150-152).

Giám mục Hồ Ngọc Cẩn trong bài “Thi phú qui pháp” đăng Nam-Kỳ Địa-phận năm 1913 đã cho rằng Tuồng Thương Khó cũng như Tuồng Cha Minh thuộc loại “tuồng hát kiểu nói nôm na, không văn hoa đối đáp, chỉ nói đơn sơ như cách nói chuyện …” (4)

Jacques Lê Văn Đức – từng diễn đóng cho vở tuồng của Lm. Nguyễn Bá Tòng, cũng soạn Tuồng Thương Khó (1926) là “Tuồng của Hội diễn tuồng ‘Đức Hoàng Hội’/répertoire du ‘Bon Théâtre’ de Saigon” soạn “theo tuồng Thương khó của cha J.B. Tòng và nhiều tuồng Thương khó khác đã làm bên Tây”. Alphonsô Lô cũng soạn Tuồng Thương Khó Đấng Cứu Thế (Saigon: Nhà in Bảo Tồn, 1936) cho “Hội thiện k[ệ]ch “Thiện Tâm Thành” đã diễn nhiều phen tại Saigon và Cholon”.

Giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã soạn Tuồng Bảy Mối Tội và xuất bản năm 1922 – là một vở chèo cải biến cốt truyền tải giáo lý và những bài học luân lý đạo đức. Theo Tiểu Dẫn của Tuồng Bảy Mối Tội, “Hẳn như lời Kinh thánh dạy, vì ma quỉ ghen ghét, nên sự chết đã vào thế gian: nó đã hỏng mất thiên đàng, nó lại muốn cho loài người cũng đồng sa hỏa ngục. Vì vậy nên nó hằng bày mưu nọ chước kia cho đặng cám dỗ ta phạm tội, mà phương nhứt hảo của nó là bảy mối tội đầu. Nó dùng bảy nết xấu ấy mà kéo muôn vàn linh hồn xuống địa ngục. 

Vậy nay tuồng này diễn ra cho biết ma quỷ thường cám dỗ người ta về bảy mối tội đầu thể nào, người ta quen phạm về bảy mối ấy làm sao. Xem ra như ma quỉ phân nhau từng toán, đi rảo khắp nơi cho đặng cám dỗ người ta, mà khi ai nghe theo nó, thì thích ý nó lắm. Trong tuồng nầy cũng có lời Thiên thần dạy bảo những điều thiết yếu, cũng có gương tội nhơn than thân trách phận, cho ta đặng động lòng cải quá tự tân. Vì vậy xem sách tuồng nầy đã giải trí, lại hữu ích; mà khi coi hát tuồng này thì lại càng động lòng hổ thẹn về nết xấu mình cùng sợ đàng tội lỗi” (5). Với hơn 20 nhân vật, từ thiên thần, các tội nhân, lũ quỷ, người chủ quán, tên khách, ông tổng, ông xã, … Ngoài lời thoại là những câu thơ, còn có “các bài hát Nam, khách, bạch, thán, nghe có vui có thảm”.

Trích lời Tiểu Quỷ, giọng giỡn đùa, giới thiệu bảy tướng:

“Anh này diện mạo cừ khôi
Đó chính là anh Kiêu Ngạo
Anh nầy mặt mày quạu quạu
Ấy là chính bợm Tà Dâm
Anh kia tướng mạo chầm vầm
Ấy là chánh vai Hà Tiện
Anh nầy dày môi rọng miệng
Đó chính là cậu Mê Ăn
Anh nọ le lưỡi nhăn răng
Ấy chính là tên Hờn Giận
Anh nầy coi tuồng bẩn bẩn
Đó chánh là tướng Ghen Tương
Anh nọ bộ dạng ương ương
Ấy là chính tên Làm Biếng” (tr. 7-8).

Cuối vở tuồng, Thiên Thần giảng cho biết định nghĩa bảy mối tội rõ ràng, xen kẽ lời giảng và phụ họa:

Tâm sầu lụy lụy, dạ não thâm thâm,
Tiếc công ta gìn giữ bấy năm,
Khổ phận nó gia hình muôn kiếp

  Hựu Thán: Ai a!
Địa ngục lai hoàn về địa ngục,
Thiên gia trực đáo đến thiên gia!
Thương thay! Chúng quỉ đà nhào xuống,
Thảm bấy! tội nhơn lại đắm sa.

  Nói: Đắm sa tội tình chi bấy?
Thống hối cải dữ chớ chầy,
Vui chi sung sướng chóng một giây,
Mà phải gian nan hoài muôn kiếp.

  Nam: Hoài hoài muôn kiếp gian nan,
Mất xem mặt Chúa lại càng tiếc thay!
Tiếc thay ơn Chúa cao dày,
Ngày xưa đã phụ, nên rày phải nguy.

  Giảng: Ớ các giáo nhơn, sự tình đà tỏ rõ,
Nghĩa lý cũng phân minh,
Bấy giờ hãy nghĩ đến phận mình,
Tự bậu đừng lảng sao sự thế.
Việc phần hồn đừng khoáng phế,
Rủi sa phạm phải ăn năn;
Trước tua nắm giữ mười răn,
Sau lại dứt trừ bảy mối.
Kiêu căng quen thói nõ hơn ai,
Hà tiện tích tài càng vô lối,
Dâm dục sa đà còn thêm tội.
Giận hờn tức tối chẳng được chi,
Ghen ghét phân bì càng thêm chuyện,
Mê ăn sướng miệng cũng ô danh,
Làm biếng việc lành sau mất phước,
Vậy ân cần rày lo trước,
Kẻo khốn nạn rủi về sau.
Bấy lời khắn khắn để khuyên nhau,
Xin giữ làu làu đừng sai chậy,

  Nam: Xin đừng sai chậy mấy câu,
Quỉ ma cám dỗ mặc dầu quỉ ma,
Phận ta lo giữ phận ta,

Thành tâm trọn đạo ấy là mới xong” (tr. 38-40).

*

Ngoài môi trường nhà Chung, có những nhà xuất bản thương mại cũng in tác phẩm văn học liên quan đến đạo Thiên Chúa, như về kịch có thể kể Lương Tâm Đấng Linh Mục bi kịch 7 màn của Michel Mỹ (“Lời phê bình” của nhà văn Hồ Biểu-Chánh ở đầu sách; Saigon: Impr. Indochinoise, 1941; Michel Mỹ còn là tác giả của khoảng 10 biên khảo và ký sự bẳng tiếng Pháp), hoặc các Tuồng Ông Giacop và Các Con, tuồng hát của Qui-Chánh-Bạn bạn diễn tuồng tại Cầu Kho (2 tập; Impr. J. Nguyễn Văn Viết, 1927); Tuồng Thương Khó Đấng Cứu Thế của A. Alphonse Lô dit Benjamin, Hội thiện k(ệ)ch Thiện Tâm Thanh (Bảo Tồn, 1936); Kịch Ông Thánh Lý Mĩ Tử Đạo (Hong Kong: Imprimerie de la société de Mìssions Étrangères,1918); …

*

Bài viết này tiếp theo bài “Vài Ghi Nhận về Kịch” đã đăng trên tạp chí Hợp Lưu (số 86, 12-2005) – nhiều sinh viên và nhà nghiên cứu trong nước đã liên lạc hỏi tôi văn bản những vở kịch nói đầu tiên. Tôi có giúp nhưng lúc bấy giờ tôi chưa nghĩ sẽ đi sâu hơn. Với bài này nay đánh dấu việc tôi tiếp tục nghiên cứu về văn học chữ quốc ngữ thời đầu và tham gia nghiên cứu về văn-học Công-giáo.

Chú-thích

  1. Ðỗ Như Thắng ghi lại ý kiến của gs Hoàng Châu Ký trong “’Tuồng Cha Minh’ là Tuồng hay Kịch?” in Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (thế kỷ XVII-XIX). TP HCM: Trường Ðại Học Tổng Hợp TP HCM, Khoa Ngữ văn, 1993, tr. 131.
  2. Tuồng Joseph, tragédie tirée de l’histoire sainte par Trương Minh Ký, représentée à Cholon pour la 1re fois, le 13 Juillet, 1887, Saigon, bản in nhà Rey et Curiel, 1888.
  3. Tiểu dẫn in lần thứ nhứt, bản 1923, tr. 8.
  4. Trích theo Đỗ Như Thắng. Sđd, tr. 131.
  5. Tuồng Bảy Mối Tội. 1922, tr. 3.

Nguyễn Vy Khanh

(Trích Sơ Thảo Văn Học Công Giáo Việt Nam, Nguyễn Publishing, 2023; lulu.com)