Ung Thư Ruột Già

Bác sĩ Phan Giang Sang

(trích TUYỂN TẬP PHAN GIANG SANG III – Y HỌC VÀ ĐỜI SỐNG 2016)

Ung thư ruột già (UTRG) đứng hạng nhì sau ung thư phổi. UTRG rất cao ở các nước Tây Âu hơn Á Châu. Tuy ngày nay (3/2016) UTRG có phần giảm nhiều nhờ nội soi, phối hợp với chương trình giáo dục, thử phân, và các ngành chuyên khoa di truyền, giải phẫu và khoa ung thư.

 Bên Mỹ, vào năm 2008 có 139.000 người mắc bịnh UTRG, và 50.000 người tử vong.Tại Úc vào năm 2009, cũng có 14,410 trường hợp mới được phát hiện. Và có 4,026 tử vong, tức 28%, hay mỗi 2 giờ có 1 người chết. Hiện nay 2016, cứ mỗi tuần có 80 bịnh nhân tử vong, tức  mỗi năm có 4.160 tử vong. Nó gia tăng theo tuổi già từ 50 trở lên và nhiều nhứt ở tuổi trên 70. Có một số ít bị UTRG lúc dưới 50.

Từ khi có chương trình xét nghiệm UTRG Quốc gia (The National Bowel Cancer Screening Program) thử phân FOBT cho mọi công dân Úc trên 50 -70 tuổi, UTRG giảm nhiều. Từ 2008-2011có 38% chịu thử phân gởi trở lại để xét nghiệm. Nhưng năm 2012-2013 chỉ có 33.5% mà thôi. Trong số này, phát hiện 404 trường hợp mắc bịnh và 728 bị bướu thịt nặng. (MO 4 July. 2014, trang 2).

Xin quý vị trên 50 nhứt là trên 70-75 tuổi nên thử FOBT. Hay chỉ cần cảm thấy xuống cân, nên yêu cầu bác sĩ gia đình cho thử phân và máu ngay.

Ðàn ông nhiều hơn đàn bà. Cứ 18 ông thì có 1 bị UTRG, còn đàn bà thì 1 cho 27 bà.  Kể như trung bình 1 bịnh nhân cho 20 người.

UTRG rải rác theo ruột già như sau:

  • 22% ở đoạn lên của đại tràng, bên tay phải
  • 12 % ở đoạn giữa (ngang)
  • 5%  ở đầu đoạn xuống
  • 26% ở đoạn xuống .
  • 35% ở trực tràng

Nhờ việc điều trị hữu hiệu ngày nay, số bịnh nhân sống sót sau năm năm rất cao. Nó tùy theo bịnh tình ở vào hạng nào của bảng sắp Dukes ABCD:

  • Hạng A= CA tại vách ruột gìa 99%,
  • B=CA qua vách ruột gìa 78%,
  • C=bịnh đã lan ra các hạch xung quanh, 33%
  • D=bịnh đã lan ra xa, rất khó. 1%

Gần đây nhờ có chương trình bài trừ UTRG bằng thử nghiệm phân, truy tìm máu ẩn gọi là FOBT  (faecal  occult blood test), ống nội soi trực tràng, đại tràng sigma mềm dẻo dễ điều khiển, chụp Xr có bơm Ba (Barium), và Computerized scan tomography, colonography  mà  số tử vong về UTRG giảm rõ rệt. Tốt nhứt là FOBT, FIT (faecal immunological tests) và colonoscopy là chánh trong việc dò tìm UTRG.

FOBT dễ và rẽ nhứt, cứ  2 năm thử lại một lần, nếu cần thì 1 năm sau. Nó giúp giảm bịnh nhân UTRG cở 20% và tử vong 33% nhiều nhứt là ở lứa tuổi trên 50 tới 70, nay gia tăng lên 50 tới 74, vì sau 70 người bị ung thư càng gia tăng. Kết quả dương tính, cũng:

  1. Có thể là mắc bịnh UTRG
  2. Có thể là máu do trỉ nội 

Có thể do bướu nhẹ gọi là tuyến lành của biểu mô.

Trong tương lai gần, không cần thử FOBT cho nó khó khăn, cực khổ, vì CSRIO tìm ra được 2 gen gây UTRG. Hai gen này là: BCAT1 và IKZF blood test (ColoVentage plasma, clinical genomic) sau khi đã thử 2187 người Úc và Hòa Lan. Bác sĩ Larry LaPointe, của Ðại học SA, cho chỉ cần thử máu là tìm được UTRG ngay. Theo BS Erin Symonds, Trung Tâm Flinders Inovation in Cancer thì nó đã ra năm rồi nhưng quá mắc.

Cách thử phân bằng miễn dịch hay1à chất FIT (Faecal Immunochemical Test) chính xác từ 60-90% không cần cữ ăn và cữ uống thuốc. Nó được sử dụng cho chương trình dò tìm UTRG Quốc gia Úc. Trong niên khóa 2013-2014, có gởi cho 510,000 người thử phân, chỉ có 54% tham gia thôi. Trong số những người có máu trong phân, thì chỉ có 68% chịu theo dõi và đi nội soi ruột. Kết quả trong 38,000 người này có 748 mắc UTRG cần phải điều trị. (Theo The Australian Doctor 26.6.15)

Tốt nhứt là nếu nghi ngờ có gì không ổn, nên đi khám bịnh để tìm bịnh và điều trị sớm sẽ hữu hiệu. Những trở ngại đó là:

  • Ðột nhiên xuống kí, hay gầy ốm,
  • Táo bón, tiêu ra máu,
  • Trên 50 tuổi thì nên thử FOBT và FIT.
  • Cũng có thể 2 năm sau thử lại.
  • Nghi ngờ CA, phải khám hậu môn.

Nội soi ruột già colonoscopy là chính xác nhất cở 95-97%. Cái hay của nó là nhân tiện có thể cắt thịt làm xét nghiệm tế bào bịnh lý học được. Chỉ có cái là tốn công và của, phải vào bịnh viện, nhiều khi cần phải gây mê.

Triệu chứng của bịnh UTRG

UTRG có rất nhiều triệu chứng, nhiều khi lại không có gì hết.

Nếu bịnh nhân than:

  • Táo bón, tiêu chảy, đau bụng bất thường.
  • Ăn không ngon,
  • Gầy ốm, xuống kí một cách bất thường.
  • Chảy máu ở hậu môn, tiêu phân có trộn máu. Phải cho thử nghiệm tìm cho ra bịnh.
  • Thử máu thấy bị thiếu máu do thiếu chất sắt.
  • Coi chừng lẫn lộn với bịnh trỉ nội, đau bụng do hội chứng kích thích đường ruột (irritable bowel syndrom), hay rối loạn thần kinh tiêu hoá.
  • Nhiều khi bị UTRG mà không hề thấy triệu chứng trên.
  • Bịnh nhân trên 50 tuổi
  • Gia đình bịnh sử có UTRG, có adenomatous polyps (tuyến lành của biểu mô)
  • Có viêm trực tràng mãn tính.
  • Ra máu ở hậu môn
  • Máu đỏ nằm trên phân, dầu ở bịnh nhân 40 tuổi cũng phải khám cho kỹ.
  • Máu sậm trộn lộn trong phân: phải cho nội soi.

Thí nghiệm

Thử máu, chức năng của gan, chụp XR phổi

Ba enema (bây giờ không còn xài nữa vì không chắc, tốt nhứt là nội soi).

Coloscopy và Sigmoidoscopy:

  • Tuy nhiên cũng có trở ngại là chuẩn bị rửa ruột không sạch, thấy không rõ.
  • Có chút ít tai hại của đánh thuốc mê.
  • Rất hiếm bị thủng ruột. Tai hại của nó quá nhỏ so với chết vì bị UTRG
  • Thử máu tìm CEA, nếu nó dương tính chỉ cho biết có bịnh thôi, không biết nó nằm chỗ nào. Phải làm nội soi mới biết.

Điều trị

Giải phẫu cắt nửa bên phải ruột già, hay cắt bỏ nửa bên trái.

Cắt đoạn sigma và phần trên của trực tràng.

Phối hợp xạ trị và hóa trị.

Ðiều trị thành công hay không là tùy thuộc vào thời kỳ phát hiện và trị liệu. Cần phải coi hiện trạng của bịnh tình theo sắp hạng TNM (Tumours, Nodes, metastasis). Theo Dukes: kết quả sống được 5 năm sau là: A 80%, B 60%, C 30% và D 5% thôi.

Muốn phòng ngừa UTRG, cần phải ăn nhiều trái cây và rau cải tươi, nhứt là rau cải có nhiều xơ như celery, cải trắng, cải bẹ xanh, giá và rau muốn. Tuy nhiên tốt nhứt là broccoli vì ngoài chất xơ, nó còn có chất sulfooraphane và indol-3-carbinol chống lại sự phát triển của tế bào ung thư. Tomato có nhiều antioxidants và ngừa được ung thư ruột và nhiếp hộ tuyến nhờ chất lycopene. Ngoài ra cũng cần bớt ăn thịt đỏ và nhiều dầu mỡ. Ăn nhiều cá rất tốt.