1. Văn thi sĩ Thanh Nam

Văn thi sĩ Thanh Nam và phu nhân, nữ sĩ Túy Hồng

Nhà văn, nhà thơ Thanh Nam (1931-1985) tên thật là Trần Đại Việt, quê quán ở làng Mỹ-Trọng, tỉnh Nam-Định. Vì cha mẹ chia tay từ rất sớm nên ông sống với người cô khi tuổi vừa lên 9.

Năm 15 tuổi, Thanh Nam đã có thơ đăng trên báo Thiếu Nhi ở Hà-Nội và được mời cộng tác. Để có thể tự túc trang trải cuộc sống, ông làm ở một hiệu sách, vừa có bài viết và có thêm cơ hội đọc và học hỏi nhiều, nên kiến thức rất sâu rộng. Ông chính thức sáng tác vào năm 1950 với bút hiệu Thanh Nam.

Thanh Nam vào Sài-Gòn năm 1953, trước khi hiệp định Genève được ký kết và được mời làm tổng thư ký báo Thẩm Mỹ. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục khác như Phụ nữ gia đình, Gỡ rối tơ lòng và ký thêm nhiều bút hiệu như Sông Hương, cô Hồng Ngọc, bà Bách Lệ, Tôn Nữ Đài Trang, Thợ Cạo, v.v..

Thập niên 60, ông hăng say hoạt động như hợp tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương, làm tổng thư ký tuần báo Nghệ Thuật, viết bài trên tuần báo Kịch Ảnh. Ở lĩnh vực thi ca, ông cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tô Kiều Ngân và nhiều văn nghệ sĩ khác phụ trách chương trình thơ nhạc Tao Đàn trên đài phát thanh Sài-Gòn, đài Quân Đội, đặt lời ca cho một số nhạc phẩm, trong số đó có bài “Suy tôn Tổng thống Ngô Đình Diệm”.

Loạt truyện dài theo kiểu “feuilleton” của Thanh Nam đăng trên nhiều tờ nhật báo được đông đảo độc giả yêu thích và đón đọc mỗi ngày.

Đám cưới Thanh Nam và Túy Hồng

Tháng tư năm 1975, ông cùng vợ là nhà văn Túy Hồng và các con di tản sang Hoa-Kỳ. Ông cộng tác với tờ Đất Mới, là một trong vài tờ báo Việt ngữ đầu tiên xuất bản tại Hoa-Kỳ sau ngày mất nước, làm tổng thư ký rồi kiêm luôn chủ bút. Ngoài văn học nghệ thuật, ông đa đoan thêm nhiều mục khác nữa và ký nhiều bút hiệu như Việt Trần, Viễn Khách, Tiểu Lưu Linh, Đồ Say, v.v..

Những phẩm đã xuất bản: Hồng Ngọc (1957), Người nữ danh ca (1957), Buồn ga nhỏ (1962), Giấc ngủ cô đơn (1963), Còn một đêm nay (1963), Cho mượn cuộc đời (1965), Bầy ngựa hoang (1965), Giòng lệ thơ ngây (1965), Những phố không đèn (1965), Mấy mùa thương đau (1968), Thuế sống (1983), Xa như dĩ vãng (1983), Gã kéo màn (1983), Đất khách (1983).

Riêng “Hồi ký 20 năm viết văn, làm báo” đăng dang dở trên tờ Văn do Mai Thảo chủ trương tại Santa Ana, California thì ông lâm bệnh và qua đời sau gần bốn năm chống chọi với bệnh ung thư thanh quản.

“Thơ xuân đất khách” được trích trong tập “Đất khách”, là thi tập duy nhất được gom lại từ cơn đau thể xác với cái chết gần kề và nỗi sầu tha hương chưa bao giờ nguôi.

2. Thơ xuân đất khách

Ngó lên tờ lịch mới hay mùa đã sang, ngày tháng lụi tàn và năm cũ cũng đi qua. Từ khi bước chân xa xứ với hành trang là một gánh ưu tư nên chẳng màng thu mãn, đông tàn, xuân tới. Làm thân ly khách dạt trôi muôn hướng, chí lớn chưa về và bàn tay cũng trống không ..

“Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ

Mới hay năm tháng đã thấy mùa

Trôi dạt từ Đông sang cõi Bắc

Hành trình trơ một gánh ưu tư

Quê người nghĩ xót thân lưu lạc

Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du”

Quê hương đã ngàn dặm xa xôi, bạn bè cách mặt từ dạo đó. Mất nước là nỗi đau như người lính vừa thua trận giữa sa trường, nơi súng nổ vô tình và đạn bay hờ hững. Người ra đi mang nỗi sầu vong quốc, kẻ ở lại tủi nhục chịu đựng những đòn thù. Chợt nghe tâm hồn nhói đau như mang nhiều thương tích và hình như tiếng kèn truy điệu đang bồi hồi vọng về tim ..

“Giống như người lính vừa thua trận

Nằm giữa sa trường nát gió mưa

Khép mắt cố quên đời chiến sĩ

Làm thân cây cỏ gục ven bờ

Chợt nghe từ đáy hồn thương tích

Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa”

Thời gian buông lơi từ buổi tàn xuân năm đó. Ai còn, ai mất mà tin thư vẫn biền biệt trời xa. Năm tháng vẫn đi về nhưng cõi lòng là một dòng sông cạn nước, một nhánh sông không còn cửa biển. Mỗi năm có 12 tháng nhưng sao cứ vương vấn mãi một tháng Tư vô vọng, buồn đau ..

“Ơi hỡi quê hương bè bạn cũ

Những ai còn mất giữa sa mù

Mất nhau từ buổi tàn xuân đó

Không một tin nhà, một cánh thư

Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi

Rối bời tâm sự tuyết đan tơ

Một năm người có mười hai tháng

Ta trọn năm dài một tháng Tư”

Chiến trường da ngựa bọc thây, nhưng chí làm trai tang bồng chưa kịp thỏa thì lệnh trên buông súng đầu hàng. Thế cờ còn ngỗn ngang và chưa kịp phân chia thắng bại mà phải chấp nhận thua cuộc. Nước mất nhà tan và không thể sống chung với loài giặc dữ nên từ đó, dân tình phiêu linh tứ tán cũng bởi vì hai chữ “tự do” ..

“Canh bạc chưa chơi mà hết vốn

Cờ còn nước đánh phải đành thua

Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng

Nghĩ đắt vô cùng giá tự do”

Mấy mươi năm làm kẻ ly hương, đối bóng mình trong gương mà xót xa dâng trào. Thành ra, nỗi buồn xa xứ cứ gậm nhấm và khó thể phôi phai. Đất trời, mây nước còn có dịp tương phùng thì người xa xứ vẫn hoài mong một ngày đoàn viên trên quê hương đẹp đẽ, sạch tan bóng quân thù ..

“Mây nước có phen còn hội ngộ

Thâm tình viễn xứ lại như xa

Xuân này đón tuổi gần năm chục

Đối bóng mình ta say với ta”

TV, 02.2025