Khát vọng biển
Ngô Nguyên Dũng
Xin gởi tới quí Thầy Cô, quí Bạn và Độc giả của trang nhà Hội Ái Hữu Pétrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu vài tấm ảnh chụp tôi và các thi văn hữu bản xứ trong buổi đọc sách tại Hội chợ sách Frankfurt 2019.
Kèm theo là một trích đoạn từ quyển tiểu thuyết Đức ngữ “Tausend Jahre im Augenblick” (Ngàn Năm trong Khoảng Khắc) được tôi phóng dịch sang Việt ngữ.
Ngô Nguyên Dũng
Vào mùa nghỉ hè năm ông bảy tuổi, trước khi giáo đường đổ chuông thánh lễ năm giờ sáng, ông được phép theo cha ra biển. Bầy hải âu liệng vòng bám theo trên không, buông tiếng oang oác. Sáng ấy, lần đầu trong đời ông hiểu ra ý nghĩa của lạc thú phiêu du tiềm ẩn trong ảnh sắc thiên nhiên tráng lệ. Trời và biển tiết tấu vào nhau thành bản giao hưởng của thời khắc. Cảnh nhá nhem tỏ dần trong cơn xuất huyết đầu ngày, từ đỏ choé đổi vàng rực. Để rồi, như một con kỳ nhông đổi sắc, mái trời chuyển xanh tía, pha sắc vàng nõn đầu trưa, chiếu rọi gương biển lấp lánh thiên thanh. Sương khói đại dương xoá mờ ranh giới địa lý trời và biển. Đất đai tuồng như liền lạc nhau. Khát vọng viễn du của cậu bé Debeauvais dần dà tượng hình, mang diện mạo, có thêm khẩu vị, mùi hương và cảm xúc. Đối với cậu bé Paul, những trải nghiệm đầu tiên ấy đều dính líu ít nhiều tới vị muối, khiến cậu về sau không nguôi nhớ về đại dương cùng những giao động của ngũ quan, sâu sắc như một cuộc hoá thân.
Trong khi làm việc, hầu như lúc nào ông Debeauvais cũng ở trần, phơi phiến ngực nạm lông vàng hoe. Gáy lưng ông vạm vỡ bò mộng, cũng đầy lông xoắn. Bắp tay phải ông xâm hình một con cá ngựa màu dâu dại tím bầm. Mỗi lần ông chuyển động cơ bắp, con cá ngựa bắt đầu cựa quậy như tìm cách thoát thân, bơi ra đại dương.
“Sau này qua đời, ba nhớ để lại cho con con cá ngựa nghe?” đã có lần Paul buột miệng hỏi, khiến ông Debeauvais không khỏi bối rối.
“Lẽ đương nhiên, mon fils, con sẽ nhận được miếng da có hình xâm con cá ngựa sau khi ba chết”, ông cười xoà, rồi giơ bàn tay chai sần xoa đầu Paul.
Có điều, Paul không mấy thích mùi mồ hôi của ông, nó hăng hắc mùi chua của rượu táo, dầu cá và hành sống. Paul nghĩ mình biết lý do tại sao, chỉ vì cha cậu rất hảo ăn món Sarde in Saor, cá mòi ngâm giấm, một đặc sản miền Venezia, ông thường ăn kèm nửa tá củ hành.
Trong chuyến chở hàng tới hải cảng Marseille, ông Antoine Debeauvais và chú thường tán gẫu những chuyện mà Paul chẳng hiểu gì cả.
“Chú mày phải thử một phát với con nhỏ Jasmin!”, ông nói, đồng thời ra dấu tay lộ liễu.
“Anh không thấy nó có vẻ gì bí hiểm sao?”
“Chẳng có gì bí hiểm hết. Thứ đàn bà á châu chúng nó là như vậy. Chú mày không thể tưởng tượng nổi thịt da của nó mềm mại như thế nào đâu. Không, không phải nhão nhoẹt như khoai nghiền, mà êm mát như một con búp bê làm bằng lụa Trung hoa, hiểu không?”
“Anh biết làm thơ từ khi nào vậy?”, chú cười lớn, rồi rít sâu một hơi thuốc vố. “Em chuộng con bé lai da đen Alisa hơn.”
“Tao thấy con nhỏ tanh rình mùi cá.”
“Anh em mình cũng vậy.” Rồi chú nói thêm, yết hầu trồi sụt nhấp nhỏm: “Cái lũ điếm tinh quái đó rặt một bầy cá tẩm dầu trầm hương mê hoặc. Mà anh em mình tính sao với thằng Paul đây?”
“Hứng không, tao với mày chơi trò bánh mì kẹp thịt với con Jasmin?”, vừa nói ông Debeauvais vừa ra hiệu bằng cách đập hai lòng tay vào nhau, rồi ông xoay qua Paul, tủm tỉm. “Còn con, con hứng chơi trò gì? Một phần bánh kem sô-cô-la được không?”
Hai người đàn ông bật cười khoái trá. Đoạn, ông Debeauvais xướng giọng tuồng một bải thánh ca đổi lời tục tĩu, được cậu em phấn khởi hoà giọng.
Khi tàu gần đến bến cảng, ông Debeauvais trỏ tay chỉ Paul xem thánh thất Notre Dame de la Garde, biểu tượng tốt lành của người dân Marseille, xây trên đỉnh đồi tít xa xa. Paul xoe mắt chiêm ngưỡng. Không dưng cậu cảm thấy ngực trái nhói đau, như có ai dùng vật cùn thốc vào. Lạ thay, cái đau gần như dịu dàng, bắt cậu thẫn thờ liên tưởng tấm ảnh vẽ thánh Sebastian bị trúng tên cắm xuyên ngực in trong tự điển bách khoa Larousse.
Khát vọng viễn du của cậu càng đậm nét, khi tàu đánh cá cột neo bến cảng Marseille, là nơi các thương thuyền từ khắp nơi đổ về. Lái buôn da trắng, á, phi, ả rập và nhiều giống dân tạp chủng gặp gỡ nhau tại đây để trao đổi và mua bán hàng hoá. Tơ lụa và đồ men từ Trung hoa. Cà phê và hạt ca-cao từ châu Mỹ la-tinh. Hương liệu từ trung đông. Đồ rèn từ bắc Phi. Cao su từ Công-gô. Gia vị và trà từ Ấn độ. Trái cây khô từ Thổ nhĩ kỳ. Và cá, cá, vô số cá cũng như nhiều loại hải sản khác. Trên không, từng bầy hải âu đói rình rập săn mồi, nhào lượn không mỏi. Một loại tạp hương lạ lẫm, trộn lẫn hài hoà, ngập ngụa không gian. Người mua kẻ bán chuyện vãn, trả giá, rao bán, la lối và cãi vã nhau bằng một thứ ngôn ngữ chợ búa.
Sau khi bán xong mẻ cá, cha và chú dẫn Paul tới một tiệm bánh nằm trong một ngõ hẹp lát đá. Bên trong thấy treo nhiều khung hình chụp các giống dân thuộc địa, có vài tấm chân dung phụ nữ phô bày ngực trần, phì phèo ống điếu. Ông Debeauvais dúi vào tay bà chủ tiệm mập phì một mớ tiền, xoay qua dặn dò Paul, ngồi ở đây chờ, muốn ăn bao nhiêu bánh tuỳ thích. Nói xong, hai người đàn ông lủi mất, như hai con thú hoang xổng chuồng.
Sau khi ngấu nghiến một lố bánh kem Petits Fours và uống xong hai ly sữa, Paul bắt đầu thấy chán. Để tránh ngủ gục, một thói xấu mà mẹ cậu, một con chiên ngoan đạo triệt để cấm đoán, cậu xin phép bà chủ tiệm, ra ngoài dạo chơi.
“Nhớ đừng đi quá nhé bé con, petit homme, và để ý coi chừng! Đây là Marseille, không giống như xứ quê mùa của cậu đâu nhé!”, bà ta căn dặn.
Marseille một xế trưa, sau khi bôi xoá lớp hoá trang tuồng hát bán buôn khi nãy, lạnh nhạt chào đón cậu bé Debeauvais. Những căn phố nhiều tầng, lợp ngói đỏ, những khung cửa sổ tô xanh da trời khép hờ, lớp sơn loang lổ, hoen tróc, những ban công trồi thụt, móc dây phơi quần áo, đối diện nhau gần đến nỗi, có thể giơ tay chạm nhau. Paul lần theo mùi tạp nhạp ban nãy, tìm ra quảng trường nhóm chợ, trước một thánh đường xây theo kiến trúc la mã cổ Byzantine. Hải âu và bồ câu tranh nhau chí choé đầu tôm đuôi cá vương vãi. Trong cái nóng trưa nắng, các lái buôn đang dọn hàng. Vài người phu quét đường lặng lẽ làm việc. Paul ngước nhìn ngôi giáo đường, thấy hai đỉnh ngọn tháp dường như chuyển động ngược hướng mây trôi. Cậu tưởng mình có thể nhận ra những nhân dạng và những diện mạo lệch lạc phô diễn nỗi đớn đau dị thường. Một nỗi thôi thúc kỳ bí thúc đẩy cậu leo lên bậc cấp, bước vào chính toà, bị choáng ngợp bởi bầu không khí trầm mặc, gần như uể oải. Chỉ thấy lác đác dăm ba người. Paul ngẩng mặt ngắm vòm mái cong lắp kính màu sặc sỡ. Luồng nắng dọi tia lạ thường, rực rỡ hấp lực, bắt cậu bước lại, ấn người cậu quì xuống. Đường nét kính hoạ tạp sắc thôi miên, dầm mình cậu trong bát thánh chan hoà ánh sáng phúc âm, thuật lại ngắn gọn toàn bộ thánh kinh. Những mẩu chuyện, mà mẹ vẫn đọc cho cậu nghe mỗi đêm một tiểu đoạn trước khi ngủ. Tâm thức cậu loé sáng một khối như chạm phải sấm sét.
Khi rời thánh đường, Paul cảm thấy như mình vừa tái sinh và cậu chợt hiểu ra, sẽ phải làm gì sau này. Phải, cậu sẽ học thành linh mục và trở thành một người truyền giáo, nhằm cứu vớt đám người khốn khổ tại những xứ thuộc địa.
Ðêm đó, sau thời kinh tối, cậu thuật lại tự sự cho bà Debeauvais và ngoan ngoãn lắng nghe bà kể chuyện về đoạn đường khổ hạnh mà thánh Sebastian đã trải qua, khiến cậu thiếu điều bật khóc. Liên tiếp những đêm sau đó, bà lặp đi lặp lại, mẹ sẽ dạy dỗ và khuyến khích con tu học thành đức hồng y, hoặc ít ra cũng là tổng giám mục địa phận Aix-en-Provence. Thay vì phản đối và thố lộ cho mẹ biết ước vọng trở thành linh mục, sẽ lìa nước Pháp, sang một xứ thuộc địa, trước tiên với mục đích hoàn thành sứ mạng truyền giáo, sau đó nhằm thoả mãn khát vọng phiêu lưu, Paul chỉ bật hỏi một câu vô vị:
“Nhưng mà, maman, rồi ai sẽ săn sóc cho ba mẹ sau này?”
“Ba mẹ sẽ có cách giải quyết”, mẹ cất giọng hờ hững.
“Hay là mẹ sinh tặng cho con một đứa em trai?” Paul nghĩ, đó là cách giải quyết tốt đẹp nhất.
“Không được đâu con”, mẹ trả lời, rồi cúi xuống hôn lên trán Paul, chúc cậu ngủ ngon và lặng lẽ bước ra. Đêm ấy mẹ không đọc cho cậu nghe đoạn kinh thánh nào cả.