Duyên Lành Của Tôi Với Tiếng Anh
Lâm Vĩnh-Thế, M.L.S.
Librarian Emeritus Viện Đại Học Saskatchewan CANADA
Từ một học sinh của Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký (1953-1960), kế tiếp là sinh viên Khóa 3, Ban Sử Địa, Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ĐHSPSG, 1960-1963), và 3 năm là học viên của Hội Việt Mỹ tại Sài Gòn (1966-1969), tôi đã học tiếng Anh, một cách chính quy, trong 13 năm. Tháng 8-1971, tôi được học bổng của USAID (United States Agency for International Development) đi du học Hoa kỳ trong gần 2 năm (từ tháng 8-1971 cho đến tháng 5-1973), và trong hai năm này, tôi đã không những thật sự học một ngành nghề hoàn toàn bằng tiếng Anh, mà còn sinh sống và làm việc trong một môi trường thuần tiếng Anh. Và sau hết, từ tháng 4-1982, tôi thật sự sống và làm việc trong một thời gian thật dài, đến 42 năm, dài hơn cả thời gian tôi sống tại Việt Nam (chỉ có 40 năm, 1941-1981), mà phần lớn là ở vị trí của một cấp chỉ huy, tại phần đất của Canada nói tiếng Anh. Bài viết này cố gắng ghi lại những gì mà, ở tuổi 83 này, tôi còn nhớ được về cái duyên lành này của bản thân tôi với tiếng Anh.
Thời Học Sinh Petrus Ký
Tôi học Trường Petrus Ký suốt 7 năm của bậc Trung Học (1953-1960) với môn Anh Văn là Sinh Ngữ 2. Nhờ năng khiếu Trời ban cho, tôi rất thích học và học có kết quả rất tốt môn sinh ngữ này, và, cũng nhờ may mắn được học với các Thầy dạy giỏi, tôi đã luôn luôn đứng đầu lớp,về môn Anh văn. Các vị sư phụ đó là: Giáo sư Đinh Xuân Thọ [1] các lớp Đệ Lục F (niên khóa 1954-1955), Đệ Ngũ F (niên khóa 1955-1956), và Đệ Tam A (niên khóa 1957-1958); Giáo Sư Nguyễn Hoàng Sang [2] lớp Đệ Tứ F (niên khóa 1956-1957); và Giáo Sư Phạm Văn Thuật [3] các lớp Đệ Nhị A (niên khóa 1958-1959) và Đệ Nhứt A1 (niên khóa 1959-1960). Sau đây là các ảnh chụp từ Thông Tín Bạ Đệ Nhứt Cấp và Thông Tín Bạ Đệ Nhị Cấp của Trường Petrus Ký cho thấy điểm thi các môn học trong các kỳ thi bán niên của Lớp Đệ Tứ F và của Lớp Đệ Nhứt A1, trong đó điểm thi môn Anh Văn của tôi là đứng đầu lớp:
Bảng điểm thi Đệ Nhứt Bán Niên Lớp Đệ Tứ F (niên khóa (1956-1957)
Bảng điểm thi Đệ Nhị Bán Niên Lớp Đệ Nhứt A1 (niên khóa 1959-1960)
Thời Sinh Viên Đại Học Sư Phạm
Trong suốt 3 năm học Trường ĐHSPSG (1960-1963), Ban Sử Địa, môn Anh Văn chỉ là một môn phụ, hệ số rất thấp, gần như không đáng kể. Nhưng thật không ngờ là bọn tôi lại có cái may mắn lớn là được học môn sinh ngữ này với Giáo sư Phan Nguyệt Minh, [4] phu nhân của Bác sĩ Nha Khoa Nguyễn Văn Thơ. Về sau, có một thời gian, Bác sĩ Thơ là Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục, và, trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa thì Giáo sư Nguyệt Minh là một Thượng Nghị Sĩ. Giáo Sư Nguyệt Minh là một trong những người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ. Bà hoàn toàn không dạy Anh ngữ theo một cuốn sách giáo khoa nào cả. Bà dành tất cả thời gian ít oi đó của môn học phụ này để hướng dẫn bọn tôi luyện giọng và tập nói tiếng Anh. Nhờ vậy, sau ba năm, tuy mỗi tuần chỉ học Anh văn có 2 giờ, bọn tôi đã nói được tiếng Anh tương đối trôi chảy với cách phát âm của người Mỹ.
Thời Học Viên Hội Việt Mỹ Tại Sài Gòn
Sau 3 năm (1963-1966) dạy học tại Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa (Bến Tre), tôi được thuyên chuyển về Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức (THKMTĐ). Vợ chồng tôi và đứa con trai đầu lòng dọn về ở chung nhà với Mẹ tôi ở Đakao, tại số 54 đường Nguyễn Phi Khanh, thuộc Quận Nhứt, Sài Gòn. Sau đó tôi bắt đầu ghi danh học Anh Văn lớp đêm của Hội Việt Mỹ tại số 55 đường Mạc Đĩnh Chi cũng thuộc Quận Nhứt, Sài Gòn. Trong 3 năm liền (1966-1969), tôi học xong tất cả 12 lớp của Hội Việt Mỹ. Cũng trong thời gian đó tôi cũng đã dự thi và đậu được Chứng chỉ English Proficiency của Đại Học Michigan (sau khi thi rớt lần đầu).
Thời Chuẩn Bị Đi Du Học Mỹ
Trong thời gian dạy học tại THKMTĐ (1966-1971), một chuyện bất ngờ xảy ra khiến cho tôi tự nguyện chuyển sang làm công tác thư viện. [5] Một buổi sáng, đầu niên khóa 1970-1971, trong giờ nghĩ, tôi vào thư viện của trường để chúc mừng anh Nguyễn Ứng Long, Thư Viện Trưởng, vì được tin là anh Long vừa mới được Chính phủ VNCH bổ nhiệm làm Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia. Tôi thật lòng nghĩ rằng anh xứng đáng nhận nhiệm vụ mới đó vì anh là một trong những người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Bằng Cao Học về Thư Viện Học (Master of Library Science = MLS, 1965) từ một trường đại học của Hoa Kỳ (Peabody College of Library Science, Vanderbilt University, tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ). Chuyện hoàn toàn không ngờ đã xảy ra là, sau khi nói chuyện với nhau được mấy phút, anh Long đã đề nghị tôi thay thế anh trông coi thư viện của trường để anh được yên tâm rời trường đi nhận nhiệm vụ mới. Cho đến ngày hôm nay, năm 2024 này, nói thật lòng, tôi vẫn không rõ tại sao tôi nhận lời đề nghị của anh Long ngay lập tức, không một chút đắn đo gì cả. Thế là tự nhiên, hoàn toàn không có tính toán gì trước cả, tôi bước vào nghề thư viện mà không có một chút kiến thức gì về cái nghề mới này cả. Sau đó, tôi được Giáo Sư Hiệu Trưởng Pham Văn Quảng gởi đi Sài Gòn học một khóa huấn luyện căn bản về công tác thư viện do Cơ quan Library Development Authority (LDA), một đơn vị của USAID, tổ chức kéo dài 3 tuần lễ. [6] Sau khóa học, tôi dành nhiều thời gian hơn cho công tác thư viện và chẳng bao lâu biến thư viện thành một trung tâm thu hút sinh hoạt học tập của học sinh. Ông John Lee Hafenrichter, Cố Vấn Mỹ đứng đầu cơ quan LDA đã đề nghị và được USAID chấp thuận cấp cho tôi một học bổng đi du học Hoa Kỳ trong hai năm để lấy bằng MLS. Tiếp đó, cơ quan LDA giới thiệu tôi đi học Anh ngữ tại 1 đơn vị của USAID phụ trách huấn luyện Anh ngữ có tên là Staff Development Center (SDC) trên đường Sương Nguyệt Anh. Tại đây, tôi được yêu cầu làm một bài trắc nghiệm (test) để xác định trình độ Anh ngữ của tôi. Đó là bài test ALIGU (American Language Institute of Georgetown University) và tôi đã vượt qua một cách dễ dàng, trả lời đúng hết cả 100 câu của bài test (điều này do chính Ông Hafenrichter nói cho tôi biết), và được SDC xếp vào ngay Lớp 6 là lớp cao nhứt của SDC. Khi vào học, tôi mới biết là tất cả các bạn cùng lớp, phần đông là sĩ quan Cảnh Sát và Quân Đội, đều đã trải qua 2-3 năm để đi từ Lớp 1 lên tới Lớp 6. Cuối khóa học, chúng tôi được gởi đi thi TOEFL (Test of English as a Foreign Language), và một số khá đông đã đậu với điểm số 500-550. Riêng tôi là học viên duy nhứt đạt điểm số trên 600, tôi không còn nhớ rõ là 612 hay 620, chỉ nhớ là điểm số này cũng do ông Hafenrichter báo cho tôi biết và ông còn nói nói thêm là nhờ điểm số TOEFL cao này nên tôi đã được một trường đại học tư lớn và có danh tiếng của Hoa Kỳ là Syracuse University nhận. [7] Về sau, tôi mới được biết thêm một chuyện hết sức bất ngờ, đối với tôi, là, trái ngược với Việt Nam, tại Hoa Kỳ, các trường đại học tư (private universities, thí dụ như Harvard, Princeton, Yale, Syracuse, vv) là lớn hơn, danh tiếng hơn, và học phí cao hơn rất nhiều so với học phí tại các trường đại học công (state universities) của các tiểu bang; xin lấy một thí dụ để minh họa: tại tiểu bang New York, Syracuse University là một trường đại học tư và học phí cho một học kỳ (full load với 5 giáo trình) vào năm 1971 là 1500 đô la trong khi tại một trường đại học công của tiểu bang, thí dụ như SUNY at Albany (SUNY = State University of New York; Albany là thành phố thủ đô của tiểu bang New York), học phí cho một học kỳ, cũng full load với 5 giáo trình, chỉ có 600 đô la.
Thời Du Học Tại Hoa Kỳ
Tôi đã học tại Trường Thư Viện Học của Viện Đại Học Syracuse (School of Library Science, Syracuse University) trong một thời gian gần 2 năm, từ tháng 9-1971 cho đến giữa tháng 5-1973, và tốt nghiệp với Bằng Cao Học về Thư Viện Học (Master of Library Science – MLS). Khi mới vào học, mặc dù điểm TOEFL của tôi đã rất cao rồi, tôi vẫn được nhà trường khuyên nên lấy 1 giáo trình Anh ngữ về đàm thoại và tôi đã chấp hành nghiêm chỉnh, và cuối khóa tôi đã đạt được điểm A cho giáo trình đó. Hệ thống lượng giá thành tích học tập bằng điểm chữ của phần lớn các trường đại học (universities) hay cao đẳng (colleges) tại Hoa Kỳ là như sau: [8]
Hệ Thống Điểm Chữ Sử Dụng Tại Các Đại Học Hoa Kỳ
Chương trình Cao Học về Thư Viện Học của Đại Học Syracuse đòi hỏi sinh viên phải hoàn tất 12 giáo trình với điểm B trở lên, và tôi đã hoàn tất Chương trình này với bảng điểm như sau:
• Giáo Trình Anh Ngữ: ENG 207 Điểm A
• 12 Giáo Trình Thư Viện Học:
° 3 Giáo Trình đạt điểm B:
– LSC 451
– LSC 452
– LSC 611
° 9 Giáo Trình đạt điểm A:
– LSC 502
– LSC 503
– LSC 506
– LSC 605
– LSC 608
– LSC 624
– LSC 630
– LSC 651
– LSC 998
Bảng Điểm (Transcript) do Phòng Học Vụ (Registrar) của Đại Học Syracuse cung cấp
Thời Xã Hội Chủ Nghĩa Tại Việt Nam
Sau khi tốt nghiệp tại Hoa Kỳ với Bằng Cao Học về Thư Viện Học vào tháng 5-1973, tôi về nước và trong hai năm, cho đến ngày 30-4-1975, tôi đã đóng góp vào việc phát triển ngành thư viện cho VNCH với tư cách Chủ Tịch Hội Thư Viện Việt Nam và Giáo Sư Trưởng Ban, Ban Thư Viện Học, Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, Viên Đại Học Vạn Hạnh. Ngày 30-4-1975 ập đến và xóa sạch những đóng góp quan trọng đó. Trong thời gian 6 năm (1975-1981) bị kẹt lại tại Việt Nam, nhờ cái vốn tiếng Anh, tôi đã có phương tiện để vượt qua cuộc sống khốn khổ về vật chất cũng như về tinh thần đó. Thứ nhứt, tôi được Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh (tức là Trường ĐHSPSG cũ) xếp vào Ban Anh Văn và phụ trách dạy Anh Văn cho các sinh viên năm thứ nhứt của các ban khác đã chọn Anh Văn làm sinh ngữ chính. Thứ hai, còn tốt hơn rất nhiều, là đi dạy Anh Văn tại tư gia cho hai loại học viên: 1) những người đang chuẩn bị vượt biên; và 2) những người đang chuẩn bị đi ngoại quốc (phần lớn là đi Canada trong chương trình đoàn tụ gia đình). Trong khi lương chính thức của tôi, với chức vụ Trưởng Phòng Thư Viện của Trường Đại Học Sư Phạm lúc đó chỉ có 74 đồng một tháng (về sau, trước khi tôi xin nghỉ để đi định cư tại Canada, tăng lên được 91 đồng), thì tôi được học viên các lớp Anh Văn tại tư gia đó trả cho 50 đồng một giờ, và như vậy là mỗi buổi học 2 giờ đã giúp tôi có thu nhập nhiều hơn cả một tháng lương tại Trường Đại Học Sư Phạm. Ngoài ra còn thêm cái tốt này nữa: học viên các lớp đó luôn luôn giới thiệu tôi cho các nhóm khác trước khi họ xuống tàu đi vượt biên hay lên đường đi định cư nước ngoài; và nhờ vậy tôi liên tục có lớp để dạy và kiếm được thu nhập tốt để nuôi sống gia đình trong thời gian chờ đợi đi định cư tại Canada. Và sau cùng ngày đó cũng đã đến cho gia đình tôi: ngày 23-9-1981, tôi mang gia đình rời Việt Nam đi định cư tại Canada do Anh Tư tôi bảo lãnh.
Thời Định Cư Tại Canada
Sang đến Canada, vì người bảo lãnh cho gia đình tôi là Anh Tư tôi, Giáo Sư Lâm Vĩnh-Tế, Tiến Sĩ Hóa Học (Ph.D. in Chemistry, Đại Học Montréal, 1967), giáo sư Trưởng Ban Hóa Học tại CEGEP Bois-de-Boulogne ở Montréal (CEGEP = Collège d’enseignement général et professionnel), gia đình tôi phải sinh sống tại Montréal, thuộc tỉnh bang Québec là tỉnh bang nói tiếng Pháp. Mặc dù được sự hỗ trợ rất tích cực của hai vợ chồng Anh Tư tôi, tôi đã không thể tìm được việc làm chuyên môn về ngành thư viện của tôi. Công việc đầu tiên tôi tìm được là một công việc làm hợp đồng trong một năm tại thành phố Ottawa, thủ đô của Canada, thuộc tỉnh bang Ontario là tỉnh bang nói tiếng Anh. Vì lý do chính đáng đó, gia đình tôi đã được Anh Tư tôi đồng ý cho phép dọn nhà về Ottawa và các con tôi bắt đầu được theo học chương trình giáo dục bằng tiếng Anh của tỉnh bang Ontario. Phần tôi thì công việc hợp đồng đó đã mở được cho tôi cánh cửa để bước vào nghề chuyên môn thư viện mà tôi đã được đào tạo trong hai năm (1971-1973) tại Trường Thư Viện Học của Viện Đại Học Syracuse.
Kể từ tháng 4-1982 cho đến nay, tháng 4-2024, tôi đã sống và làm việc 42 năm trong phần lãnh thổ nói tiếng Anh của Canada
• Từ tháng 4-1982 đến tháng 6-1997: làm việc tại các thư viện và trung tâm thông tin của Chính phủ Liên Bang Canada và Chính phủ Tỉnh bang Ontario:
• Từ tháng 7-1997 đến ngày nghỉ hưu vào đầu tháng 7-2006: làm việc cho Thư Viện của Viện Đại Học Saskatchewan
Trong thời gian hơn 10 năm (1982-1995), tôi cũng đã tham gia giảng dạy bằng tiếng Anh về Thư Viện Học, bộ môn Biên Mục Mô Tả (Descriptive Cataloging) tại hai trường đại học cộng đồng của tỉnh bang Ontario: Algonquin College tại thủ đô Ottawa (1982-1984), và Mohawk College tại thành phố Hamilton (1985-1995).
Dịch Sách Tiếng Anh Sang Tiếng Việt
Vào đầu thập niên 1990, khi Liên Xô và khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam bị buộc phải thay đổi chính sách để sống còn. Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thực hiện chính sách “Đổi Mới,” tái lập bang giao với Hoa Kỳ, và kêu gọi sự đóng góp của giới trí thức Việt Nam tại hải ngoai. Nhóm cựu thành viên Ban Chấp Hành của Hội Thư Viện Việt Nam, nhiệm kỳ 1974-1975 (mà tôi là Chủ Tịch), sinh sống tại Hoa Kỳ, đã đáp ứng lời kêu gọi này. Nhóm thành lập một hội đoàn thiện nguyện có tên là Library and Education Assistance Foundation for Vietnam (LEAF-VN) = Hội Hỗ Trợ Giáo Dục và Thư Viện Việt Nam, với mục đích giúp phát triển hệ thống thư viện cho Việt Nam. Tôi đã tham gia vào hoạt động của nhóm. Chúng tôi tiến hành dịch hai tài liệu căn bản của ngành thư viện và thông tin học sang tiếng Việt: 1) ALA Từ điển giải nghĩa Thư viện học và Tin học Anh-Việt, do Nhà xuất bản Galen Press (Tucson, Arizona, Hoa Kỳ) xuất bản vào năm 1996, gồm 278 trang; nguyên tác tiếng Anh là ALA Glossary of Library and Information Science; và, 2) Bộ quy tắc biên mục Anh-Mỹ rút gọn, 1988, do Hội LEAF-VN xuất bản vào năm 2002, gồm 289 trang; nguyên tác tiếng Anh là The Concise AACR2, 1988 Revision. Cả 2 tài liệu này đều được gởi vể Việt Nam để biếu cho cộng đồng thư viện trong nước:
Tự điển Thư Viện Học – Tin Học
Bộ Quy Tắc Biên Mục Anh-Mỹ Rút Gọn, 1988
Dịch Sách Tiếng Việt Sang Tiếng Anh
Tôi cũng tiến hành dịch từ nguyên tác tiếng Việt sang tiếng Anh cho 2 tác phẩm của hai người bạn thân, một ở trong nước và một ở hải ngoại (Canada), mà tôi thật lòng nghĩ và tin rằng là những công trình nghiên cứu nghiêm túc và sẽ rất hữu ích trong việc giúp độc giả trong khối các nước nói tiếng Anh hiểu rõ và ủng hộ hai vấn đề hết sức quan trọng của Việt Nam: 1) Vietnam, territoriality and the South China Sea: Paracel and Spratly Islands, do Nhà xuất bản Routledge (London, Anh Quốc) xuất bản vào năm 2019, gồm 190 trang; nguyên tác tiếng Việt là Những bằng chứng vể chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa; và 2) The Price of Freedom, do Nhà xuất bản Sans Frontières (Montréal, Canada) xuất bản vào năm 2015, gồm 344 trang; nguyên tác tiếng Việt là Giá Tự Do, về vấn đề đi tìm tự do của người Việt Nam sau năm 1975
Sách dịch về Hoàng Sa và Trường Sa
Sách Dịch về Đi Tìm Tự Do
Viết Sách Bằng Tiếng Anh
Sau hết, tôi cũng đích thân biên soạn bằng tiếng Anh 2 cuốn sách sau đây:
• Armed Forces of the Republic of Vietnam: a heroic army unjustly abandoned and left for dead, được Nhà xuất bản Nhân Ảnh (Nam California, Hoa Kỳ) xuất bản vào năm 2022, gồm 390 trang.
• Full circle: memoir of a Vietnamese-Canadian librarian được Nhà xuất bản Austin Macauley (London, Anh Quốc) xuất bản vào năm 2024, gồm 215 trang.
Sách về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Hồi Ký về Nghề Thư Viện
Thay Lời Kết
Ở vào tuổi “bát tuần” này, tôi không còn nghi ngờ gì nữa hết, và đã có thể nhận rõ cái duyên lành với tiếng Anh mà Ơn Trên đã ban cho tôi từ khi còn là một học sinh của bậc Đệ Nhứt Cấp tại Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký. Do Ơn Trên ban cho năng khiếu đó, tôi hoàn toàn không gặp khó khăn nào cả trong việc học ngoại ngữ này, về tất cả các mặt phát âm, văn phạm và ngữ vựng. Tôi vẫn còn nhớ như in một sự kiện thật đặc biệt đã xảy đến cho tôi trong năm học Lớp Đệ Tứ F (niên khóa 1956-1957) vào cái ngày mà học sinh Trường Petrus Ký được các Giáo Sư và các Thầy Giám Thị hướng dẫn ra khỏi Trường đến đứng dọc theo hai bên Đại Lộ Ngô Đình Khôi để đón Tổng Thống Ngô Đình Diệm trở về nước sau chuyến công du tại Đại Hàn. Trong lúc chờ đợi, Thầy Nguyễn Hoàng Sang đã gọi tôi đến gặp Thầy và sau đó hai Thầy trò vào ngồi trong chiếc xe hơi Juvaquatre của Thầy để Thầy luyện cho tôi đọc một bài diễn văn ngắn bằng Anh ngữ Thầy đã soạn sẵn mà tôi, đại diện cho học sinh Trường Petrus Ký, sẽ đọc vào ngày hôm sau khi Phái Đoàn của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ đến Trường để tặng sách cho Thư Viện. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi đọc một bài diễn văn bằng tiếng Anh trước các quan khách người Mỹ. Lúc đó tôi mới được 15 tuổi.
GHI CHÚ:
1. Lâm Vĩnh-Thế. Các Thầy Cô của tôi ở Petrus Ký, phần Thầy Đinh Xuân Thọ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tuyển tập Vĩnh Nhơn Lâm Vĩnh Thế: Các Thầy Cô của Tôi ở Petrus Ký (tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com)
2. Lâm Vĩnh-Thế. .Các Thầy Cô của tôi ở Petrus Ký, phần Thầy Nguyễn Hoàng Sang, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tuyển tập Vĩnh Nhơn Lâm Vĩnh Thế: Các Thầy Cô của Tôi ở Petrus Ký (tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com)
3. Lâm Vĩnh-Thế. Thành tựu và sự nghiệp của Thầy trò Petrus Ký của thập niên 1950, phần Thầy Phạm Văn Thuật, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tuyển tập Vĩnh Nhơn Lâm Vĩnh Thế: Thành Tựu và Sự Nghiệp Của Thầy Trò Petrus Ký của Thập Niên 1950 (tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com)
4. Việt Nguyên. Một thoáng hương xưa: Bà Thượng Nghị Sĩ Phan Nguyệt Minh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Một Thoáng Hương Xưa: Bà Thượng Nghị Sĩ Phan Nguyệt Minh – Nguoi Viet Online (nguoi-viet.com)
5. Lâm Vĩnh-Thế. Một ngã rẽ bất ngờ và may mắn, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tuyển tập Vĩnh Nhơn Lâm Vĩnh Thế: Một Ngã Rẽ Bất Ngờ và May Mắn (tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com)
6. Lưu Chiêu Hà, “Khóa huấn-luyện tu-nghiệp về thư-viện tại Cơ-quan Phát-triển Thư-viện,” Thư viện tập san, 1969, số 3, tr. 46-47.
7. Hiện nay có 3 loại TOEFL: 1) TOEFL PBT, tức là Paper Based Test, điểm số 310-677; 2) TOEFL CBT, tức là Computer Based Test, điểm số 0-300; và 3) TOEFL IBT, tức là Internet Based Test, điểm số 0-120. Có thể vào xem các mức điểm TOEFL mà các trường đại học của Hoa Kỳ và Canada đòi hỏi tại 2 cơ sở dữ liệu sau đây: 1) Degrees.ca, có thể truy cập tại địa chỉ Internet: TOEFL Scores for Canadian Universities and Colleges (degrees.ca); 2) US University Accepting TOEFL Scores, có thể truy cập tại địa chỉ Internet: TOEFL Accepted Universities in USA | Articles – Study Abroad by CollegeDekho (collegedekhoabroad.com) Điểm số TOEFL được đề cập đến trong bài viết thuộc về loại TOEFL PBT vì trong thập niên 1970 chưa có 2 loại TOEFL kia.
8. Academic grading in the United States, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Academic grading in the United States – Wikipedia









