XX

HÁT BỘI VỀ LÀNG

Tiền Vĩnh Lạc

Hôm đó, mới năm giờ chiều, cả xóm chợ An Nhơn nghe tiếng trống chầu “thùng!… thùng!… thùng!…”. Cái trống chầu để trước trường học, ngay đầu ngõ vô rạp hát An Nhơn. Bên cạnh có để mấy tấm tranh, trong đó có một tấm vẽ hình hai ông kép đang đánh nhau, một ông mặt đỏ cầm thương, ông kia mặt rằn có hàm râu quai nón đen hù, dễ sợ, cầm đại đao.

Tiếng trống vừa trổi lên thì mấy đứa con nít chạy u tới để coi đánh trống và coi mấy tấm hình hát bội, rồi bàn nhau “về xin tiền má, tối nay đi coi hát!”

Ở nhà ông nội mấy con, cô Năm nghe tiếng trống đã nôn nao, nấu cơm, ăn sớm. Cô Năm biểu ba chạy xuống nhà cô Năm Xây để rủ cổ đi coi hát. Cô Năm Xây đồng ý liền. Ba trở về nhà đã thấy cô Năm Thái, nhà ở phía bên kia đường, ngay đầu hẻm vô nhà ông nội mấy con, đang qua rủ cô Năm mấy con đi coi hát! Ba chị em bạn này rất thân nhau, thường rủ nhau đi ra Sài Gòn mua hàng, mua giày và chụp hình ở Photo Mỹ Lai, đường Bonard, tức là đường Lê Lợi bây giờ. Ngộ cái là cả ba cô đều thứ năm: Năm Nu, Năm Xây và Năm Thái.

Cái rạp hát An Nhơn này nhỏ xíu, nằm chen giữa nhà dân, chỉ có ba căn, cột cây, lợp ngói, ở ngoài ngó vô không thấy gì ra vẻ rạp hát. Chỉ có khác là mặt tiền có xây một cái phòng bán giấy. Vậy mà hầu như tháng nào cũng có đoàn hát về, khi thì hát bội, khi hát cải lương, khi hát xiệc, hát bóng.

Bữa đó nhằm tối thứ Bảy, ba được theo cô Năm đi coi hát bội. Ba ưa coi hát bội lắm. Ba thích nhứt là nghe nhạc hát bội, càng nghe càng thấy hay, vì mỗi cảnh đều có bản nhạc diễn tả được tâm lý, tình cảm của nhơn vật đang diễn. Cảnh triều đình thì nhạc trang nghiêm, cảnh mẹ già nhớ con thì nhạc êm dịu, nỉ non, cảnh chiến trường thì nhạc dồn dập, phấn khởi, thúc giục, v.v… Nghe riết rồi quen, rồi ghiền. Thiệt tình mà nói, ba coi hát bội là để nghe đờn ca, múa hát, chớ họ la hét om sòm bằng chữ Nho, ba có hiểu gì đâu? Nhưng nhìn họ biểu diễn bằng điệu bộ, sắc mặt, giọng nói thì biết được họ muốn gì. Phùng mang, trợn mắt một hồi là có đánh nhau, chắc chắn!  Tuy nghe không rõ, không hiểu từng lời, nhưng ba cũng nắm được toàn bộ câu chuyện của vở tuồng.

Tám giờ tối mới hát, nhưng mới bảy giờ thì khu rạp hát đã rộn rịp rồi. Ngõ vô rạp hát là khoảng đất nằm giữa trường học và Công Sở, có trồng một hàng cây sao cao lớn. Dọc theo tường trường học và dài theo hàng sao, nhiều người đã dọn hàng ra bán. Hàng để trên bàn thấp, thường là hột vịt lộn, khô mực, chuối nướng, chuối sấy, mía ghim, chùm ruột muối, trái cóc, ổi, nước đá xi-rô, sữa đậu nành, chè đậu xanh, bánh tráng nướng, bánh cam, bánh chài, đậu phộng nấu, đậu phộng rang, v.v… Quan trọng nhứt là hàng cháo trắng hột vịt muối và hàng cháo vịt. Người ăn lúm xúm ngồi trên những ghế thấp kiểu “ghế ăn chè” để dọc theo mấy cái bàn cây thấp chủm. Trai trẻ quanh vùng nhơn dịp này, dầu không coi hát cũng kéo nhau ra rạp hát chơi, ăn vặt, nói chuyện với nhau rất vui vẻ.

Quang cảnh từ ngoài ngó vô coi cũng hay hay: trên mỗi cái bàn đều có để một cái đèn dầu leo lét, hàng, quà bày đủ màu sắc, người mua, kẻ bán nói chuyện xôn xao.

Trước rạp treo một cây đèn măng-sông sáng choang, đang có nhiều người sắp hàng mua giấy. Ba chị em cô Năm đã gom tiền đưa cho chị Năm Thái là người lớn hơn hết để mua giấy ngồi gần nhau. Ba dòm tấm bảng ghi giá tiền, đọc được:

              – Thượng hạng            50 xu
              – Hạng nhứt                 40 xu
              – Hạng nhì                   30 xu
              – Ngồi giàn                  20 xu
              – Trẻ em                      nửa phần tiền.

Cỡ nào là trẻ em? Tùy anh hay chị xét giấy định, cho nên thường xảy ra cãi cọ giữa người đi coi hát và người xét giấy.  

Mua giấy rồi, bốn chị em đồng bước vô rạp. Có một tấm màn lớn màu xanh dương che sân khấu. Trước tấm màn có treo một cái đèn măng-sông soi sáng khắp cả rạp. Ba để ý thấy ghế thượng hạng chỉ có 3 hàng, mỗi hàng 6 cái ghế gõ có lưng dựa, để ngay chính giữa, gần sân khấu. Ghế hạng nhứt để tiếp theo sau ghế thượng hạng. Ghế hạng nhì sắp ở hai bên. Ngoài ra là giàn, tức là những tấm ván dài đóng từng bực từ thấp lên cao, sát vách và hai bên rạp.

Bốn chị em vô ngồi ghế hạng nhứt. Cô Năm Thái nói “Mình con gái, phải nhường cho người lớn ngồi thượng hạng. Mình ngồi thượng hạng người ta nói mình làm phách”.

Trong rạp người ta nói chuyện ồn ào, trong lúc ở hậu trường ban nhạc trổi liên tục. Lại thêm mấy chị bán mía ghim, đậu phộng vừa rao, vừa chen lấn nhau để mời mọc.

– “Leng keng! Leng keng!”  Chuông rung ra hiệu sắp hát. Khán giả im bặt vài giây, rồi tiếp tục nói chuyện.

– “Leng keng! Leng keng!” “Mời mấy chị bán mía ghim, đậu phộng ra ngoài. Mấy chị còn nán lại vài phút để ai muốn mua thì lẹ lẹ lên!”

– “Leng keng! Leng keng!” Màn kéo lên. Cảnh triều đình có ngai vàng, cột rồng đầy đủ. Ban cổ nhạc tấu một bài, ba không biết bài gì, nghe hay quá.

Tiếp theo là ba hồi trống Long Phụng, rồi vua chẫm rãi bước ra, điệu bộ rất oai vệ. Vua ngồi lên ngai, sửa vạt áo cho ngay ngắn, vuốt chòm râu đen, quạt quạt mấy cái, rồi cất tiếng:

“Ngôi trời sửa trị
“Trẫm, tước hiệu Minh Vương! …

– “Thùng!” Trống chầu đánh lên một tiếng để khen kép đóng vai vua.

Hát bội có cái ngộ là mỗi nhơn vật bước ra sân khấu đều “xưng tên” để tự giới thiệu cho khán giả biết diễn viên đang đóng vai trò nào trong vở tuồng.

Ba khoái nhứt là coi mấy ông tướng từ trong cánh gà bước ra, tướng đi dũng mãnh, múa một đường thương, hoặc đao, hoặc siêu, hòa theo tiếng nhạc rộn ràng, tiếng kèn tò le thúc giục, rồi đứng trụ lại, dõng dạc xưng tên!

Cho tới anh hề đóng vai chủ quán, khi mở màn cũng tự giới thiệu:

              “Như tôi nay cất quán cheo leo mé lộ
              “Để phòng khi chi độ bộ hành
              “Cha tôi xưa vốn thiệt Quán Manh
              “Tôi nối nghiệp, đặt tên là Quán Mỏng
              “Nhà không vách cũng không có chõng
              “Có mấy cái bàn để bán cheo leo
              “Khách bước vô đủ thấy tôi nghèo
              “Xin trả tiền mặt chớ đừng ăn chịu!  

Trở lại tuồng hát bội. Lâu quá, ba không nhớ là tuồng gì, nhưng có thể tóm tắt sự tích như sau:

Dưới thời vua “Minh Vương”, trong nước đang thái bình, thịnh trị. Bỗng có giặc phương Bắc xâm lăng. Vua sai một tướng tài của triều đình cầm quân đánh giặc. Trong lúc quân, tướng triều đình kéo ra biên ải thì ở trong triều bọn gian thần làm phản, khiến vua phải bỏ kinh đô lánh nạn, được các trung thần xả thân hộ giá. Đúng là “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”, nghĩa là nhà nghèo mới biết con có hiếu, nước loạn mới biết tôi trung. Ở kinh đô xảy ra nhiều cảnh nhiễu nhương: mẹ già trông con, vợ trông chồng, bọn gian hùng được thế ức hiếp chúng dân … Nhưng rồi tướng triều đình dẹp xong giặc, trở lại kinh đô, bắt bọn gian thần trị tội, rước Hoàng Thượng hồi loan, nhân dân lại hoan ca thái bình như trước.

Chuyện chỉ có vậy mà người soạn tuồng sắp đặt rất hay, màn nào coi cũng không chán.

Ông nội mấy con ngồi nhà đọc sách, nghe tiếng trống chầu đánh thưởng liền liền, biết là ban hát bội này hát hay lắm. Đêm đó ông Hương Giáo cầm chầu. Hễ đào kép nào hát ông cho là “khá”, ông đánh một tiếng “Thùng!” Ai hát hay, ông đánh hai tiếng “Thùng!… Thùng!…” Gặp đào kép nào hát hoặc múa hay quá, hoặc lời văn hay quá, ông đánh liền ba tiếng “Thùng!… Thùng!… Thùng!…” thì thường có vài khán giả ngồi ở ghế thượng hạng hoặc hạng nhứt kẹp tiền vô cây quạt rồi thảy lên sân khấu để thưởng. Có người trong cánh gà bước ra lượm quạt, gom tiền thưởng, rồi trả quạt lại cho vị khán giả sành điệu. Nghe nói đào kép hay có khi được thưởng tới hai đồng bạc một đêm.

Có một cái lệ của hát bội cũng hay hay. Đó là khi tuồng hát gần kết cuộc, còn chừng ba bốn màn nữa, thì ban hát “thả giàn”: cửa vô rạp mở rộng, ai muốn vô coi thì vô, khỏi mua giấy. Khi thả giàn thì bọn thanh niên và trẻ con nãy giờ chơi lẩn quẩn theo mấy hàng quà lại kéo vô đứng đầy rạp.

Vãn hát, mọi người lần lượt ra về. Một số còn nán lại ăn cháo vịt, cháo trắng hột vịt muối, cháo trắng tôm khô, củ kiệu. Anh bán quán trong tuồng hát cũng ra ăn cháo, ngồi chung với anh kép chánh đóng vai tướng trung hồi nãy. Còn anh kép “Thừa Tướng” ngồi ăn hột vịt lộn mà cái mặt cũng còn thấy ghét!

Ba theo mấy chị Năm đi thẳng về nhà, không ghé ăn cháo, vì trời đã khuya lắm rồi, ai nấy buồn ngủ quá chừng.

Ban hát bội này diễn tại rạp An Nhơn bốn đêm rồi dọn đi. Sau bữa hát chót, bà con ở chợ An Nhơn xôn xao bàn tán chuyện một cô gái trong làng lén bỏ nhà theo kép hát bội. Dưới bến đò, bà Bảy bán trầu cau lại có chuyện nói với bà Ba bán cá:

– Chị Ba ơi! Chị có hay chuyện con Lành bỏ nhà đi theo kép hát bội không?

– Ối! Sáng nay ngoài chợ người ta đồn rùm, ai mà không hay. Mà con Lành là con nhà ai vậy hả chị?

– Con Lành nhà ở gần Bộng Dầu đó! Nó mồ côi cha mẹ, ở với ông Hai Minh, kêu ông Hai bằng bác đó! Con nhỏ nhu mì, dễ thương hết sức, ai dè lại trốn nhà, theo kép hát, hư thiệt là hư!

– Mà nó theo ai vậy chị Bảy?

– Nghe nói nó theo thằng Sửu.

– Thằng Sửu nào vậy chị?

– Cái thằng kép đóng vai Triệu Tử Long đó! Tối, nó giồi phấn, vẽ mặt, bận quần áo hát bội vô, đội mão coi lịch sự hết sức. Mà tiếng của nó tốt, múa hát cũng hay, không nói ra chớ nhiều đứa con gái mê nó lắm! Còn con Lành nghe nói bốn đêm nó đi coi hát đủ bốn.

– Chèn đéc ơi! Mà cái thằng kép Sửu gì đó, nó bao nhiêu tuổi, có vợ con chưa vậy hả chị Bảy?

– Ai mà biết! Mà thằng đó hả chị, ban đêm coi nó lịch sự vậy, chớ sáng ra nó xấu hoắc hà, chị Ba ơi! Sáng bữa nào tôi cũng thấy nó ra ăn cháo huyết của chú Keo, mặt mũi nó đen đúa, lại bị lác đồng tiền trên cổ nữa, vậy mà con Lành mê cái nỗi gì không biết nữa!

– Chị nhắc tới chú Keo. Mà chú Keo nấu cháo huyết ngon quá hả chị? Có hai xu một tô mà có gan, có lòng, lại có mấy miếng dầu chao quảy, để thêm mấy cọng gừng non, rắc tiêu, bỏ thêm hành lá …

– Nghe chị nói mà tôi phát thèm!

Trong lúc bà Bảy, bà Ba nói chuyện thì mấy bà, mấy chị đang chờ đò cũng bàn vô, mỗi người một câu về chuyện cô Lành theo kép hát Sửu. Một bà già thở ra, ứ hự một cái, rồi nói:

            “Trồng trầu thả lộn dây tiêu
            “Con theo hát bội, mẹ liều con hư!

Đò cặp bến, ai nấy lần lượt cắp thúng, quảy gánh xuống đò. Trời xanh ngắt, nước trong leo lẻo, chiếc đò êm đềm trôi qua phía An Lộc.

Coi hát bội quen rồi cũng ghiền lắm. Nhà ở gần rạp hát nên ba thường được đi coi hát. Có những tuồng coi đi, coi lại cũng còn hay, như mấy tuồng này:

            – Trảm Trịnh Ân
            – Thần Nữ Dưng Ngũ Linh Kỳ
            – Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu
            – Tiêu Anh Phụng Loạn Trào
            – Ngọc Kỳ Lân Xuất Thế
– v.v…

Lúc đó ba còn nhỏ xíu mà có những màn hát bội làm ba nhớ hoài. Thí dụ như cảnh một ngưới con cõng mẹ chạy giặc, băng qua một khu rừng. Bà mẹ khát nước, người con để mẹ ngồi trên một tảng đá, chạy xuống suối để lấy nước. Bà mẹ đang ngồi ca, than thở, thì trong bụi có cái đầu cọp ló ra, làm ba sợ quá! Rồi con cọp nhảy ra vồ người mẹ, tha tuốt vô rừng sâu, làm ba sợ muốn khóc luôn! Hoặc cảnh “Ngọc Kỳ Lân xuất thế”, pháo nổ một cái “đùng”, Ngọc Kỳ Lân miệng ngậm pháo bông, múa may rất ngoạn mục!

Thường thì cảnh hai tướng đánh nhau, đánh theo “quy ước” của hát bội, không phải đánh võ thiệt. Nhưng có lần ông Tám Thưa, một thầy dạy nghề võ, đóng vai Quan Vân Trường. Ông Tám Thưa hóa trang giống hệt hình “Ông” ba thấy thờ trong Chùa Ông. Ông Tám cầm Thanh Long Đao, múa một đường siêu tuyệt vời. Ông “loan” siêu nghe tiếng gió vù vù, tưởng như tên bắn cũng khó lọt vô mình ông được. Ai nấy coi đều thán phục.

Nhắc tới ông Tám Thưa, ba lại nhớ tới ông Bảy Phúc, nhà ở sau nhà ông nội mấy con, cũng là một  thầy dạy “nghề”.  Năm 1945, những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ông Bảy tập luyện võ nghệ cho đám thanh niên trong làng, thay vì chỉ tập đi “một! hai!” như nhiều làng khác.

Nói chuyện về hát bội, ba lại nhớ tới những buổi cúng đình. Có thể nói ở trong làng vui nhứt là mấy ngày Tết, kế đó là những ngày cúng đình. Đình An Nhơn lúc đó tọa lạc dưới vòm cây cổ thụ. Trước Đình có sân rộng, có trồng một hàng sao cây to, bóng mát. Bên kia đường là một khoảng đất rộng, mùa mưa trồng lúa, mùa nắng trồng thuốc lá hoặc đồ rẫy: bầu, bí, khổ qua, dưa leo, khoai mỡ, cà chua, cà tím, v.v…

Rằm tháng Tám âm lịch là ngày cúng đình. Trước đó, Ban Hội Tề cùng với vài vị tai mắt trong làng và Ban Trị Sự Hội Đình đã nhóm họp, bàn việc cúng đình.

Người ta dựng trước sân đình một cái “võ” rộng rãi, cột tre, lợp lá dừa nước, sân khấu đối diện với bàn thờ Thần, cốt ý để Thần coi hát. Trước sân khấu có sắp ghế, hai bên có đóng giàn, đủ chỗ ngồi cho vài trăm khán giả. Năm đó trúng mùa thuốc lá, tiền quỹ của Đình còn dư khá, Đình rước hát bội tới hát ba ngày, ba đêm liền.

Ngày đầu tiên là lễ “thỉnh Sắc”, tức là thỉnh “sắc lịnh” của vua Tự Đức ban năm 1852, phong Thần cho “Thành Hoàng bổn thổ”, có câu “ĐẠI CÀN QUỐC GIA NAM HẢI TỨ VỊ TÔN THẦN”, chứng tỏ Đình An Nhơn thờ bốn vị thần. Thường ngày, Sắc vẫn thờ ở Công Sở, tới ngày cúng mới thỉnh Sắc đưa về Đình. Sắc vua đựng trong một cái hộp bằng gỗ trầm, đặt trên một cái kiệu sơn son thếp vàng, hai thanh niên ăn mặc chỉnh tề khiêng xuống Đình. Có mấy vị hương chức áo dài, khăn đóng đi theo “hộ Sắc”. Đoàn thỉnh Sắc đi chẫm rãi theo tiếng trống và tiếng chiêng, cứ ba tiếng trống là ba tiếng chiêng tiếp theo:

– “Thùng!… Thùng!… Thùng!…”

– “Beng!… Beng!… Beng!…”

Dân làng nghe tiếng chiêng, trống thì biết ngày mai cúng đình, ai ai cũng sắp đặt để đi cúng và coi hát bội luôn thể.

Theo bản Lý Lịch Di Tích Đình An Nhơn thì Thần Đình An Nhơn là một bà Thái Hậu (mẹ đức vua) và ba vị công chúa gốc ở Trung Hoa. Lúc giặc Nguyên chiếm đất Trung Hoa thì các vị này chạy lạc đến biển Nam Hải vào năm 1276. Bốn vị này không chịu đầu hàng quân giặc nên đồng nhảy xuống biển trầm mình tuẫn tiết. Từ biển Nam Hải, thi thể bốn vị trôi lần qua bờ biển Bắc Trung Phần Việt Nam, cuối cùng tấp vào xã Hưng Cần, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đồng bào cư ngụ tại đây vớt bốn thi thể lên, quần áo còn đủ, chỉ mất một chiếc hài (giày), bèn tâu báo với triều đình. Vua Trần Thánh Tôn phái Khâm Sai cử hành lễ an táng rất trọng thể. Từ đó, hồn thiêng bốn vị hiển hách oai linh, nên đồng bào lập đền thờ “Đức Thánh Mẫu”. Một chiếc hài trôi lạc vào làng lân cận. Dân chúng nơi đó vớt hài lên và lập một đền thờ gọi là đền thờ “Đức Thánh Mẫu Phủ Giày”. Từ đó địa phương này có tên là “Phủ Giày”.

Từ năm 1776 đến năm 1801, chúa Nguyễn Phúc Ánh nhiều phen tẩu quốc, mượn con kinh tắt xã An Nhơn thoát nạn Tây Sơn. Đến khi lên ngôi năm 1802, vua sai vị Tổng Trấn Gia Định thành là Đại tướng Đoàn Hùng và Quận công Nguyễn Văn Trương đến lập đền thờ tại An Nhơn Xã, nơi Đức Thánh Mẫu hiển linh. Sử tích của bốn vị thần này có chép lại trên một tấm bảng sơn đỏ, chữ vàng, để trong chánh điện Đình, và có in ra phát cho khách viếng Đình.

Tối hôm thỉnh Sắc, ban hát bội hát “xây chầu”. Ba có đi coi xây chầu một lần, ba không hiểu cái gì hết, nhưng nghe tiếng trống, tiếng đờn và kèn “tò le” cũng thích!

Ba ngày cúng đình vui lắm. Trước sân đình, tràn qua bên kia đất rẫy, người ta bày bán đủ thứ quà vặt. Cũng những món ăn bình dân như hột vịt lộn, khô mực, khô hố, rượu đế, rượu thuốc, chuối nướng, chuối sấy, chuối chiên, mía ghim, chùm ruột muối, mứt chùm ruột, mứt me, trái cóc, ổi, mận, nước đá xi-rô, xá xị “Con nai”, chè đậu, bánh tráng nướng, bắp nướng, bắp nấu, đậu phộng nấu, đậu phộng rang, v.v…, không thể kể hết. Người nhà luân phiên nhau bán suốt ngày đêm vì hát bội cũng hát suốt ba ngày, ba đêm luôn.

Coi hát khỏi mua giấy, ai muốn vô coi lúc nào cũng được. Còn ghế trống thì ngồi, chỉ chừa hai hàng ghế đầu cho Ban Hội Tề và các vị nhân sĩ, hào phú trong làng. Hết ghế thì ngồi giàn, giàn chật hết thì đứng. Coi tới đói bụng thì về ăn cơm rồi trở lại coi tiếp. Người đi cúng đình, đi coi hát, tới lui nườm nượp. Cũng có người bận việc, chỉ đi cúng, không coi hát. Có thể nói không có nhà nào không đi cúng đình, vì ai cũng tin tưởng nhờ thần thánh phò hộ cho nên làng An Nhơn được thanh bình, yên ổn, ai nấy lo làm, lo ăn, ít lo trộm cướp.

Những vị chức sắc chia phiên nhau cầm chầu suốt cả ba ngày đêm. Không có điện, không có mi-cờ-rô, nên đào kép phải rán sức mà hát lớn, người cầm chầu phải thưởng chầu đúng lúc cho đào kép họ vui.

Về việc cúng đình, từ Bắc chí Nam nhiều sách vở đã tả kỹ, đầy đủ và hay lắm, nên ba chỉ nhắc sơ cho mấy con biết qua một khía cạnh đặc sắc của phong tục Việt Nam.

Trở lại cái rạp hát An Nhơn. Ngoài hát bội, đôi khi có đoàn hát cải lương về. Hát cải lương dễ hiểu hơn, ít nói chữ Nho. Lại hay có những màn “mỹ thuật” đánh phép, phi thân bay lên cao, hoặc đấu “boa-nha” (poignard), v.v… Hấp dẫn nhứt của hát cải lương có lẽ là bài ca vọng cổ! Có thể nói không có vọng cổ thì không phải là cải lương!

Ngoài hát bội và cải lương, lâu lâu cũng có đoàn xiệc “Lạc Hồng” về An Nhơn diễn. Đoàn này có nhiều màn ảo thuật rất hay. Diễn viên hầu hết là người Bắc. Ba và các bạn học của ba ưa đi coi đoàn hát xiệc này lắm.

Rạp An Nhơn cũng có “hát bóng”. Lúc đó An Nhơn chưa có điện, đoàn hát bóng này có máy đèn riêng. Chiếu phim câm, vì thời đó chưa có “hát bóng nói”, cũng chưa có phim màu. Nhơn vật trong phim đi cà giựt, cà giựt. Phim câm, nhưng có tiếng động như tiếng kèn xe hơi, tiếng xe lửa chạy xình xịt, Tây kêu là “cinéma sonore”, tức là hát bóng có âm thanh lồng vô. Cái đoàn hát bóng này nghèo quá! Chỉ có hai ba phim chiếu đi, chiếu lại. Mỗi lần tới An Nhơn hát chừng hai ba đêm, kiếm một mớ bạc cắc, rồi dọn đi êm!

Đặc biệt, có lần Đoàn Xiệc thú Tạ Duy Hiển về dựng lều ở miếng đất trống, chỗ cái đồn đất gần Gò Vắp ngó qua. Đoàn Tạ Duy Hiển này có những màn diễn thú với ngựa, voi, gấu, cọp, khỉ thật là đặc sắc. Tới màn cọp nhảy vòng lửa thì có kéo rào sắt ngăn cách chỗ thú biểu diễn và khán giả. Ông Tạ Duy Hiển mặc áo dài gấm, đội khăn đóng màu vàng, cầm roi điều khiển cho ba con cọp vừa gầm gừ, vừa nhảy qua vòng lửa cháy rực. Lại có những màn “đu bay” trên cao xem thật rùng rợn.

Người Việt Nam mình cũng ngộ, không có môn nào mà mình không học được, và làm được, chẳng kém các nước khác. Chỉ tiếc là mình nghèo quá, khó tranh đua với người …