50 năm định cư của người Việt tại Úc: Một nước Úc tốt đẹp hơn và khát vọng về một nước Việt Nam dân chủ
LS Lưu Tường Quang & LS Sydney Nguyễn
(Nguồn: Kỷ Yếu Đánh Dấu 50 Năm Người Việt Tỵ Nạn Định Cư Tại Úc – VCA-NSW 2025)
Kính thưa Quý vị khách quý, Quý bà và Quý ông,
Sydney Nguyen và tôi xin trân trọng chào mừng quý vị đến với buổi gặp mặt này tại Viện Sydney vào một đêm rất gió, lạnh và mưa. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Gerard Henderson, Giám đốc Điều hành của Viện Sydney, và Bà Anne Henderson, nhà sử học và nhà văn, về cơ hội vô giá này để nói về việc định cư của người Việt Nam tại Úc, 50 năm sau sự kiện Sài Gòn sụp đổ.
Chiến tranh Việt Nam không kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 mà thay vào đó, nó được thay thế bằng một loại chiến tranh khác. Một cuộc chiến trả thù và áp bức, một cuộc chiến của đói nghèo. Nếu hòa bình thực sự được lập lại và hòa giải được thúc đẩy một cách chân thành, vậy thì tại sao hàng triệu người Việt Nam, một dân tộc trong lịch sử chưa bao giờ là dân tộc di cư, lại bỏ trốn hoặc cố gắng bỏ trốn khỏi đất nước nơi họ sinh ra?
Trong nhiều thế kỷ qua, người Việt Nam đã di chuyển từ Bắc vào Nam như một phần của quá trình mở rộng lãnh thổ một cách hòa bình và đôi khi không hòa bình. Các khu định cư đầu tiên của người Việt tại Pháp và các vùng lãnh thổ khác của Pháp là những trường hợp ngoại lệ trong thời kỳ thuộc địa đó. Theo một nghĩa nào đó, sự gắn bó của người Việt Nam với quê cha đất tổ không khác gì việc người dân bản địa Úc coi trọng nơi họ sinh sống.
Là những người tị nạn chính trị từ một chế độ cộng sản, thế hệ người Việt đầu tiên ở Úc, do thiếu kinh nghiệm tập thể và không có sự chuẩn bị thích hợp, đã phải vượt qua cú sốc văn hóa trước khi nhanh chóng nhận ra vị trí xã hội của họ được biểu hiện rõ ràng trong một xã hội đa văn hóa vẫn còn non trẻ ở Úc.
Mặc cho những khó khăn trong việc định cư thành công ở quê hương mới, những chấn thương tâm lý gây ra bởi cuộc vượt thoát bằng đường biển hay đường bộ, những bi kịch cá nhân, nạn cướp biển và thiệt hại nặng nề về người (ước tính khoảng 3 đến 5 trăm nghìn, theo Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn – UNHCR), những người tị nạn Việt Nam còn sống sót đã quyết tâm trở thành những người định cư thành công tại Úc. Họ nghèo về tiền bạc, nhưng giàu có và mạnh mẽ về khả năng phục hồi để đạt được thành tựu cá nhân và khát vọng tập thể cho một nước Úc tốt đẹp hơn và một nước Việt Nam dân chủ.
Tôi xin nói thêm rằng người tị nạn và người di cư Việt Nam (tức là những người sang Úc theo diện đoàn tụ gia đình thông qua chương trình ra đi có trật tự, ODP, do Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc khởi xướng nhằm ngăn chặn mọi người mạo hiểm cuộc sống của họ trên biển) không tốt hơn cũng không tệ hơn các cộng đồng văn hóa và ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, sự khác biệt tồn tại ở hai khía cạnh: (a) mức độ chấn thương tâm lý cao, đặc biệt là trong số các cựu quân nhân trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và (b) tính chất thu gọn của cộng đồng. Những yếu tố này làm cho việc định cư thành công của họ đáng chú ý hơn.
Mối quan hệ song phương ngắn ngủi
Hơn một thế kỷ trước, một số người Việt Nam tình cờ đặt chân tới đất nước này. Một con tàu Pháp chở công nhân Việt Nam trên đường đến New Caledonia đã phải chuyển hướng đến một cảng ở miền Bắc Queensland vì lý do y tế.
Trong một thời gian dài, không có quan hệ chính thức giữa Úc và Việt Nam, khi đó là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, cho đến khi Việt Nam giành độc lập trong Liên hiệp Pháp vào năm 1949, và Quốc Gia Việt Nam thống nhất ra đời.
Việc tóm tắt mối quan hệ chính thức giữa hai quốc gia có thể là điều hữu ích nhằm cung cấp bối cảnh để hiểu chính sách và hành động của Thủ tướng Gough Whitlam về Việt Nam và những người tị nạn Việt Nam trong những năm 1960 và 1970.
Theo bản tin của AAP gửi đi từ London và xuất bản bởi The Sydney Morning Herald vào thứ Năm ngày 9 tháng 2 năm 1950, Úc chính thức công nhận Việt Nam, với Thủ đô là Sài Gòn, vào ngày 8 tháng 2 năm 1950.
Tháng 3 năm 1952, Úc mở phái đoàn ngoại giao tại Sài Gòn với ông John Rowland làm Đại Biện. Người đứng đầu phái đoàn, ông John Quinn nhậm chức vào tháng 11 cùng năm với trách nhiệm không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với Vương quốc Campuchia và Vương quốc Lào.
Việt Nam sau đó bị chia cắt tạm thời theo Hiệp định Geneva năm 1954, nhưng Úc tiếp tục chỉ công nhận duy nhất miền Nam Việt Nam, chính thức được gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Miền Bắc Việt Nam, tự tuyên bố là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào năm 1945, không được Úc và các quốc gia khác của Thế giới Tự do công nhận.
Vào những năm 1960, Úc dưới các Chính phủ Liên Đảng Tự Do–Quốc Gia đã hỗ trợ miền Nam Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược do miền Bắc cộng sản gây ra, được Moscow, Bắc Kinh, và Khối Warszawa hỗ trợ mạnh mẽ. Ông Gough Whitlam (1916-2014), khi đó là Lãnh tụ Đảng Lao Động Úc (ALP), đảng đối lập, đã phản đối sự can dự của Úc. Tháng 12 năm 1972, ALP thắng cử và ông Gough Whitlam với tư cách là Thủ tướng đã công nhận miền Bắc Việt Nam vào ngày 26 tháng 2 năm 1973 (chỉ một tháng sau Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973) trong khi vẫn duy trì mối quan hệ ngoại giao của Úc với miền Nam Việt Nam.
Một cộng đồng người Việt nhỏ gọn trong thời kỳ đầu của nước Úc đa văn hóa
Ngày 25 tháng 4 năm 1975, Đại sứ quán Úc tại Sài Gòn đã đóng cửa và theo chỉ thị của ông Whitlam, không một người nào được coi là có nguy cơ do làm việc với ANZAC được di tản khỏi Thủ đô đang bị đe dọa chiếm đóng quân sự. Ông Whitlam đã từ chối tiếp nhận người tị nạn Việt Nam do áp lực từ Hà Nội và đánh giá của riêng ông về sự thay đổi cán cân quyền lực ở cựu Đông Dương. Trong nước, ông dự đoán một bất lợi về bầu cử cho ALP, khi ông gọi người tị nạn Việt Nam là “người Baltic châu Á” tức là những cử tri tiềm năng cho phe bảo thủ ở Úc. Như đã xảy ra, ông Whitlam hoàn toàn sai. Người Úc gốc Việt tập trung chủ yếu ở các khu vực an toàn của Đảng Lao Động và trở thành cử tri của Đảng Lao Động.
Chính sách tị nạn của Úc đã thay đổi đáng kể sau “Vụ sa thải Whitlam” vào tháng 11 năm 1975. Cân nhắc lợi ích quốc nội và lợi ích đối ngoại với các nước thành viên ASEAN, Thủ tướng Malcolm Fraser (1930-2015) đã vạch ra một chiến lược mới để đối phó với cái gọi là “khủng hoảng thuyền nhân”.
Cộng đồng người Việt, với tư cách là cư dân thường trú, không tồn tại ở Úc trước năm 1975. Từ cuối những năm 1950, theo Kế hoạch Colombo – trong đó miền Nam Việt Nam là một thành viên – Úc đã tiếp nhận những sinh viên trẻ Việt Nam xuất sắc nhất để đào tạo ở cấp độ đại học hầu trở thành những kỹ trị gia cho sự phát triển tương lai của Việt Nam. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 1976, có 2.427 người Việt Nam sống ở Úc. Năm năm sau, tổng điều tra dân số năm 1981 dưới thời chính phủ Fraser cho thấy con số này là 49.616 người, tăng 16 lần.
Khi còn ở vị trí đối lập, lãnh tụ đảng ALP ông Bob Hawke (1929-2019) phần lớn thuận theo chính sách của Liên Đảng cầm quyền. Năm 1983, trong vai trò Thủ Tướng, ông chia sẻ quan điểm của ông Whitlam; điều này đã được ghi chép đầy đủ (xem ví dụ Hal G P Colebatch và những người khác). Cuối cùng với các chính sách được ủng hộ bởi lưỡng đảng, trong vòng hai thập niên, theo tổng điều tra dân số năm 1996 cộng đồng người Việt đã tăng lên 150.941 người (bao gồm 46.756 người thuộc thế hệ thứ hai sinh ra ở Úc), tăng 62 lần.
Trong lịch sử nhập cư vào nước Úc, người Úc gốc Việt tỏ ra là những người định cư thành công trong một thời gian ngắn. Họ tham gia một cách trọn vẹn vào đời sống xã hội, văn hóa, kinh tế và cuối cùng là hội nhập chính trị của Úc. Theo một số nhà bình luận xã hội và truyền thông chính thống, thành công này có lẽ đã thay đổi nước Úc và củng cố xã hội đa văn hóa của Úc.
Giáo sư Geoffrey Blainey và quan điểm chống nhập cư châu Á của ông
Năm 1984, trong thời kỳ đỉnh cao của chính sách chấp nhận người tị nạn Đông Dương của Fraser-Hawke với sự ủng hộ lưỡng đảng về tính đa dạng trong văn hóa, một nhà sử học Úc nổi tiếng, Giáo sư Geoffrey Blainey (sinh năm 1930) đã mở một cuộc tranh luận về di dân châu Á với “bài phát biểu Warnambool” của ông. Cùng năm đó, ông cũng xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Tất cả cho nước Úc” trong đó ông nêu lên nguy cơ đối với Úc do tỷ lệ di dân châu Á cao.
Quá khứ phân biệt chủng tộc của Úc đã được đúc kết rõ ràng. Năm 1901, Quốc hội Liên bang đã thông qua luật hạn chế sự nhập cư của người châu Á, đặc biệt là dân nhập cư từ Trung Quốc. Chính sách “Úc da trắng” này dần dần được thay đổi vào những năm 1960 và cuối cùng bị bãi bỏ vào đầu những năm 1970. May mắn thay, cuộc tranh luận Blainey đã không ảnh hưởng xấu đến chương trình tị nạn Đông Dương. Theo quan điểm của tôi, điều này là nhờ vào sự lãnh đạo của Thủ tướng Malcolm Fraser và Thủ tướng Bob Hawke, vào Xã hội Dân sự Úc, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, vào sự thành công của cộng đồng non trẻ của người Úc gốc Việt. Nếu không, Úc đa văn hóa có thể đã không có cơ hội đạt đến sự trưởng thành.
“Úc bây giờ có hàng bánh mì vào Chủ nhật”
(Ông Stephen Dubois, dân biểu liên bang khu vực St George (1984-1993))
Giáo sư Blainey không đồng ý với đặc điểm này, lập luận rằng (vào những năm 1990) “việc mô tả thành phần sắc tộc của Úc là đa văn hóa, không hữu ích lắm… là không phù hợp.” Đối với ông, nhìn chung, “các thể chế chính và lối sống của Úc là đơn văn hóa”. Sự nhượng bộ duy nhất của ông là trong lãnh vực ẩm thực. “Phải thừa nhận, nhà hàng thực sự đa văn hóa, nhưng đó chỉ là một khía cạnh của cuộc sống Úc”, ông nói với khán giả tại một hội nghị do Trung Tâm Hướng Dẫn Quốc Tế Monash ANZ tổ chức vào tháng 2 năm 1993 (trang 1).
Tại cùng buổi hội thảo có tựa đề “Úc và Anh: Mối quan hệ phát triển”, tôi khẳng định rằng “theo quan điểm của tôi, di sản Anh, như một phần của truyền thống Úc, vẫn là một sợi chỉ vàng trong cấu trúc của xã hội đa văn hóa của chúng ta” (trang 61). Tôi tin rằng Giáo sư Blainey đã sai vì lời cảnh báo của ông về nhập cư châu Á và đa dạng văn hóa, dựa trên sự cân nhắc có tính cách phân biệt chủng tộc. Ngày nay, lịch sử dường như lặp lại. Lời cảnh báo của ông có thể phù hợp với tình hình chống nhập cư hiện nay ở Bắc bán cầu phát triển, chống lại làn sóng di dân không thể kiểm soát được từ Nam bán cầu đang phát triển. Cho dù dựa trên chủng tộc hay kinh tế hay cả hai, chính sách này vẫn có thể có sai sót từ góc độ nhân đạo.
Sau 50 năm, cộng đồng người Úc gốc Việt với hơn 300 nghìn người cũng đã thay đổi: nó bao gồm khoảng 25.000 sinh viên du học hàng năm từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với hoàn cảnh và khát vọng khác nhau. Điều không thay đổi là những đóng góp hữu hình và vô hình của chúng tôi cho Úc.
Đầu năm 1987, một chính trị gia nhạy bén, Dân Biểu Stephen Dubois khu vực St George, đã nói với tôi “Úc bây giờ có hàng người xếp hàng mua bánh mì vào Chủ nhật”. Đó là trước khi bánh mì Sài Gòn trở thành món ăn đường phố của Việt Nam nổi tiếng ở Úc và thế giới. Tôi không trực tiếp nhìn thấy cảnh xếp hàng mua gạo ở CHXHCNVN, nhưng tôi đã chứng kiến cảnh xếp hàng mua bánh mì ở Ba Lan cộng sản vào giữa những năm 1980. Sự khác biệt về tính chất của hai cảnh xếp hàng mua bánh mì (ở Úc và ở Ba Lan cộng sản) một cách nào đó thể hiện việc người Úc gốc Việt đã thay đổi nước Úc thịnh vượng.
Vẫn còn ít nhất một trong những mối quan tâm của tôi về khát vọng cho một Việt Nam dân chủ. Sau 50 năm, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm, vẫn kêu gọi hòa giải hòa hợp. Liệu ông ấy có nghiêm túc không? Họ đã làm gì trong nửa thế kỷ qua? Và tại sao CHXHCNVN vẫn tiếp tục nỗ lực kiểm soát và chia rẽ các cộng đồng người Việt ở nước ngoài thông qua Quyết định số 36 của Bộ Chính trị và Quyết định số 1334 của Chính phủ CHXHCNVN?
Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, xin cho phép tôi, với tư cách là một người Úc gốc Việt, bày tỏ lòng kính trọng đối với 60.000 người lính Úc đã phục vụ xuất sắc tại miền Nam Việt Nam và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của chúng tôi đối với 524 người Úc đã anh dũng hy sinh mạng sống của mình cho tự do của chúng tôi.
Cảm ơn sự chú ý của quý vị.
LS Lưu Tường Quang AO
Sydney, ngày 19 tháng 5 năm 2025
Kính thưa quý vị,
Tôi xin bắt đầu bằng việc ghi nhận những Người giám hộ truyền thống của vùng đất mà chúng ta đang tụ họp hôm nay – người Gadigal của Quốc gia Eora – và bày tỏ lòng kính trọng đối với các Trưởng lão đã qua đời và hiện tại. Tôi xin mở rộng sự kính trọng đó đến bất kỳ người Thổ dân và cư dân Đảo Torres Strait nào tham gia cùng chúng tôi tối nay.
Cảm ơn ông Gerard Henderson và Viện Sydney đã cho tôi cơ hội phát biểu nhân dịp kỷ niệm quan trọng này. Và cảm ơn ông Quang Luu đã chia sẻ câu chuyện của mình. Thật vinh dự khi được chia sẻ sân khấu này với một người có hành trình đại diện cho làn sóng đầu tiên của người Úc gốc Việt. Những thành tựu và đóng góp của ông đã mở đường cho các thế hệ như thế hệ của tôi.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam nhưng đối với người Việt Nam, đó là sự khởi đầu của một chương rất dài và đau đớn. Cha mẹ tôi sinh ra ngay trước chiến tranh và lớn lên ở thành phố Huế xinh đẹp, ở miền trung Việt Nam. Huế là một nơi nổi tiếng với vẻ đẹp và các công trình kiến trúc hoàng gia, nhưng nó cũng là một trong những thành phố bị ảnh hưởng nặng nề trong chiến tranh. Họ đã sống qua toàn bộ cuộc chiến và trải qua sự tàn phá mà nó để lại. Cha mẹ tôi kể lại, sau sự kiện Sài Gòn sụp đổ, cuộc sống rất nghèo nàn và rất ảm đạm. Họ đã mô tả những năm đó là một trong những năm khó khăn nhất vì có những hạn chế khắc nghiệt, tự do bị giới hạn, không có cơ hội hoàn thành việc học, ít cách kiếm sống và khi họ cố gắng kiếm thêm tiền bằng cách bán thức ăn thì họ bị trừng phạt và đồ đạc của họ bị tịch thu; họ phải ăn uống thiếu thốn, và liên tục sống trong nỗi sợ hãi bị giám sát hoặc trừng phạt bởi chính quyền mới của cộng sản.
Vì vậy, vào cuối những năm 1980, khoảng 12 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, cha mẹ tôi đã quyết định bỏ trốn khỏi quê hương. Vì vậy họ là một trong những làn sóng thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam muộn màng.
Vào giữa đêm, mỗi người mang một chiếc túi nhỏ, họ lặng lẽ nói lời tạm biệt gia đình và bắt đầu cuộc hành trình về phía bắc. Trong túi xách của mẹ tôi có một số bộ quần áo, một chuỗi hạt Mân Côi và một vài bức ảnh gia đình – bà nói đó là thứ để nhớ về nhà, và thứ để giữ cho bà mạnh mẽ vì bà không biết mình sẽ đi đâu và liệu bà có bao giờ trở về không.
Trong một nhóm khoảng 10 người, họ trả tiền cho một kẻ buôn người và tin tưởng giao tính mạng của mình cho người đó để đưa họ ra khỏi Việt Nam an toàn. Họ đi lên phía bắc xuyên qua rừng rậm và các dãy núi gần biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Trên đường đi trong rừng, nhóm của họ bị phục kích bởi những tên cướp cầm mã tấu muốn cướp vàng và tiền trước khi chúng thả họ đi. Trước khi đi, linh cảm thấy điều như vậy có thể xảy ra, mẹ tôi đã may một mảnh vàng nhỏ vào lớp lót áo ngực của mình. Những tên cướp lột đồ và lục soát mọi người, lấy đi một ít tiền. May mắn thay, chúng không tìm thấy miếng vàng đó. Khi bố tôi kể câu chuyện này, ông nói rằng ông không quan tâm nếu họ lấy hết vàng và tất cả tiền của chúng tôi, miễn là những người phụ nữ không bị hại. May mắn thay, không ai bị hại.
Cuối cùng, họ đã đến Trung Quốc, ở đó họ lên một chiếc thuyền đánh cá bằng gỗ nhỏ – một chiếc thuyền chưa bao giờ được dự định để vượt Biển Đông rộng lớn. Thuyền đi dọc bờ biển, chỉ dừng lại khi thật sự cần thiết để bổ sung thực phẩm hoặc nước uống, luôn cẩn trọng để tránh chính quyền, nếu không họ sẽ bị giết hoặc bị gửi trả về Việt Nam nơi họ sẽ bị trừng phạt hoặc bị giết. Kẻ buôn người đã đưa họ qua rừng cũng là người lái thuyền. Người này nói tiếng Trung Quốc và có mối liên lạc giúp họ trên đất liền.
Lênh đênh trên biển thật là một cơn ác mộng, sóng đập vào thuyền không ngừng. Nước tràn vào liên tục, và mọi người thay phiên nhau múc nước ra thật nhanh bằng xô hoặc tay không. Nhiều người bị say sóng, nôn mửa ra ngoài mạn thuyền. Khi bão đến, thuyền bị quăng quật dữ dội. Mọi người bám chặt vào nhau, khóc nức nở, chắc chắn rằng đây là kết thúc. Mẹ tôi kể với tôi rằng bà không khóc trong những khoảnh khắc đó – mặc dù nhiều người xung quanh bà đã khóc. Thay vào đó, bà cầu nguyện với một tay cầm chuỗi hạt Mân Côi – bà phó mặc số phận của mình vào tay Chúa vì bà không thể làm gì hơn trong khoảnh khắc này. Ngay cả bây giờ, khi cha mẹ tôi nói về hành trình trên biển, họ vẫn không tin rằng mình đã sống sót. Bằng cách nào đó, họ đã đến Hồng Kông vào năm 1988.
Họ sống hai năm tiếp theo trong một trại tạm giam, làm việc, và chờ đợi một quốc gia chấp nhận họ. Vào năm 1990, khi mẹ tôi đang mang thai tôi, cha mẹ tôi nhận được tin họ được chấp nhận định cư ở Úc.
Cha mẹ tôi đến đất nước này ở tuổi gần 40 – tuổi của tôi bây giờ – không biết tiếng Anh, không có bằng cấp, không có tiền, và một đứa trẻ sơ sinh sắp chào đời. Bằng cách nào đó, họ đã tìm được cách sinh tồn. Bố tôi làm những công việc lao động – bất cứ thứ gì có thể nuôi sống gia đình. Cuối cùng, cả cha và mẹ tôi đều học cách may vá. Và họ làm việc không ngừng nghỉ. Suốt thời gian tôi còn nhỏ, họ làm việc bảy ngày một tuần từ sáng đến tối. Tôi vẫn còn nhớ mình đã ngủ thiếp đi với tiếng máy may và máy vắt sổ.
Mặc dù làm việc nhiều giờ, họ luôn sẵn sàng khi tôi và các anh chị em tôi cần. Họ đưa đón chúng tôi đi học. Họ đưa chúng tôi đến tham gia các hoạt động ngoại khóa. Chúng tôi có những buổi tối xem phim gia đình hàng tuần. Chúng tôi không sung túc, nhưng chúng tôi không bao giờ cảm thấy mình thiếu thốn bất cứ điều gì.
Khi chúng tôi lớn lên, cha mẹ tôi thường nói rằng họ không biết làm thế nào để đền đáp lại sự tử tế của Úc khi đã cho họ một ngôi nhà mới. Nhưng họ đã đền đáp bằng cách làm việc chăm chỉ, bằng cách nuôi dạy chúng tôi và trở thành một phần của cộng đồng Úc. Cùng với rất nhiều người tị nạn Việt Nam khác, họ đã mở các doanh nghiệp nhỏ, xây dựng cộng đồng vững mạnh và mang lại sức sống cho các vùng ngoại ô như Cabramatta và Footscray – những nơi hiện nay được ca ngợi về tính đa văn hoá. Họ đã nuôi dạy chúng tôi đề cao sự chính trực, khiêm tốn và lòng biết ơn. Ngay cả việc đặt tên tôi là Sydney cũng là cách họ nói lời cảm ơn đến thành phố và đất nước đã đón nhận họ.
Với tư cách là một người Úc gốc Việt thuộc thế hệ thứ hai, khi tôi lớn lên tôi phải cân bằng giữa hai thế giới – hai nền văn hóa, hai ngôn ngữ và hai mối kỳ vọng khác nhau. Ở nhà, tôi được nuôi dạy với các giá trị truyền thống Việt Nam: tôn trọng người lớn tuổi, khiêm tốn, đặt gia đình lên trên bản thân và không bao giờ đặt câu hỏi về uy quyền. Nhưng bên ngoài, tôi sống trong một xã hội Úc rất Tây phương hóa, đề cao sự độc lập, thể hiện bản thân và lựa chọn cá nhân. Ở trường và với bạn bè, tôi được khuyến khích nói lên ý kiến, tự tin, theo đuổi ước mơ của mình ngay cả khi chúng xung đột với kỳ vọng gia đình. Tôi được kỳ vọng phải hiểu cả hai và thường phải là cầu nối giữa gia đình và thế giới bên ngoài, dù tôi có muốn hay không. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Tôi đã cố gắng trở thành ‘cô con gái Việt Nam ngoan’ ở nhà, trong khi học cách tự bảo vệ mình trong một thế giới đề cao sự tự tin và tự vận động.
Khi tôi lớn hơn, tôi bắt đầu nhận ra rằng những chấn thương âm thầm của cha mẹ đã định hình cách họ nuôi dạy chúng tôi như thế nào. Họ đến từ một nơi mà sự an toàn không bao giờ được đảm bảo, vì vậy họ đã cố gắng kiểm soát tôi hết mức. Họ thận trọng, luôn tiết kiệm, luôn chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Họ nghiêm khắc, thúc đẩy chúng tôi học hành và làm việc chăm chỉ vì, đối với họ, thành công là cách duy nhất để tồn tại. Giáo dục có nghĩa là sự ổn định và an toàn. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ không phải vật lộn như cuộc sống họ đã trải qua.
Tất nhiên, điều đó đi kèm với áp lực. Tôi lớn lên cảm thấy lo lắng về sự thất bại, sợ hãi khi làm họ thất vọng, thậm chí xấu hổ khi tôi không học tốt ở trường. Nhưng theo thời gian, tôi đã hiểu rằng họ chỉ đang làm tốt nhất có thể – cố gắng cho chúng tôi mọi thứ mà họ chưa bao giờ có. Họ đã tự mình tìm cách giải quyết, mà không có công cụ, ngôn ngữ hoặc sự hỗ trợ để hiểu những gì họ đã trải qua. Họ đã cố gắng chịu đựng để chúng tôi không phải trải qua những điều đó. Tôi chưa bao giờ phải lo sợ cho mạng sống của mình, hoặc phải bỏ nhà đi hoang, hoặc phải chịu đói. Tôi đã có đặc quyền lớn lên an toàn, với những cơ hội mà họ chưa bao giờ mơ tới. Và bây giờ, tôi nuôi dạy các con của mình (tôi có hai cô con gái nhỏ) trong sự an toàn đó với tự do, lựa chọn và hy vọng.
Nhìn cha mẹ tôi xây dựng cuộc sống từ hai bàn tay trắng đã dạy tôi về khả năng phục hồi, về sự kiên cường và về lòng biết ơn. Và đối với rất nhiều người trong thế hệ của tôi, chúng tôi tôn vinh những hy sinh của cha mẹ không chỉ bằng sự nghiệp hay thành tựu của mình, mà bằng cách chúng tôi sống cuộc sống của mình, những giá trị chúng tôi dạy con cái và cách chúng tôi phục vụ cộng đồng.
Đối với tôi, việc tôn vinh sự hy sinh của cha mẹ có ý nghĩa hơn là chỉ làm việc chăm chỉ hoặc có một công việc tốt – nó có nghĩa là cống hiến cho cộng đồng mà tôi lớn lên. Trong suốt cuộc đời mình, tôi đã tình nguyện bất cứ khi nào có thể, và tôi tự hào được bầu làm Phó Chủ Tịch Văn Hóa và Giáo Dục của Cộng Đồng Người Việt New South Wales – đây là một tổ chức cộng đồng di dân được thành lập vào năm 1978 mà ông Quang Luu là một thành viên sáng lập. Tổ chức này được thành lập để giúp đỡ người tị nạn Việt Nam định cư tại Úc và hỗ trợ nhu cầu của họ. Trong nhiệm kỳ của mình, tôi đã có cơ hội tìm hiểu thêm về văn hóa và lịch sử của chúng tôi, và tạo ra các sự kiện và sáng kiến giúp bảo tồn và tôn vinh nó. Tôi đã làm việc để thu hút những người trẻ tuổi tham gia để giúp họ kết nối lại với cội nguồn và cảm thấy tự hào về xuất sứ của họ.
Với vai trò đó, tôi đã hiểu được thế hệ đầu tiên vẫn phải chịu đựng nhiều đau khổ từ cuộc chiến và từ hành trình đến Úc của họ. Rõ ràng là nhiều người vẫn đang cố gắng vượt qua điều đó giống như cha mẹ tôi. Tôi cũng đã gặp và làm việc cùng rất nhiều người Úc gốc Việt thế hệ thứ hai. Họ cũng cảm thấy giống như tôi – tự hào về nguồn gốc của mình nhưng vẫn đang cố gắng hiểu tất cả. Tôi nhận ra rằng nhiều người trong cộng đồng của chúng tôi vẫn đang vật lộn để hiểu nhau nhưng quyết tâm hợp tác để thu hẹp khoảng cách đó.
Trải nghiệm đó đã truyền cảm hứng cho tôi. Sau khi nhiệm kỳ của chúng tôi kết thúc, chồng tôi và tôi, cùng với Tú Lê, một người bạn và cùng là thành viên Ban Chấp Hành Cộng Đồng, đã đồng sáng lập một doanh nghiệp xã hội tập trung vào việc tiếp sức cho những người trẻ tuổi để tạo ra sự thay đổi xã hội tích cực – đặc biệt là ở Tây Nam Sydney, nơi tất cả chúng tôi lớn lên. Đây là một nơi đa dạng văn hóa đáng kinh ngạc, và chúng tôi muốn những người trẻ tuổi trong khu vực nhận ra rằng nền tảng giáo dục của họ mang lại cho họ một góc nhìn và động lực độc đáo. Chúng tôi muốn họ biết rằng họ có thể truyền năng lượng đó vào bất cứ điều gì họ đặt tâm trí vào. Và nếu bạn đã được trao cơ hội thành công, chúng tôi tin rằng bạn cũng có trách nhiệm cống hiến. Đối với chúng tôi, công việc này không chỉ là phục vụ cộng đồng – đó còn là việc tôn vinh xuất sứ của chúng tôi và giúp đỡ những người khác làm điều tương tự.
Chính trong tinh thần cộng đồng và tưởng nhớ này, chúng tôi kỷ niệm 50 năm sự kiện Sài Gòn sụp đổ. Chúng tôi tôn vinh những sinh mạng đã mất trong chiến tranh và trên biển, và chúng tôi nhớ những người đã chiến đấu và những người đã bỏ trốn. Nhưng kỷ niệm này cũng là một lễ kỷ niệm của sự sống sót, của khả năng phục hồi của chúng tôi và của mọi thứ mà người Việt Nam đã xây dựng ở Úc kể từ đó. Từ những khởi đầu khiêm tốn nhất, cộng đồng của chúng tôi đã phát triển thành một cộng đồng đóng góp trong mọi lĩnh vực – trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng, kinh doanh, giáo dục, y tế, nghệ thuật và dịch vụ công. Và chúng tôi vẫn đang phát triển và sẽ tiếp tục cống hiến.
Tối nay, tôi đứng đây với tư cách là con gái của những người tị nạn Việt Nam – một người Úc gốc Việt đầy tự hào. Tôi đã nhận ra sức mạnh to lớn của việc mang trong mình hai nền văn hóa, hai ngôn ngữ và hai khung giá trị. Điều từng cảm thấy như một sự căng thẳng đã trở thành một nguồn sức mạnh. Nó giúp tôi vững vàng và hy vọng về nơi tôi đang hướng tới.
Xin gửi đến nước Úc lời cảm ơn. Cảm ơn vì đã mở rộng vòng tay. Cảm ơn vì đã tin vào khả năng phục hồi của những người tị nạn. Cảm ơn vì đã cho gia đình chúng tôi cơ hội được là thành viên của nước Úc với hy vọng và phẩm giá. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên.
Cảm ơn quý vị.
Sydney Nguyen
Ngày 19 tháng 5 năm 2025


