Lịch sử hình thành và phổ cập của chữ quốc ngữ
Trần Thạnh, PhD
(Nguồn: Kỷ Yếu Đánh Dấu 50 Năm Người Việt Tỵ Nạn Định Cư Tại Úc – VCA-NSW 2025)
Năm 2025, người Việt hải ngoại kỷ niệm nửa thế kỷ định cư tại quê hương thứ hai. Trong suốt hành trình xây dựng cuộc sống tại quê hương mới và hòa nhập với người bản xứ, cộng đồng người Việt không ngừng các hoạt động gìn giữ bản sắc văn hóa riêng. Duy trì ngôn ngữ Việt, dù là tiếng nói hay chữ viết (chữ quốc ngữ), là một trong những trọng tâm của các hoạt động này.
Trước khi chữ quốc ngữ ra đời, chữ Nôm và chữ Hán được dùng như văn tự ghi lại tiếng nói của người Việt. Với nguồn gốc vay mượn từ chữ Hán, chữ Nôm khó phát triển thành một văn tự phổ biến. Sự ra đời của chữ quốc ngữ, tuy ban đầu chỉ nhằm phục vụ cho việc truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây, dần dần trở thành thứ chữ mà ngày nay mọi người Việt đều sử dụng và là chữ viết thống nhất của quốc gia.
Chữ quốc ngữ ra đời khi nào? Ai là người có công đầu trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ? Đâu là cái nôi của chữ quốc ngữ? Bài viết này trình bày tóm tắt sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ, nhằm trả lời các câu hỏi trên.
I. Chữ quốc ngữ và các giáo sĩ Dòng Tên (Jesuits)
I.1 Nguồn gốc của nhóm từ “chữ quốc ngữ”
Nhóm từ “chữ quốc ngữ” (có khi được gọi tắt là “quốc ngữ” tuy rằng cách gọi tắt này có thể gây hiểu lầm) mang ý nghĩa là thứ chữ ghi lại ngôn ngữ của quốc gia. Có lẽ câu hỏi đầu tiên nên được nêu ra là nhóm từ “chữ quốc ngữ” xuất hiện từ lúc nào và do ai đặt ra. Theo (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 295) John de Francis viết trong quyển sách Colonialism and Language Policy in Viet Nam, xuất bản năm 1977, rằng khó có thể trả lời câu hỏi này, sau khi ông tìm tòi các từ điển, sách văn phạm, và báo chí thời thuộc địa. Cũng trên trang sách này, tác giả họ Phạm cho biết tài liệu sớm nhất có nhóm từ này mà cô tìm được là trang 2 của tờ Gia Định báo số 1 năm 1867.

Cũng theo suy đoán của tác giả họ Phạm, những nhân vật lừng danh người Việt như Petrus Trương Vĩnh Ký (1837–1898) và Paulus Huình (Huỳnh) Tịnh Của (1830–1908) là những người có tiếng nói quan trọng trong việc chọn cái tên chữ quốc ngữ này.
I.2 Sự ngộ nhận
Năm 1651, quyển Từ điển Việt–Bồ Đào Nha–La-tinh (Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum) và quyển Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời được xuất bản tại La Mã (Rome). Tác giả của hai ấn phẩm này được ghi rõ ở trang bìa là Alexandre de Rhodes. Đây là hai ấn phẩm đầu tiên bằng chữ quốc ngữ nên chúng trở thành điểm mốc quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử của thứ ký tự này. Vì vậy, khi chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi trên toàn nước Việt Nam vào đầu thế kỷ 20, dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm, Alexandre de Rhodes được ghi nhận là người đã khai sinh ra ký tự La-tinh để ghi lại tiếng nói của người Việt. Cũng có thể vì lý do chính trị mà chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ ghi nhận công lao đầu của ông trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ, xem ông là cha đẻ của chữ quốc ngữ.
Hình 2: Quyển ngữ pháp tiếng Việt bằng tiếng La-tinh do Alexandre de Rhodes soạn (Nguồn: gallica.bnf.fr)
Hình 3: Từ điển Việt-Bồ-La (Nguồn: gallica.bnf.fr)

Hình 4: Chân dung của Alexandre de Rhodes và một trang trong sách Phép giảng tám ngày (Nguồn: Vietnamese Heritage Museum)
Người Việt ở vào lứa tuổi trên 60 hiện nay, đã sống và trưởng thành ở phía nam sông Bến Hải, ít ai là chưa từng nghe đến cái tên Alexandre de Rhodes (mà nhiều người quen thuộc với cái tên phiên âm ra tiếng Việt từ chữ Hán là A-lịch-sơn Đắc Lộ hay ngắn gọn hơn là Cha Đắc Lộ). Trước năm 1975, tên của ông được đặt cho một con đường trước Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống Nhất) ở Sài Gòn. Năm 1985, đường được đổi tên thành Thái Văn Lung, nhưng đến năm 1995, đường lại được mang tên Alexandre de Rhodes.
Tại Hà Nội, năm 1941, một đài kỷ niệm cha Đắc Lộ được dựng lên gần cửa đền Ngọc Sơn (hồ Hoàn Kiếm). Năm 1957 tấm bia bị gỡ bỏ và mất tích từ năm 1984, đến năm 1992 mới tìm lại được. Từ năm 1995, bia được đưa về khu vườn của Thư viện Quốc gia tại Hà Nội.

Hình 5: Đền và bia tưởng niệm Alexandre de Rhodes tại Hà Nội (Nguồn: Internet)
Từ nửa sau của thế kỷ 20, một số nhà nghiên cứu đã không đồng ý với quan điểm coi Đắc Lộ là cha đẻ của chữ quốc ngữ, tuy vẫn công nhận công lao lớn của ông trong công cuộc tiên phong này. Khởi đầu của những nghiên cứu này là các linh mục người Việt được đào tạo ở Châu Âu như Nguyễn Khắc Xuyên (NGUYỄN Khắc Xuyên, 1959, 1960), Thanh Lãng (THANH LÃNG, 1961), Đỗ Quang Chính (ĐỖ Quang Chính, 1972), và các nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trụ (LÊ Ngọc Trụ, 1961) và Võ Long Tê (VÕ Long Tê, 1965).
Sau đó có thể kể đến luận văn cao học (Diplôme d’Études Approfondies) của nhà nghiên cứu người Pháp Roland Jacques, trình năm 1995 tại INALCO [1] (JACQUES Roland, 1995). Ông viết lại luận văn này và xuất bản thành sách song ngữ Anh-Pháp (JACQUES Roland, 2002).
Mới đây nhất là luận án tiến sĩ năm 2018 của Phạm Thị Kiều Ly tại Đại học Sorbonne Nouvelle, Pháp quốc (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018). Luận án này được viết lại và in thành sách bằng tiếng Pháp (PHẠM Thị Kiều Ly, 2022), và dịch ra tiếng Việt (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024).
Những nghiên cứu mới nói trên chứng minh rằng quyển từ điển của Alexandre de Rhodes là thành quả của các nhà truyền giáo Dòng Tên người Bồ Đào Nha: Francisco de Pina, António de Fontes, Gaspar do Amaral, và António Barbosa, cùng với công biên soạn trực tiếp của Alexandre de Rhodes.
Để hiểu rõ hơn lịch sử hình thành của chữ quốc ngữ, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh chính trị của Việt Nam khi các giáo sĩ Thiên chúa giáo đến truyền đạo.
I.3 Hoàn cảnh chính trị và địa lý của Việt Nam vào thế kỷ 17 và sự có mặt của các giáo sĩ Dòng Tên
I.3.1 Đại Việt tiếp xúc với phương Tây
Tình hình chính trị Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 rất phức tạp. Lúc bấy giờ đất nước trên danh nghĩa thuộc triều đại nhà Hậu Lê, có quốc hiệu là Đại Việt. Tuy nhiên vua Lê không có thực quyền. Phía nam sông Gianh (tỉnh Quảng Bình) được gọi là Đàng Trong, do Nguyễn Hoàng xây dựng và các chúa Nguyễn cai quản từ năm 1600. Phía bắc sông Gianh được gọi là Đàng Ngoài, do các chúa Trịnh cai quản. Ngoài ra khu vực Cao Bằng lại do hậu duệ của Mạc Đăng Dung trấn giữ; các giáo sĩ Tây phương gọi khu vực này là Đàng Trên. Lịch sử khai phá vùng đất phương Nam (Đàng Trong) được ghi chép chi tiết trong quyển Việt sử Xứ Đàng Trong (PHAN Khoang, 1969).
Các nhà truyền giáo đầu tiên đến Đại Việt đa số là các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha. Đó là hệ quả của hiệp ước Tordesillas (Treaty of Tordesillas) ký năm 1494 giữa hai đế quốc hùng mạnh vào thế kỷ 15 là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Hiệp ước này phân chia thế giới ra làm hai phần, dọc theo đường kinh tuyến xuyên Đại Tây Dương, nằm giữa quần đảo Cape Verde (phía Tây của Phi Châu, lúc bấy giờ thuộc quyền của Bồ Đào Nha) và các quần đảo mới được Christopher Columbus khám phá (thuộc quyền của Tây Ban Nha, ngày nay là Cuba và Hispaniola). Các vùng đất mới được khám phá nằm về phía Đông của đường kinh tuyến này thuộc quyền của Bồ Đào Nha. Phần phía Tây thuộc Tây Ban Nha. Đây là lý do giải thích sự có mặt của người Bồ Đào Nha và sự không có mặt của người Tây Ban Nha tại Đại Việt.
Các giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đến Đại Việt gọi Đàng Trong là Cocicina và Đàng Ngoài là Tunquin hay Tonquim. Trong tác phẩm ấn hành năm 1631 “Relatione della nvova missione delli PP. della Compagnie di Giesu, al regno della Cocincina” được Bonifacy dịch sang Pháp ngữ (BONIFACY, 1931), Cristoforo Borri giải thích nguồn gốc của chữ Cocicina như sau. Người Nhật lúc bấy giờ gọi An Nam là Coci. Khi họ giới thiệu các thương nhân Bồ Đào Nha đến đây, các thương nhân này cũng dùng chữ Coci, nhưng thêm Cina vào, hàm ý xứ Coci của Trung Hoa, để phân biệt với địa danh Cocin tại Ấn Độ. Tương tự như vậy, do cách người Nhật phát âm chữ Đông Kinh (tức Đông Đô, kinh đô của Đại Việt), người Bồ Đào Nha gọi kinh đô của Đại Việt là Tunquin.
Léonard Aurousseau giải thích rõ hơn về nguồn gốc chữ Coci trong bài Sur le nom de Cochinchine (Về danh xưng Cochinchine) (AUROUSSEAU Léonard, 1924, trang 574–575). Theo Aurousseau, người Trung Hoa gọi Đại Việt là Kiao-tche kouo (Giao Chỉ quốc). Người Nhật phát âm Kiao-tche là Coci hay Cauci. Như vậy lúc đầu Cocicina là danh xưng để chỉ toàn thể nước Đại Việt, còn Tunquin (Đông Kinh) là kinh đô. Khi các giáo sĩ đến Đàng Trong năm 1615, vì cần phân biệt với Đàng Ngoài, họ gọi Đàng Trong là Cocicina và Đàng Ngoài là Tunquin. Xem thêm (PHAN Khoang, 1969, trang 543–544). Hai địa danh này có nhiều cách viết khác nhau, trong đó có Cochinchine và Tonkin.
Sau này người Pháp cũng dùng chữ Cochinchine để chỉ Nam Kỳ và Tonkin để chỉ Bắc Kỳ. Tuy nhiên có sự khác biệt. Tunquin thời các giáo sĩ Dòng Tên đến Đại Việt vào thế kỷ 17 là giải đất phía Bắc sông Gianh (trừ Cao Bằng thuộc nhà Mạc), còn Cocicina là giải đất từ phía Nam sông Gianh đến Phú Yên. Vùng đất phía Nam Phú Yên, từ Nha Trang đến Hà Tiên, lúc đó thuộc Chiêm Thành và Chân Lạp. Trong khi đó Cochinchine thời Pháp thuộc kéo dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên, và Tonkin là vùng đất ở phía Bắc của Đèo Ngang, đến biên giới với Nhà Thanh. Vùng đất ở giữa Tonkin và Cochinchine thuộc triều đình An Nam của các vua nhà Nguyễn.
I.3.2 Ngữ học truyền giáo
Khi các giáo sĩ phương Tây đến một vùng đất mới, để phục vụ cho việc truyền giáo họ phải học tiếng nói của dân địa phương. Nhằm giúp cho việc học ngôn ngữ địa phương này, họ tìm cách ký âm lại tiếng nói của dân bản xứ, theo ký tự La-tinh là thứ ngôn ngữ mà hầu hết những nhà truyền giáo đều thông thạo. Việc làm quan trọng tiếp theo là soạn từ điển và sách ngữ pháp của ngôn ngữ đó, theo khuôn mẫu của ngữ pháp La-tinh. Đây là khuynh hướng thường thấy của ngữ học truyền giáo (missionary linguistics). Trường hợp điển hình là ở Nhật Bản.
Đến Nhật Bản từ giữa thế kỷ 16 (năm 1549), giáo sĩ Dòng Tên François Xavier khởi đầu cho việc dùng mẫu tự La-tinh để phiên âm ngôn ngữ Nhật. Bằng cách đó, ông cùng với các nhà truyền giáo đồng hành học tiếng Nhật và dùng nó trong việc truyền giáo. Nhiều công trình soạn sách ngữ pháp, từ điển, và sách giáo lý được hoàn thành. Điển hình là quyển Dictionarium Latino Lusitanicum ac Iaponicum (Từ điển La-tinh, Bồ Đào Nha, Nhật) xuất bản năm 1595 do một số giáo sĩ Âu Châu và anh em đồng tu biên soạn, quyển Vocabulario da lingoa de Iapam (1603–1604, tác giả vô danh), và quyển Arte da lingoa de Iapam (Ngữ pháp tiếng Nhật) của João Rodriguez [2] được xuất bản trong khoảng năm 1604–1608; xem (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018, trang 45). Các giáo sĩ Dòng Tên nói trên đã tạo bước tiến rõ rệt trong việc La-tinh hoá cách viết tiếng Nhật.
Tuy nhiên, đến năm 1612, dưới thời Mạc Phủ Tokugawa, chính sách cấm đạo Ki-tô được ban hành. Các giáo sĩ Dòng Tên bị trục xuất ồ ạt khiến họ phải sang lánh nạn tại Macao (các tài liệu cũ ghi là Áo Môn, theo cách phiên âm qua chữ Hán). Họ đã ảnh hưởng lớn đến các giáo sĩ Dòng Tên có sứ mệnh sang truyền giáo ở Đại Việt [3].
I.4 Các giáo sĩ Dòng Tên đến Đại Việt
Đầu thế kỷ 17, phái bộ truyền giáo Dòng Tên cho khu vực Đông Nam Á được thành lập, đặt trụ sở tại Macao, trực thuộc tỉnh dòng Nhật Bản. Theo Đỗ Quang Chính (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 22) từ năm 1615 đến năm 1788 có 145 tu sĩ Dòng Tên thuộc 17 quốc tịch khác nhau đến truyền giáo tại Việt Nam. Đa số các vị này là người Bồ Đào Nha (74 người), rồi tới Ý (30), Đức (10), Nhật (8), Pháp (5), Tây Ban Nha (4), Trung Hoa (2), Macao (2), Ba Lan (2), và một số nước khác, mỗi nước một người.
Những nhà truyền giáo được kể tên sau đây ít nhiều có liên quan đến việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
I.4.1 Ba giáo sĩ đầu tiên đến Đàng Trong năm 1615
Ba nhà truyền giáo Dòng Tên đến Đàng Trong đầu tiên là Francesco Buzomi (người Ý), Diego Carvalho (người Bồ Đào Nha), và António Dias (người Bồ Đào Nha) [4]. Các ông đáp tàu buôn Bồ Đào Nha đi từ Macao ngày 6 tháng giêng năm 1615, tới Cửa Hàn (Đà Nẵng) ngày 18 tháng giêng 1615, rồi sau đó đi Hải Phố (Hội An).
I.4.2 Francisco de Pina (1585–1625) đến Đàng Trong năm 1617
Hai năm sau khi ba giáo sĩ Buzomi, Carvalho, và Dias đến Hội An, năm 1617, Francisco da Pina (người Bồ Đào Nha) cũng đến thị trấn giáp biển này. Tên của ông còn được viết là Francisco de Pina. Trong số các giáo sĩ đến Đại Việt trong thời gian này, F. de Pina được coi là người đầu tiên nói thạo tiếng Việt (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 22).
Francisco de Pina sinh năm 1585 tại Guarda, một thành phố ở vùng núi của Bồ Đào Nha nổi tiếng với nhiều nhà thờ tráng lệ. Ông gia nhập Dòng Tên năm 1605, học tại Trường Thánh Phao Lồ (St. Paul’s College) ở Macao từ năm 1611 đến 1617. Tại đây ông đã gặp João Rodriguez, người đã soạn quyển ngữ pháp tiếng Nhật trước đó không lâu (xem phần I.3.2).
Theo Đỗ Quang Chính (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 22) [5], năm 1618 Francisco de Pina đến ở tại Nước Mặn (Bình Định) [6] với Linh mục Buzomi và Borri. Hai năm sau, ông trở lại Hội An, rồi tới năm 1623 ông đến ở tại Kẻ Chàm [7]. Ngày 15 tháng 12 năm 1625, Francisco de Pina cùng một người An Nam chèo thuyền ra tàu Bồ Đào Nha đang neo ngoài khơi của Hội An để nhận đồ phụng tự. Khi trở về bị gió bão, thuyền bị lật, và ông qua đời. Xác của ông được vớt và an táng ở Hội An, nhưng ngày nay không tìm thấy dấu tích. Hiện nay có ba ngôi mộ cổ không ghi tên người mất trong khuôn viên Nhà thờ Phước Kiều (ở Thanh Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam). Người ta nghi ngờ một trong số các ngôi mộ này là của Francisco de Pina nhưng không có chứng cứ rõ ràng [8].
Hình 6: Mộ cổ tại nhà thờ Phước Kiều, nơi mà người ta nghi ngờ (nhưng thiếu chứng cứ) một trong số các ngôi mộ này là của Cha Francisco de Pina (Nguồn: Internet)
I.4.3 Cristoforo Borri (1583–1632) đến Đàng Trong năm 1618
Cristoforo Borri (có tài liệu viết là Christoforo Borri) đến Hội An một năm sau F. de Pina, năm 1618. Ông là nhà truyền giáo đồng thời là nhà toán học và thiên văn học người Ý, sinh tại Milan, gia nhập Dòng Tên năm 1601. Sau khi đến Hội An, ông theo hai linh mục Buzomi và de Pina đến lập cơ sở truyền giáo ở Nước Mặn; xem chú thích [6]. Ông sống tại đây ba năm, học thành thạo tiếng Việt. Năm 1621 ông rời Đàng Trong rồi trở về Bồ Đào Nha giảng dạy toán và thiên văn học tại các trường Colégio das Artes (College of Arts) ở Coimbra và Colégio de Santo Antão (College of Saint Anthony) ở Lisbon; xem (CAROLINO Luís Miguel, 2007). Quyển sách Relatione della nvova missione delli PP. della Compagnie di Giesu, al regno della Cocincina bằng Ý ngữ của ông là một tác phẩm quan trọng cho việc tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ; xem phần II.1.1.
I.4.4 Pedro Marques (1576–1657) đến Đàng Trong lần đầu năm 1618
Theo quyển từ điển Diccionario Histórico de la Compañía de Jesús: Biográfico-Temático (Từ điển Lịch sử của Hội Dòng Tên: Chủ đề Tiểu sử), có hai linh mục có cùng tên Pedro Marques và sống cùng thời mà nhiều nhà nghiên cứu nhầm lẫn. Trang 2512 và 2513 của quyển từ điển này (O’NEILL Charles E. & DOMÍNGUEZ Joaquín M., 2001) phân biệt hai ông bằng tên gọi Pedro Marques và Pedro Marques (junior) hay Pedro Marques-Ogi. Theo đó, Pedro Marques (1576–1657) sinh tại Bồ Đào Nha và mất tại Nhật, còn Pedro Marques-Ogi (1612–1670) sinh tại Nagasaki, Nhật Bản, và mất ngoài khơi đảo Hải Nam vì đắm thuyền. Cha của Pedro Marques-Ogi là Vincente Marques, người Bồ Đào Nha sống ở Nagasaki, và mẹ là Sabina Ogi thuộc dòng dõi quý tộc của Nhật. Anh của ông, Francisco Marques-Ogi (1611–1643) cũng là một linh mục, bị hành hình và mất ở Nagasaki.
Trong khi đó Đỗ Quang Chính (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 22) cho là Pedro Marques sinh năm 1575 tại Nhật, có cha là người Bồ, mẹ là người Nhật, và mất năm 1670 vì bị đắm tàu ở gần đảo Hải Nam. Cả hai tài liệu nói trên đều cho biết Pedro Marques (senior) đến Đàng Trong năm 1618, trong khi theo quyển từ điển Pedro Marques (junior) đến đây năm 1653. Vì vậy chúng tôi tin rằng Linh mục Pedro Marques mà tác giả Linh mục Đỗ Quang Chính muốn nói tới là vị linh mục thâm niên hơn và ông đã nhầm lẫn về tiểu sử của vị linh mục này. Vị này là Bề trên của các tu sĩ Dòng Tên tại Hội An vào năm 1620, là năm mốc quan trọng sẽ được nói tới ở phần sau.
I.4.5 Alexandre de Rhodes, A-lịch-sơn Đắc Lộ, (1593–1660) đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624
Alexandre de Rhodes sinh năm 1593 [9] tại Avignon, lãnh địa của Giáo hoàng do Tòa thánh La Mã mua lại, nay là đất của Pháp. Ông vào tu Dòng Tên tại Rome năm 1612.
Ông đến Hội An cuối năm 1624 rồi đến sống và học tiếng Việt với Francisco de Pina tại Thanh Chiêm. Theo (ĐỖ Quang Chính, 2011) Bề Trên gửi ông đến Đàng Trong là để học tiếng Việt với de Pina rồi gửi ông ra Đàng Ngoài, qua ngã Macao (vì lúc đó Đàng Trong và Đàng Ngoài đang thù nghịch nhau).
Năm 1626, ông rời Đàng Trong đi Macao rồi tới Thanh Hoá (Đàng Ngoài) năm 1627. Tại đây ông được Chúa Trịnh Tráng quý mến, cho phép truyền đạo trong năm đầu. Sau đó vì bị vu cáo là làm gián điệp cho Chúa Nguyễn, ông bị trục xuất năm 1630. Rời Đại Việt, ông đi Macao giảng dạy tại Trường Thánh Phao Lồ mười năm rồi trở về Đàng Trong từ năm 1640 tới 1645; trong khoảng thời gian đó nhiều lần ông bị trục xuất.
Cuối năm 1645, ông đáp tàu trở về Roma. Năm 1655, Bề Trên gửi ông sang Ispahan (còn gọi là Esfahan hay Isfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy (tức Iran ngày nay), cách Tehran hơn 400km về phía Nam. Ông mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 và được an táng tại đây.

Hình 7: Bộ tem được Bưu Chính Việt Nam Cộng Hòa phát hành ngày 5-9-1961 để kỷ niệm 300 năm ngày mất của Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (Nguồn: Vietnamse Heritage Museum)
I.4.6 António de Fontes (1569–?) đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624
Linh mục António de Fontes sinh năm 1569 ở Lisbonne (không rõ năm mất), đến Đàng Trong cuối năm 1624, ở tại cư sở Dòng Tên tại Kẻ Chàm (Thanh Chiêm) cùng với Alexandre de Rhodes và học tiếng Việt từ Francisco de Pina. Ông phục vụ cho việc truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1624 đến năm 1631, sau đó ra Đàng Ngoài cho đến năm 1648. Năm 1626, ông viết một bản tường trình thường niên bằng Bồ ngữ để gửi cho Bề trên Cả của Dòng Tên ở La Mã. Bản tường trình này có nhiều chữ quốc ngữ, sẽ nói đến ở phần sau (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 34–37; PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 115). Ông có công trong việc truyền bá chữ quốc ngữ từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài.
I.4.7 Gaspar d’Amaral hay Gaspar do Amaral (1592–1645) đến Đàng Ngoài tháng 10 năm 1629
Từ điển (O’NEILL Charles E. & DOMÍNGUEZ Joaquín M. (Eds), 2001, trang 96) cho biết Linh mục Gaspar do Amaral sinh năm 1594 tại Bồ Đào Nha và mất do bị đắm thuyền ngoài khơi đảo Hải Nam ngày 26.02.1646. Ông được Dòng Tên gửi đến Macao năm 1623. Từ Macao, ông đến Đàng Ngoài nhiều lần, lần đầu vào tháng 10 năm 1629. Sách (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 51–53) ghi năm sinh và năm mất có khác. Ông được Chúa Trịnh Tráng tiếp đón nồng hậu tại Kẻ Chợ (Thăng Long). Ông đã có công biên soạn quyển từ điển Việt–Bồ–La (Diccionário anamita-português-latim) ngoài một tài liệu viết tay bằng chữ Bồ năm 1632. Tài liệu này có nhiều chữ quốc ngữ (ĐỖ Quang Chính, 1972). Cuốn từ điển nói trên hiện nay đã thất lạc. Tuy nhiên trong quyển từ điển của mình (xem phần I.2 bên trên và II.1.2 bên dưới), Alexandre de Rhodes có viết ông đã thừa hưởng từ công trình đó.

Hình 8: Ngày 5/11/2018, nhân kỷ niệm 358 năm ngày mất của Alexandre de Rhodes, một phái đoàn người Việt Nam do GS Nguyễn Đăng Hưng (mặc quốc phục trắng) dẫn đầu đến viếng và đặt bia vinh danh ông tại Isfahan. Nguồn: internet
I.4.8 António Barbosa (1594–1647) đến Đàng Ngoài năm 1636
Theo (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 67) António Barbosa sinh năm 1594 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Ngoài cuối tháng 4 năm 1636, rồi trở về Macao vào tháng 5 năm 1642 vì lý do sức khoẻ. Ông mất năm 1647 khi đang trên đường đi Goa (Ấn Độ). Ông đã biên soạn quyển từ điển Bồ–Việt (Diccionário português-anamita) trong khoảng thời gian 1636–1642 khi đang ở Đàng Ngoài. Trong quyển từ điển của mình (xem phần I.2 bên trên và II.1.2 bên dưới) cha Đắc Lộ cũng nhắc đến việc ông thừa hưởng thành quả từ quyển từ điển này. Quyển từ điển của António Barbosa nay đã thất lạc.
II. Các văn bản có liên quan đến chữ quốc ngữ
Các nhà nghiên cứu về lịch sử chữ quốc ngữ dựa vào các văn bản, cả ấn phẩm và văn bản viết tay, để xác định thời điểm ra đời của chữ quốc ngữ.
II.1 Ấn phẩm
II.1.1 Sách Ý ngữ của Cristoforo Borri
Có thể nói ấn phẩm đầu tiên có liên quan đến chữ quốc ngữ là quyển sách do Cristoforo Borri viết bằng Ý ngữ và xuất bản tại Rome năm 1631 “Relatione della nvova missione delli PP. della Compagnie di Giesu, al regno della Cocincina”. Quyển sách được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác: Pháp, Anh, Đức, Hoà Lan, La-tin. Có hai bản dịch ra Pháp ngữ, một của Antoine de la Croix từ năm 1631 (de LACROIX Antoine, 1631) và một của Bonifacy được đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hué (Đô Thành Hiếu Cổ) năm 1931 số 3-4 (BONIFACY, 1931). Năm 1811, John Pinkerton dịch tác phẩm này ra Anh ngữ (PINKERTON John, 1811).
Trong quyển sách này, Borri ghi lại một số chữ quốc ngữ. Vì khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi chỉ trích dẫn ra đây một số chữ:
Anam (An Nam), Tunchim (Đông Kinh), Ainam (Hải Nam), Quignin (Qui Nhơn), scin mocaij (xin một cái).
Mặc dù sách được xuất bản năm 1631, nhưng vì tác giả Cristoforo Borri rời Đàng Trong từ năm 1621 để trở về Bồ Đào Nha (xem tiểu sử ở phần I.4.3 bên trên) nên theo Đỗ Quang Chính có thể hiểu là những chữ quốc ngữ trong sách này tồn tại từ năm 1621 về trước.
II.1.2 Từ điển và sách của Alexandre de Rhodes
Hai ấn phẩm quan trọng khác là của Alexandre de Rhodes, như đã đề cập ở phần I.2, quyển Từ điển Annam–Bồ–La-tinh và quyển Phép giảng tám ngày in năm 1651. Phần cuối của quyển từ điển là quyển ngữ pháp tiếng Việt bằng tiếng La-tinh “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio” (Mô tả ngắn gọn về tiếng An Nam hay Đàng Ngoài). Như vậy cả hai phần quan trọng của ngữ học truyền giáo là từ điển và ngữ pháp được in trong cùng một quyển sách. Năm 1991, quí linh mục Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, và Đỗ Quang Chính đã dịch toàn bộ quyển sách ra Việt ngữ (THANH LÃNG et al., 1991). Mới đây nữ tu Maria Thérèse Bùi Thị Minh Thùy bổ sung một số cứ liệu vào bản dịch này (BÙI Thị Minh Thùy, 2021). Andrew Gaudio đã dịch phần ngữ pháp ra Anh ngữ (GAUDIO Andrew, 2019).
II.1.3 Từ điển của Taberd và Aubaret
Phải đợi gần 200 năm sau khi Alexandre de Rhodes xuất bản sách của mình, khi Pháp bắt đầu can thiệp vào Việt Nam (năm 1838), hai quyển từ điển khác bằng chữ quốc ngữ mới ra đời: cuốn Từ điển La-tinh–Việt (Dictionnarium anamitico-latinum) và Từ điển Việt–La-tinh (Dictionnarium latino-anamiticum) của Taberd. Đến năm 1861, Louis-Gabriel-Gadéric Aubaret xuất bản quyển Vocabulaire français-annamite et annamite-français, précédé d’un traité des particules annamites (Từ vựng Pháp-Annam và Annam-Pháp).
II.2 Văn bản viết tay
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu tìm ra được từ các thư khố nhiều văn bản viết tay có liên quan đến chữ quốc ngữ, đã xuất hiện nhiều năm trước khi các ấn phẩm của Cristoforo Borri và Alexandre de Rhodes được xuất bản. Các nhà nghiên cứu dựa vào các văn bản này để xác định thời gian ra đời của chữ quốc ngữ và tìm câu trả lời cho câu hỏi ai là người đã sáng tạo ra thứ chữ này.
Đầu tiên phải kể đến khám phá của Đỗ Quang Chính. Tác phẩm Lịch sử chữ quốc ngữ (ĐỖ Quang Chính, 1972) đã đề cập đến những văn bản được ông tìm thấy trong các văn khố và thư viện ở La Mã (Rome), Madrid, Lisboa, Ba-Lê (Paris), Lyon, và Avignon. Sau Đỗ Quang Chính là Roland Jacques khi ông khám phá tường trình của Francisco de Pina (JACQUES Roland, 1995). Mới đây nhất là các khám phá của Phạm Thị Kiều Ly (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018).
II.2.1 Khám phá của Đỗ Quang Chính
Dựa vào những văn bản viết tay tìm được trong các thư khố, Đỗ Quang Chính chia thời gian hình thành chữ quốc ngữ thành hai giai đoạn:
II.2.1.a Giai đoạn một: Từ 1620 đến 1626
Đỗ Quang Chính đã dựa trước tiên vào hai bản tường trình hàng năm được viết tay gửi Bề trên cả của Dòng Tên ở La Mã.
Đầu tiên là bản của Linh mục João Roiz (xem chú thích [2]), viết tại Macao ngày 20.11.1621 bằng tiếng Bồ Đào Nha.
Tường trình thứ hai là của Linh mục Gaspar Luis, viết tại Macao ngày 12.12.1621 bằng tiếng La-tinh. Theo Léopold Cadière (CADIÈRE Léopold, 1931), bức thư đề ngày 17.12.1621.
Hai bản tường trình này thuật lại các hoạt động truyền giáo trong năm 1620 tại Đàng Trong, với hai điểm chính quan trọng sau đây:
- Các tu sĩ ở Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý viết tay bằng chữ Nôm. Quyển sách này hiện nay đã thất lạc. Vì cả hai bản tường trình có ghi lại một số chữ quốc ngữ nên Đỗ Quang Chính nêu giả thuyết là quyển sách giáo lý nói trên còn được soạn bằng chữ quốc ngữ nhưng đã thất lạc.
Bốn vị tu sĩ Dòng Tên có mặt tại Hội An năm 1620 chịu trách nhiệm soạn quyển sách giáo lý nói trên. Đó là quý linh mục:
(a) Pedro Marques (xem tiểu sử ở phần I.4.4), bề trên các tu sĩ Dòng Tên tại đây;
(b) Joseph, người Nhật, hoạt động ở Đàng Trong từ 1617 đến 1639. Sách (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 23) ghi là không tìm thấy tên Nhật của Thầy Joseph. Theo Fukuda Yasuo (福田康男Phúc Điền Khang Nam) trong bài Người Nhật có liên quan sâu sắc tới quá trình thiết lập phiên âm tiếng Việt bằng ký tự Latin (FUKUDA Yasuo, 2016) trong khoảng thời gian từ 1615 đến 1621, có bốn tu sĩ người Nhật đến Đàng Trong: Miguel Maki, José Tsuchimochi, Paulo Saito, và Romão Nish. Vì vậy chúng tôi phỏng đoán Thầy Joseph mà Đỗ Quang Chính đề cập chính là José Tsuchimochi;
(c) Paulo Saito, người Nhật, đến ở Đàng Trong từ 1616 tới 1627;
(d) Francisco de Pina (xem tiểu sử ở phần I.4.2 bên trên). Trong số bốn vị tu sĩ này, Francisco de Pina là người thạo tiếng Việt nhất. - Một chi tiết quan trọng khác trong bản tường trình của João Roiz là ngoài việc dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ Dòng Tên, Francesco de Pina đã hoàn thành một cuốn ngữ vựng vào năm 1619.
Vì vậy Đỗ Quang Chính cho rằng Francisco de Pina là người đầu tiên có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ, từ năm 1620.
Đỗ Quang Chính cũng liệt kê các tài liệu viết tay của Alexandre de Rhode (1625), Gaspar Luis (1626), Antonio de Fontes (1626), và Francesco Buzomi (1626) trong quyển sách của ông.
Sau đây là một số ví dụ chữ quốc ngữ được ghi lại trong các tài liệu viết tay nói trên và trong quyển sách của Cristoforo Borri (de LACROIX Antoine, 1631).
Unsai, onsaij (ông sãi), ungue, omgne (ông nghè), ondelim (ông đề lĩnh), Nuocman, Nuoecman (Nước Mặn, xem chú thích số [6]), Cacciam, Cacham (Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm, xem chú thích số [7]), Quignin, Quinhin (Qui Nhơn).
Muon bau dau christiam chiam: Muốn vào đạo Christiang chăng.
Tuy là cách viết không thống nhất trong các tài liệu trên, nhận xét chung là những chữ này được viết liền hai hay nhiều âm và không có dấu, khác với chữ quốc ngữ hiện nay là đơn âm và có dấu. Đây là lý do Đỗ Quang Chính xem giai đoạn từ 1620 đến 1626 là giai đoạn một. Tuy nhiên, Đỗ Quang Chính cũng ghi nhận cách viết đơn âm và có dấu đã bắt đầu xuất hiện trong hai báo cáo của Antonio de Fontes và Francesco Buzomi vào năm 1626. Ví dụ:
Dinh Cham (Dinh Chàm), xán tí (thượng đế), thien chu (thiên chủ, thiên chúa), ngaoc huan (ngọc hoàng).
II.2.1.b Giai đoạn hai: Từ năm 1631 đến 1648
Đỗ Quang Chính xác định giai đoạn này dựa vào các văn bản sau đây:
- Tài liệu viết tay của Đắc Lộ trong những năm 1631, 1636, 1644, 1647;
- Tài liệu viết tay bằng Bồ ngữ của Gaspar d’Amaral năm 1632 và năm 1637.
Ông đưa ra những nhận xét sau:
- Vào năm 1631, Đắc Lộ viết chữ quốc ngữ còn kém Francesco Buzomi vào năm 1626. Tài liệu 1644 có khá hơn, nhưng sau đó vào năm 1647 ông lại viết chữ quốc ngữ tương tự như thời kỳ 1636.
- Vào năm 1632, Gaspar d’Amaral viết chữ quốc ngữ giỏi hơn Alexandre de Rhodes, dù thời gian ông sống ở Đại Việt (Đàng Ngoài) tất cả là 28 tháng rưỡi, trong khi Alexandre de Rhodes lưu trú tại cả Đàng Trong và Đàng Ngoài 57 tháng.
Đỗ Quang Chính liệt kê rất nhiều chữ quốc ngữ trong hai văn bản viết tay của G. d’Amaral, trong đó có nhiều chữ viết giống như cách chúng ta viết hiện nay: Kẻ chợ, đàng ngoài, Thanh đô Vương, …
- Quyển (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 66) còn trích dẫn tài liệu cổ cho biết Gaspar d’Amaral đã soạn quyển từ điển Việt–Bồ–La (Diccionário anamita-português-latim) trước khi Alexandre de Rhodes soạn từ điển của ông. Đắc Lộ đã viết rõ là ông dùng cuốn từ điển của d’Amaral (xem phần I.4.7) và quyển Diccionário português-anamita của António Barbosa để soạn quyển của mình (xem phần I.4.8).
- Theo (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 67) thì trước khi quyển sách của ông xuất bản, các nhà nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ Việt Nam và ngoại quốc đã đề cao giá trị của Alexandre de Rhodes quá nhiều. Một vài nhà nghiên cứu có tỏ ra dè dặt (có lẽ Đỗ Quang Chính muốn nhắc tới Nguyễn Khắc Xuyên và Thanh Lãng), nhưng do không có tài liệu rõ rệt nên chưa dám khẳng định ai thực sự giỏi hơn Đắc Lộ. Nhờ khám phá được tài liệu của d’Amaral, ông đã dám khẳng định điều này.
- Chương 3 của quyển (ĐỖ Quang Chính, 1972) cho biết nhiều chi tiết về việc Đắc Lộ học tiếng Việt, ban đầu là với Francisco de Pina và một thiếu niên 13 tuổi người Việt. Đỗ Quang Chính kết luận Francisco de Pina là người đầu tiên dùng mẫu tự La-tinh ghi âm tiếng Việt.
II.2.2 Khám phá của Roland Jacques
Năm 1995, Roland Jacque tìm được trong thư viện Biblioteca da Ajuda một báo cáo của Francisco de Pina, viết năm 1622; xem (JACQUES Roland, 1995, 1998, 2002) và (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018, trang 197). Trong bản báo cáo này, F. de Pina cho biết ông đang soạn thảo một quyển văn phạm. Cùng với sự kiện ông đã soạn thảo một quyển từ vựng (xem phần II.2.1.a bên trên) chi tiết quan trọng này chứng thực kết luận của Đỗ Quang Chính trước đó rằng chính Francisco de Pina là người đầu tiên sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
II.2.3 Khám phá của Phạm Thị Kiều Ly
II.2.3.a Bốn văn bản viết tay trước năm 1621
Luận án Tiến sĩ của Phạm Thị Kiều Ly trình tại Đại học Sorbonne Nouvelle (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018) đưa ra bốn bản viết tay cổ hơn các bản năm 1621 mà Đỗ Quang Chính và Léopold Cadière đề cập. Cũng như các bản tường trình trước, những bản sắp liệt kê ra ở đây được soạn thảo tại Macao, dựa trên tường trình của các linh mục tại Đàng Trong, để báo cáo cho Bề trên cả ở Rome về diễn biến truyền giáo tại An Nam.
- Bản năm 1617 bằng Bồ ngữ (tác giả vô danh). Chữ quốc ngữ được ghi nhận trong tài liệu này là Chuua, là danh xưng dành cho người cầm quyền ở Đàng Trong lúc bấy giờ (Chúa Nguyễn).
- Bản năm 1618 bằng Ý ngữ (tác giả vô danh). Ảnh hưởng của Ý ngữ thể hiện rõ trong cách ký âm danh từ địa phương được nhắc tới trong tài liệu này. Ví dụ, thủ phủ của Quảng Nam Dinh là Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm (xem ghi chú số [7]) được ký âm là Cacian theo cách phát âm của Ý ngữ [10].
- Bản năm 1619 do João Roiz (xem chú thích [2]) viết bằng Bồ ngữ. Ảnh hưởng của Bồ ngữ lại được thể hiện trong tài liệu này. Địa danh Kẻ Chàm ở đây lại được ghi là Cacham theo cách phát âm của Bồ ngữ. Ngoài ra còn có Nuocmả và Nuocman để ký âm Nước Mặn (xem ghi chú số [6]).
- Bản năm 1620 do João Roiz ký, được Jason Wilber chép lại (transcription) và dịch ra Anh ngữ trong luận văn Master of Arts (Thạc sĩ) (WILBER M. Jason, 2014). Tài liệu này cho biết từ năm 1619 một quyển ngữ vựng đầu tiên được các nhà truyền giáo Dòng Tên soạn thảo. Tuy nhiên nó không cho biết rõ là ngôn ngữ nào được sử dụng trong quyển ngữ vựng này. Theo Phạm Thị Kiều Ly, có cơ sở để tin rằng quyển sách này ghi lại bằng chữ quốc ngữ và dịch nghĩa sang Bồ ngữ hay La-tinh. Trong bản báo cáo của Linh mục Francisco de Pina vào khoảng năm 1622–1623, ông cho biết trước đó ông đã soạn thảo một quyển từ vựng. Như vậy có cơ sở để tin rằng quyển từ vựng nói trên là của de Pina.
Những khám phá mới này cho thấy chữ quốc ngữ có thể đã được sáng tạo từ năm 1617 chớ không phải từ 1621 như kết luận trước đây của Đỗ Quang Chính. Điều này chứng minh chữ quốc ngữ đã được sáng tạo rất lâu trước khi Alexandre de Rhodes đến Đại Việt (năm 1624) và thêm cơ sở để tin rằng Francisco de Pina là người đầu tiên.
II.2.3.b Những phân tích sâu sắc về ngữ pháp và ngữ âm học
Ngoài bốn tài liệu liệt kê bên trên (bên cạnh nhiều tài liệu khác), phần lớn quyển luận án của Phạm Thị Kiều Ly phân tích tỉ mỉ vấn đề ngữ pháp và ngữ âm học trong việc hình thành chữ quốc ngữ. Vấn đề đó nằm ngoài phạm vi của bài viết này. Tuy nhiên chúng ta có thể ghi nhận từ luận án là cách phát âm và bản mẫu tự của Bồ ngữ và Ý ngữ có ảnh hưởng lớn đến các mẫu tự quốc ngữ.
Một ví dụ là âm nh trong tiếng Việt được ghi là nh trong các báo cáo Bồ ngữ, nhưng lại được ghi là gn trong các báo cáo Ý ngữ (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018, trang 176). Cách ký âm theo Bồ ngữ đã thắng thế trong trường hợp này [11].
Một ví dụ khác, trong phần dẫn nhập cho ấn bản tiếng Việt, tác giả cho biết mùa hè năm 2019 (sau khi luận án đã được trình) cô phát hiện ra một số văn bản tiếng Ý ở thế kỷ 16 có hai âm ơ và ư như trong chữ quốc ngữ, xuất hiện lần đầu trong báo cáo của António de Fontes vào năm 1631 (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 13). Điều này gợi mở cho cô hướng nghiên cứu về nguồn gốc của hai âm ơ và ư này.
III. Những đóng góp âm thầm trong giai đoạn chữ quốc ngữ hình thành
III.1 Vai trò của người Việt
Không thể phủ nhận vai trò của người Việt trong giai đoạn đầu khi chữ quốc ngữ được sáng tạo. Đỗ Quang Chính dành trọn một chương để viết về đóng góp này (ĐỖ Quang Chính, 1972, Chương 4), trong đó ông đề cập đến các tài liệu viết tay của Igesico Văn Tín và của Bento Thiện. Nhưng trước đó tác giả nhắc đến một thiếu niên, người đã giúp A. de Rhodes học tiếng Việt.
III.1.1 Raphaël Rhodes
Trong quyển sách (de RHODES Alexandre, 1653, trang 73), Alexandre de Rhodes cho biết ông được một thiếu niên người Việt giúp học phát âm các âm điệu khác nhau của tiếng Việt trong ba tuần, dù rằng hai người không hiểu ngôn ngữ của nhau. Theo Đỗ Quang Chính (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 79–80) thiếu niên này được Alexandre de Rhodes rửa tội với tên thánh Raphaël. Về sau ông trở thành Thầy giảng Raphaël Rhodes (do yêu quý de Rhodes nên ông xin mang cùng họ).
III.1.2 Igesico Văn Tín
Bức thư của Thầy giảng Igesico Văn Tín viết năm 1659, hiện lưu trữ tại Văn khố Dòng Tên La Mã, dài hai trang giấy khổ 17×25 cm (nhỏ hơn khổ giấy A4 một chút), gửi Linh mục Filippo de Marini, một giáo sĩ Dòng Tên đến Đàng Ngoài năm 1647 và bị trục xuất năm 1658 (VÕ Long Tê, 1965). Nội dung bức thư hỏi thăm và tường trình tình hình bổn đạo ở Đàng Ngoài.
III.1.3 Bento Thiện
Bức thư của Thầy giảng Bento Thiện năm 1659 cũng gửi cho Linh mục Filippo de Marini, dài hai trang giấy khổ 21×31 cm, kể về tình hình các giáo sĩ và bổn đạo. Bức thư này được Hoàng Xuân Hãn phát hiện và công bố vào năm 1959 (HOÀNG Xuân Hãn, 1959).
Một bài dài về sử ký, địa dư, và phong tục nước ta do Bento Thiện viết tay năm 1659, gửi cho Filippo de Marini để giáo sĩ này viết sách Historia et relatione del Tunchino năm 1665 (HOÀNG Xuân Hãn, 1959, trang 109). Đỗ Quang Chính đăng lại nguyên văn tập tài liệu này để cho thấy Bento Thiện hiểu biết khá nhiều về văn học và xã hội Việt Nam (ĐỖ Quang Chính, 1972, trang 108–129).
III.1.4 Filippe Bỉnh
Vì Đỗ Quang Chính giới hạn nghiên cứu của mình trong giai đoạn từ 1620 đến 1659 nên ông không nhắc đến các tài liệu của Linh mục người Việt Filippe Bỉnh (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 271; THANH LÃNG, 1961, trang 29). Ông sinh năm 1759 tại Hải Dương, thụ phong linh mục năm 1793. Trong 37 năm, từ 1796 đến 1833, ông cùng các anh em đồng tu thu thập và sao chép các từ điển và tác phẩm về lịch sử Việt Nam và về cuộc đời các thánh.
Phạm Thị Kiều Ly cho biết Thư viện Vatican chứa 41 tập tài liệu viết tay (mỗi tập có từ 500 đến 700 trang) liên quan đến Đàng Ngoài và Đàng Trong, 33 trong số đó do Filippe Bỉnh biên soạn. Đa số các văn bản này được viết bằng chữ quốc ngữ, số còn lại bằng chữ Bồ và chữ Hán. Các tài liệu quan trọng này cho thấy sự phát triển của chữ quốc ngữ trong thế kỷ 19.
III.2 Vai trò của người Nhật
Tỉnh Dòng Nhật Bản, được hình thành từ giữa thế kỷ 16, đến đầu thế kỷ 17 trở thành tỉnh dòng lớn nhất Châu Á, bao gồm cả Trung Hoa và Việt Nam, đặt trụ sở tại Macao. Tuy nhiên, đến năm 1612 Mạc phủ Tokugawa ra sắc lệnh cấm đạo và đến năm 1614 các giáo sĩ phương Tây bị trục xuất. Bảy mươi ba giáo sĩ Dòng Tên sang Macao lánh nạn. Từ đó họ cùng với các giáo sĩ Dòng Tên đang cư trú tại Macao chuyển việc truyền giáo sang Đại Việt (Đàng Trong), trong số đó có Francisco de Pina như phần trên đã đề cập. Ông đã học được từ Joam Rodriguez cách phiên âm tiếng Nhật bằng ký tự La-tinh.
Francisco de Pina cũng như nhiều nhà truyền giáo khác đặt chân đến Đại Việt qua ngã Hội An. Nơi đây có khu phố Nhật Bản được Chúa Nguyễn trao quyền tự trị. Có nhiều tư liệu đưa ra những con số khác nhau về số người Nhật sinh sống ở đây vào đầu thế kỷ 17, nhưng ít nhất là 200–300 người (FUKUDA Yasuo, 2016), trong số họ có một số nhà truyền giáo Nhật chạy trốn sự đàn áp của chính quyền Mạc phủ. Đáng chú ý là từ năm 1615 đến 1621 có 14 giáo sĩ đến Đàng Trong, nhiều nhất là giáo sĩ người Bồ Đào Nha (7 người), tiếp theo là Nhật (4 người gồm các giáo sĩ Miguel Maki, José Tsuchimochi, Paulo Saito, và Romão Nishi). Các giáo sĩ Nhật này rất thông thạo tiếng La-tinh. Bên cạnh đó có hai người Nhật đi theo giúp việc cho họ.
Theo Fukuda, chính những giáo sĩ và cộng tác viên người Nhật này, cùng với các cư dân Nhật tại Hội An, là cầu nối để các giáo sĩ phương Tây giao tiếp với người Việt bằng tiếng Việt, chữ Hán, tiếng Nhật, và tiếng La-tinh. Fukuda suy đoán rằng ban đầu khi Francisco de Pina học tiếng Việt, ông dựa vào người Việt biết chữ Hán để dịch các từ Việt ra chữ Hán, rồi nhờ một giáo sĩ Nhật biết chữ Hán và La-tinh để thông dịch những từ này sang tiếng La-tinh, để rồi từ đó Francisco de Pina dịch ra Bồ ngữ. Vì vậy, theo Fukuda, sự hỗ trợ của người Nhật đã đóng góp vào sự ra đời của chữ quốc ngữ.
IV. Chữ quốc ngữ thời Pháp thuộc
IV.1 Chữ quốc ngữ lan rộng ra ngoài phạm vi nhà thờ
IV.1.1 Ở Nam Kỳ
Trước khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường) năm 1858, chữ quốc ngữ chỉ được dùng trong giáo hội. Các giáo sĩ phương Tây dùng nó để học tiếng Việt và các giáo sĩ người Việt dùng nó để liên lạc với nhau và với các giáo sĩ phương Tây. Khi người Pháp mở trường học ở Nam Kỳ, việc giảng dạy chữ quốc ngữ bắt đầu.
Theo Revue Maritime et Coloniale (Tạp chí Hàng hải và Thuộc địa) của Bộ Hàng Hải và Thuộc Địa Pháp (Ministère de la Marine et des Colonies, 1865), Collège des interprètes français (Trường Thông Ngôn Pháp) được thành lập nhằm dạy chữ quốc ngữ cho người Pháp (lúc đó gọi là ngôn ngữ Việt được viết bằng ký tự La-tinh). Tạp chí không ghi rõ năm thành lập của trường. Trang 304 cũng đăng tin về nghị định ký ngày 21 tháng 9 năm 1861 về việc thành lập École de l’Évêque d’Adran (Trường Giám Mục Hiệu Toà Adran, tên đặt theo chức của Giám mục Bá Đa Lộc tức Pigneau de Béhaine) [12]. Đến năm 1864 lại có nghị định mở các trường tiểu học ở nhiều nơi, với đội ngũ giảng dạy là những người đã học ở hai trường nói trên. Từ đó chữ quốc ngữ bắt đầu lan rộng ra quần chúng, kể cả những người không phải là giáo dân.
IV.1.2 Ở Trung kỳ và Bắc kỳ
Ở Trung và Bắc Kỳ, từ năm 1898 chữ quốc ngữ bắt đầu trở thành một phần bắt buộc trong kỳ thi Hương (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 320) (xem Hình 3). Trước đó không lâu, người Pháp thiết lập trường Hậu Bổ dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ cho những viên chức hành chánh tương lai (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 319). Sau kỳ thi Hương [13] cuối cùng ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1919, nền Hán học và cách thi cử cũ chính thức cáo chung.
IV.2 Vai trò của báo chí
IV.2.1 Gia Định báo và vai trò của Trương Vĩnh Ký
Sự ra đời của Gia Định báo, tạp chí định kỳ đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, đánh dấu một bước phát triển mới của thứ chữ viết này [14]. Trang 400–402 của quyển (NGUYỄN Văn Trung, 2014) cho biết hiện còn nhiều nghi vấn về năm ra đời và năm đình bản của tờ báo, tuy có nhiều cơ sở để tin rằng số báo đầu tiên được phát hành vào tháng 4 năm 1865. Theo Phạm Thị Kiều Ly, tờ báo phát hành số đầu tiên vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 323), ban đầu ra mỗi tháng một số, về sau mỗi tuần một số. Tờ báo lần lượt được đặt dưới quyền điều khiển của các “Chánh Tổng Tài” (Rédacteur en chef, Editor in Chief, Tổng Biên Tập) Ernest Potteaux, Trương Vĩnh Ký, Diệp Văn Cương, và Bonet.
Ban đầu Gia Định báo chỉ có hai mục lớn: công vụ và tạp vụ. Phần công vụ đăng các nghị định và sắc lịnh của chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ. Phần tạp vụ dành cho tin tức về kinh tế, tôn giáo, và thể loại khác. Từ khi Trương Vĩnh Ký được giao quyền chánh tổng tài từ tháng 9 năm 1869, ông đã lập thêm mục văn hoá để bàn về văn chương và đạo đức. Cùng với Paulus Huỳnh Tịnh Của và Trương Minh Ký, ông đã dần dần thay đổi tờ báo, phổ biến sử dụng chữ quốc ngữ qua việc thúc đẩy kiến thức mới bằng các bài viết về các tác phẩm văn học Việt Nam, thơ ca, tục ngữ.
Cũng cần nhắc đến việc Petrus Ký và Paulus Của phiên âm các truyện cổ tích và truyền thuyết của Việt Nam ra chữ quốc ngữ, dịch sang tiếng Pháp. Ngoài ra Petrus Ký còn xuất bản sách đạo đức, địa lý, và lịch sử cho học trò. Việc xuất bản từ điển và sách văn phạm cũng là những đóng góp quan trọng của hai ông trong việc truyền bá chữ quốc ngữ. Năm 1883, Trương Vĩnh Ký xuất bản Grammaire de la Langue Annamite (Văn phạm tiếng Việt), năm 1887 ông xuất bản Vocabulaire Annamite–Français (Ngữ vựng Việt–Pháp). Năm 1895, Huình Tịnh Của xuất bản Dictionnaire annamite (Đại Nam quấc âm tự vị). Như đã đề cập trong phần Ngữ học truyền giáo I.3.2, việc soạn từ điển và sách văn phạm là những đóng góp quan trọng trong tiến trình La-tinh hóa tiếng Việt và phổ biến thứ chữ viết này [15].
IV.2.2 Những tờ báo khác
IV.2.2.a Ở Nam kỳ
Thông khoá loại trình là một loại sách giáo khoa do Trương Vĩnh Ký biên soạn. Một số tờ báo quốc ngữ khác cũng được người Việt đứng lập như: Nhựt Trình Nam Kỳ (1897), Phan Yên Báo (1898), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Lục Tỉnh Tân Văn (1907). Kim Vân Kiều Truyện của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng được Trương Vĩnh Ký phiên âm từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ.
IV.2.2.b Ở Trung và Bắc kỳ
Đăng Cổ Tùng Báo (1907) là tờ báo tư nhân đầu tiên bằng chữ quốc ngữ (và chữ Hán) ở Bắc kỳ. Tờ báo này gắn liền với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Nguyễn Văn Vĩnh đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến chữ quốc ngữ qua việc xuất bản Đông Dương Tạp Chí. Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn là những học giả xuất sắc đóng góp cho tờ báo này. Bên cạnh đó, Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác dùng tờ Nam Phong Tạp Chí để phổ biến văn chương và khoa học.
V. Vì sao chữ Nhật La-tinh hoá không được thông dụng?
Trong số ba ngôn ngữ Á châu Trung Hoa, Nhật, và Việt Nam, tiếng Nhật là tiếng nói ít gây khó khăn nhất cho các nhà truyền giáo Dòng Tên, vì hệ thống thanh điệu của ngôn ngữ này đơn giản hơn so với tiếng Việt và Hoa (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018, trang 43). Ngay từ giữa thế kỷ thứ 16, trong khoảng những năm 1564 đến 1567, sách văn phạm đã được biên soạn. Đến năm 1585 từ điển Nhật–Bồ được biên soạn. Vì đây là những tài liệu viết tay được sao chép không cẩn thận, có nhiều lỗi, François Xavier quyết định in và xuất bản những quyển sách được soạn thảo. Từ đó các quyển Vocabulario da lingoa de Iapam (Từ vựng tiếng Nhật), tác giả vô danh, và Arte da lingoa de Iapam (Ngữ pháp tiếng Nhật) của João Rodriguez được xuất bản; xem (PHẠM Thị Kiều Ly, 2018, trang 45). Các giáo sĩ Dòng Tên nói trên đã tạo bước tiến rõ rệt trong việc La-tinh hoá cách viết tiếng Nhật (chữ romaji).
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, cho tới nay hệ thống chữ viết này không phải là hệ thống chữ viết chung của cả quốc gia Nhật Bản. Vì sao? Một lý do quan trọng có lẽ là việc thiếu một quyết định hành chánh từ chính quyền trung ương (trong trường hợp của Việt Nam là chính quyền thuộc địa Pháp). Phải chăng một lý do khác là do trong thời kỳ canh tân đất nước, Nhật Bản đã không có một nhà bác ngữ học tầm cỡ để giúp nâng cao hệ thống chữ viết này? Trong trường hợp của Việt Nam với chữ quốc ngữ, nhân vật lịch sử quan trọng này là Petrus Trương Vĩnh Ký.
VI. Đâu là cái nôi của chữ quốc ngữ?
Câu hỏi cuối cùng mà chúng tôi muốn đặt ra là chữ quốc ngữ ra đời tại nơi nào. Trong suốt bài viết này, có ba địa điểm được nhắc tới nhiều nhất: Hội An, Thanh Chiêm, và Nước Mặn. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Hội An và Thanh Chiêm là nơi chữ quốc ngữ được sáng tạo, với lý do Hội An là nơi cư sở (nhà thờ) đầu tiên được thành lập vào năm 1615 (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024) và Thanh Chiêm là dinh trấn của Quảng Nam thời đó, nơi quy tụ nhiều văn nhân thức giả, những người có thể giúp các giáo sĩ học tiếng Việt (HUỲNH Văn Mỹ & BẢO Trung, 2014). Đài VOA Tiếng Việt đã làm một phim tài liệu để xác nhận Dinh Trấn Thanh Chiêm là nơi khai sinh chữ quốc ngữ (VOA Tiếng Việt, 2017).

Bài báo trên Tuổi Trẻ Online trích dẫn bên trên cũng nêu ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng Nước Mặn mới là nơi chữ quốc ngữ ra đời. Bài báo trích dẫn lời của ông Trần Đình Trắc (cựu giảng viên Trường Sư Phạm Quy Nhơn trước năm 1975) cho biết năm 1972 ông cùng một số nhân sĩ trí thức ở Bình Định đã trình Hội Đồng Cố Vấn Giáo Dục của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để xin xây dựng công trình và dựng tượng Alexandre de Rhodes để đánh dấu vai trò của Nước Mặn trong việc khai sinh chữ quốc ngữ. Vì tình hình xã hội bất ổn do chiến tranh, đề án không được tiến hành. Hiện nay ở Nước Mặn có bia ghi nhận chi tiết lịch sử này (VÕ Đình Đệ, 2022).

Để thử tìm câu trả lời, chúng tôi dựa vào những tài liệu cổ mà Đỗ Quang Chính và Phạm Thị Kiều Ly phát hiện để thiết lập bản niên giám sau đây:
| Năm | Sự kiện liên quan đến các nhà truyền giáo | Sự kiện liên quan đến chữ quốc ngữ |
| 1615 | Francesco Buzomi, Diego Carvalho, và António Dias đến Đàng Trong, xây nhà thờ (cư sở) ở Hội An | |
| 1617 | Francisco de Pina đến Hội An | Chữ quốc ngữ đầu tiên được ghi nhận trong văn bản xưa nhất được tìm thấy hiện nay. Bản này được viết bằng Bồ ngữ, chỉ có một chữ Chuua. |
| 1618 | F. de Pina đến Nước Mặn. Cư sở tại đây được thành lập. | |
| 1619–1620 | F. de Pina soạn xong cuốn từ vựng đầu tiên | |
| 1620 | F. de Pina trở lại Hội An | |
| 1620–1623 | F. de Pina tiến hành soạn một cuốn ngữ pháp ngôn ngữ Đàng Trong (không rõ ông đã hoàn thành chưa) | |
| 1623 | F. de Pina đến Thanh Chiêm, ở tại cư sở (nhà thờ) Phước Kiều | |
| 1624 | Alexandre de Rhodes đến Đại Việt (Đàng Trong) và học tiếng Việt với F. de Pina | |
| 1625 | F. de Pina từ trần |
Dựa vào niên biểu trên, nếu xem việc hoàn thành một quyển từ điển là chỉ dấu của sự ra đời của chữ quốc ngữ thì đó là thời gian từ 1619 đến 1620. Francisco de Pina sống ở Nước Mặn trong thời gian này. Vì vậy chúng tôi nghiêng về giả thuyết Nước Mặn chính là cái nôi của chữ quốc ngữ. Sau đó có lẽ là Hội An (khi F. de Pina soạn quyển ngữ pháp), rồi đến Thanh Chiêm.
VII. Kết luận
Chữ quốc ngữ là cách ký tự tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh. Đây thành quả của nhiều người, đầu tiên là linh mục người Bồ Đào Nha Francisco de Pina cùng với các linh mục António de Fontes, Gaspar do Amaral, António Barbosa, và Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó là sự đóng góp của người Việt và người Nhật trong việc giúp các giáo sĩ học tiếng Việt. Alexandre de Rhodes đã có công tổng hợp công trình của những người đi trước ông và cho xuất bản quyển từ điển Việt–Bồ–La, trong đó có kèm quyển văn phạm mô tả vắn tắt về tiếng Đàng Ngoài.
Việc Pháp chiếm Nam kỳ mở đầu cho việc phổ biến chữ quốc ngữ ra ngoài phạm vi nhà thờ. Nền giáo dục Hán học cáo chung năm 1919 khi kỳ thi Hương cuối cùng được tổ chức ở Trung kỳ. Từ đây việc giáo dục chữ quốc ngữ được mở rộng trên phạm vi cả nước. Các sĩ phu người Việt sớm nhận thức được tiện ích của chữ quốc ngữ trong phổ biến văn hoá đã góp phần thúc đẩy sự quảng bá của thứ chữ này. Công đầu có lẽ là của Trương Vĩnh Ký. Các công trình dịch thuật và biên soạn của ông đã góp phần rất lớn vào việc phát triển và quảng bá chữ quốc ngữ. Từ năm 1945, chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của quốc gia.
VIII. Tài liệu tham khảo
AUROUSSEAU Léonard. (1924). Sur le nom de Cochinchine. Bulletin de l’École Française d’Extrème-Orient, XXIV(3–4), 563–579.
BONIFACY. (1931). Relation de la nouvelle mission au royaume de la Cochinchine (Traduction et annotation du Lieut.- Col. BONIFACY ). Bulletin Des Amis Du Vieux Hué, No 3-4, 279–402.
BÙI Thị Minh Thùy. (2021). Từ điển Việt–Bồ–La và các cứ liệu liên quan. Nhà Xuất Bản Tôn Giáo.
CADIÈRE Léopold. (1931). Lettre du Père Gaspar LUIS sur la Concincina (annotations par L. Cadière). Bulletin Des Amis Du Vieux Hué, No 3-4, 409–432.
CAROLINO Luís Miguel. (2007). Cristoforo Borri and the epistemological status of mathematics in seventeenth-century Portugal. Historia Mathematica, 34(2), 187–205. https://doi.org/10.1016/j.hm.2006.05.002
de LACROIX Antoine. (1631). Relation de la nouvelle mission des pères de la compagnie de Jésus au royaume de la Cochinchine. Jean Hardy Imprimeur & Libraire.
de RHODES Alexandre. (1653). Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine & autres royaumes de l’Orient, avec son retour en Europe par la Perse & l’Armenie. Imprimeur ordinaire du Roy & de la Reyne (https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b8607026z/f5.item).
ĐỖ Quang Chính. (1972). Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ. Tủ Sách Ra Khơi, Saigon.
ĐỖ Quang Chính. (2011, June 1). Tu sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes từ trần. Trang Nhà Của Dòng Tên Việt Nam, Tỉnh Dòng Phanxicô Xaviê. Truy Cập Ngày 19/03/2025. https://web.archive.org/web/20191207012251/https://dongten.net/2011/06/01/tu-si-dong-ten-alexandre-de-rhodes-tu-tran/
FUKUDA Yasuo. (2016, March 15). Người Nhật có liên quan sâu sắc tới quá trình thiết lập phiên âm tiếng Việt bằng ký tự Latin. Trần Đức Anh Sơn’s Cultural History and Scholarship Blog (Truy Cập Ngày 5 Tháng 4 Năm 2025). https://anhsontranduc.wordpress.com/2016/03/15/nguoi-nhat-co-lien-quan-sau-sac-toi-qua-trinh-thiet-lap-phien-am-tieng-viet-bang-ky-tu-latin-%e3%83%99%e3%83%88%e3%83%8a%e3%83%a0%e8%aa%9e%e3%83%ad%e3%83%bc%e3%83%9e%e5%ad%97%e8%a1%a8%e8%a8%98/
GAUDIO Andrew. (2019). A Translation of the Linguae Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio. Journal of Vietnamese Studies, 14(3), 79–114.
HOÀNG Xuân Hãn. (1959). Một vài văn-kiện bằng quốc-âm tàng-trữ ở Âu-châu. Đại Học (Tạp Chí Nghiên Cứu Viện Đại Học Huế), 10, 108–119.
HUỲNH Văn Mỹ, & BẢO Trung. (2014, April 21). Đâu là ‘chiếc nôi’ chữ quốc ngữ? . Báo Tuổi Trẻ Online. https://tuoitre.vn/ky-cuoi-dau-la-chiec-noi-chu-quoc-ngu-603691.htm (Truy cập ngày 29.4.2025)
JACQUES Roland. (1995). L’oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en 1650 [Mémoire de Diplôme d’Études Approfondies]. INALCO.
JACQUES Roland. (1998). Le Portugal et la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire? Revue Française d’histoire d’outre-Mer, 85(318), 21–54.
JACQUES Roland. (2002). Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650 (Pionniers portugais de la linguistique vietnamienne). Orchid Press, Bangkok.
LÊ Ngọc Trụ. (1961). Chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX. Việt Nam Khảo Cổ Tập San, 192–193.
Ministère de la Marine et des Colonies. (1865). Revue maritime et coloniale (Mai 1865). https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k34724g/f1.item
NGUYỄN Khắc Xuyên. (1959). Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ. Văn Hóa Nguyệt San, 39, 167–177.
NGUYỄN Khắc Xuyên. (1960). Chung quanh vấn đề chữ quốc ngữ: Chữ quốc ngữ vào năm 1645. Văn Hóa Nguyệt San, 48, 1–14.
NGUYỄN Văn Trung. (2014). Hồ sơ về Lục Châu Học. Nhà Xuất bản Trẻ.
O’NEILL Charles E., & DOMÍNGUEZ Joaquín M. (Eds.). (2001). Diccionario Histórico de la Compañía de Jesús: Biográfico-Temático. Institutum Historicum Societatis Iesu.
PHẠM Thị Kiều Ly. (2018). La gramatisation du vietnamien (1615-1919): histoire des grammaires et de l’écriture romanisée du vietnamien [Thèse de doctorat en Sciences du langage]. Université Sorbonne Nouvelle.
PHẠM Thị Kiều Ly. (2022). Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919). Les Indes savantes.
PHẠM Thị Kiều Ly. (2024). Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ (1615–1919). Công ty Sách Omega Việt Nam.
PHAN Khoang. (1969). Việt Sử: Xứ Đàng Trong 1588–1777. Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam. Nhà sách Khai Trí, Saigon.
PINKERTON John. (1811). A general collection of the best and most interesting VOYAGES and TRAVELS in all parts of the world (Vol. 9, pp. 772–828). Longman.
THANH LÃNG. (1961). Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ. Tạp Chí Đại Học, Viện Đại học Huế, Số 1, Tháng 2, 6–36.
THANH LÃNG, HOÀNG Xuân Việt, & ĐỖ Quang Chính. (1991). Từ điển Annam–Lusitan–La Tinh (Alexandre de Rhodes). Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội Tp Hồ Chí Minh.
VÕ Đình Đệ. (2022, September 27). Nước Mặn – Nơi có duyên nợ với Đức Cha Lambert. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nuoc-man-noi-co-duyen-no-voi-duc-cha-lambert-46548
VÕ Long Tê. (1965). Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam (Vol. 1). Nhà Xuất Bản Tư Duy Sài Gòn.
VOA Tiếng Việt. (2017). Nhà thờ Phước Kiều, nơi được xem là cái nôi của chữ quốc ngữ [Video recording]. https://www.voatiengviet.com/a/4160976.html (Truy cập ngày 29.04.2025.)
WILBER M. Jason. (2014). Transcription and Translation of a Yearly Letter from 1619 Found in the Japonica Sinica 71 from the Archivum Romanum Societatis Iesu [Master of Arts Thesis]. Brigham Young University.
Chú thích
[1] INALCO: Institut National des Langues et Civilisations Orientales, Học Viện Quốc Gia về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương tại Pháp quốc.
[2] João Rodriguez còn được biết đến dưới các tên João Rodrigues, João Roiz, Joam Roiz Giram (O’NEILL Charles E. & DOMÍNGUEZ Joaquín M., 2001; PHẠM Thị Kiều Ly, 2018).
[3] Vào thế kỷ thứ 16–17, Macao (dưới quyền cai trị của Bồ Đào Nha) là trụ sở trung ương của Tỉnh Dòng Nhật Bản. Dòng Tên ở Đại Việt và Trung Hoa cũng trực thuộc Tỉnh Dòng Nhật Bản, vì vậy các giáo sĩ ở Đại Việt phải báo cáo trực tiếp về Macao.
[4] Theo Võ Long Tê (VÕ Long Tê, 1965, trang 90), giáo sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar de Santa thuộc Dòng Đa Minh (Dominic) là người đầu tiên đến giảng đạo ở Đại Việt. Đó là vào năm 1550 tại Hà Tiên, dù rằng vùng đất này chưa chính thức thuộc Đại Việt. Ngoài ra, cũng trong thế kỷ thứ 16, các cố đạo dòng Phan Sinh (dòng Francisco, do Thánh Phanxicô sáng lập) đã đến Đàng Trên diện kiến chúa Mạc, nhưng các hoạt động truyền giáo không được ghi nhận (PHẠM Thị Kiều Ly, 2024, trang 78).
[5] Đỗ Quang Chính dựa vào các tài liệu sau đây để ghi lại tiểu sử của F. de Pina: 1) Antonio de Fontes, Annua da Misam de Annam, viết tại Hội An ngày 1 tháng 1 năm 1626; 2) D. Bartoli, Dell’ Historia della Compagnia di Giesu, la Cina, Terza Parte, Roma, 1663.
[6] Nước Mặn là một thị trấn ở phía Bắc của Quy Nhơn, cách Quy Nhơn gần 20km, nay thuộc xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
[7] Theo chú thích của Bonifacy trong (BONIFACY, 1931, trang 286) Thanh Chiêm, Kẻ Chàm, Ca Chàm là biến thể của chữ Cổ Chàm hay Cổ Chiêm, ám chỉ là đất xưa của Chiêm Thành. Thanh Chiêm, cách Hội An về phía Tây khoảng 7 km, nay thuộc huyện Điện Bàn, Quảng Nam.
[8] Có nhiều tài liệu trên internet về đề tài này. Chúng tôi trích dẫn tài liệu sau đây của báo Tuổi Trẻ, truy cập ngày 20.03.2025: https://www.youtube.com/watch?v=mrQnoyyau80 hay https://tuoitre.vn/video/di-tim-loi-giai-cho-bi-mat-mo-co-o-nha-tho-phuoc-kieu-60356.htm.
[9] Các tài liệu cũ ghi ông sinh năm 1591, nhưng theo các nghiên cứu mới ông sinh năm 1593 (Wikipedia https://en.wikipedia.org/wiki/Alexandre_de_Rhodes, truy cập ngày 19.3.2025).
[10] Trong tiếng Ý, phụ âm c khi đứng trước nguyên âm a thì phát âm như k, khi đứng trước nguyên âm i thì phát âm như ch.
[11] Lúc nhỏ chúng tôi được học là nhiều từ trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Pháp. Ví dụ chữ xà bông là từ chữ savon. Lúc đó chúng tôi thắc mắc không hiểu vì sao âm v trong Pháp ngữ lại biến thành b trong Việt ngữ. Sau này chúng tôi được biết trong Bồ ngữ, xà bông được viết là sabão với cách phát âm rất giống với chữ xà bông. Quý độc giả có thể tìm hiểu thêm về điều này bằng Google Translate.
[12] Cơ sở của trường Adran nay là Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
[13] Thi Hương là một trong ba kỳ thi dưới chế độ quân chủ để tuyển chọn nhân tài. Dưới triều Nhà Nguyễn, có nhiều trường thi trong cả nước (Hà Nội, Nam Định, Huế, Gia Định). Kỳ thi gồm bốn vòng (tứ trường), người đậu ba vòng (tam trường) được gọi là Tú Tài, đậu bốn vòng (tứ trường) là Cử Nhân. Người đậu Cử Nhân được về kinh đô Huế để dự Thi Hội và Thi Đình, tuyển lấy Tiến Sĩ và Phó Bảng. Kỳ thi Đình được tổ chức ngay trong cung điện của vua.
[14] Theo Nguyễn Văn Trung (NGUYỄN Văn Trung, 2014, trang 398–399) vào năm 1960 báo Đuốc Nhà Nam tại Sài Gòn có đăng bài của Ngọa Long trong đó có trích dẫn ghi nhận của Đào Trinh Nhất rằng thời vua Minh Mạng người Việt ở Thái Lan đã ra tờ báo bằng chữ quốc ngữ. Nếu đúng như vậy thì đây mới là tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Rất tiếc tác giả Ngọa Long không cho biết Đào Trinh Nhất viết vấn đề này ở báo nào, còn Đào Trinh Nhất cũng không cho biết ông dựa vào đâu để đưa ra nhận xét trên. Nguyễn Văn Trung cho biết ông không tìm thấy vết tích của tờ báo nói trên.
[15] Quý độc giả các thể tìm đọc các trước tác của Trương Vĩnh Ký tại trang nhà của Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký, Úc Châu (https://petruskyaus.net/petrus-ky-tac-pham/).





