Trung Tá Nguyễn Văn Phán

Thế là Anh đã tiến chiếm được mục tiêu cuối cùng ngày 01/12/2020 sau những ngày tháng năm chiến đấu cam go…

Khi TĐ5/TQLC mới được thành lập vào cuối năm 1964, Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Văn Tính, rồi bàn giao cho Thiếu Tá Dương Hạnh Phước.

Các Đại Đội Trưởng là: Đại Úy Võ Trí Huệ Huệ (ĐĐ1), Trung Úy Nguyễn Văn Phán (ĐĐ2), Trung Úy Nguyễn Đình Thủy (ĐĐ3), Trung Úy Dương Bửu Long (ĐĐ4).

Các trung đội trưởng mà nay (7/2023) tôi còn nhớ là:

Trần Xuân Bàng1, Đàm Đình Loan1, Trần Văn Hên1, Lê Quý Bình, Huỳnh Văn Phú, Trần Văn Chích1, Ngô Thành Hữu, Lương Văn Cường1, Nguyễn Văn Lộc1, Phạm Thanh Quang, Tô Văn Cấp, v.v..

Các ThiếuTá Tính, Phươc, các anh Huệ, Thuỷ, Long đã “đi trước” cả rồi, chỉ còn anh Phán tiếp tục chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng vào ngày 01/12/2020, đó cũng là ngày mà 80 năm về trước (01/12/1940), “chú bé” Nguyễn Văn Phán khóc oé chào đời.

Thế là Bộ Chỉ Huy TĐ5 ngày ấy, nay đã họp mặt đầy đủ trên Thiên Quốc.

TQLC Phu Nhơn Nguyễn Văn Phán tốt nghiệp Khoá 9 Thủ Đức, tình nguyễn về TQLC và anh đã lần lượt phục vụ các Tiểu Đoàn 3, 2, 5, 1 với chức vụ trung và đại đội trưởng, rồi là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8/TQLC, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh.

Khỏi phải bàn về chiến công của một TQLC đi từ trung đội trưởng lên tới tiểu đoàn trưởng tác chiến, mà nói về tài chỉ huy cùng nghệ thuật lãnh đạo mới quan trong.

Nghe tới hai chữ “lãnh đạo”, nhiều người tưởng là cái gì to lớn ghê gớm, (thí dụ như lãnh đạo đất nước), thực ra lãnh đạo chỉ là nghệ thuật sống và chiến đấu của một trung đội, đại đội, tiểu đoàn trưởng là làm sao cho thuộc cấp không sợ mà kính phục.

Một trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng TQLC thì không có tiền bạc, quyền lực bổng lộc gì để ban phát cho thuộc cấp sung sướng, giàu có, an nhàn, mà trái lại chỉ là chiến đấu gian khổ, nguy hiểm chết chóc, do đó người lính sợ cấp chỉ huy là dĩ nhiên, nhưng thuộc cấp nể phục, đó mới là thành công về nhân cách. Quyền lực, chức vụ, cấp bậc rồi sẽ qua đi, nhưng nhân cách của cấp chỉ huy sẽ còn lại mãi trong lòng thuộc cấp. TQLC Phu Nhơn Nguyễn Văn Phán là một người như thế, thuộc cấp gọi anh Phán là: “Anh Hai”.

Ngoài tài chỉ huy, anh Phán còn là một người lính viết văn và làm thơ. Xét về nội dung và cách viết thì anh xứng đáng ngồi “chiếu trên” của nhiều “nhà văn” khác. Tôi phục cái tình “Huynh Đệ Chi Binh” trong những tác phẩm của anh.

Sau trận Hạ Lào Lam Sơn 719, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ.8 Nguyễn Văn Phán đã viết về Tiểu Đoàn Trưởng TĐ.2 Nguyễn Xuân Phúc như sau:

“ROBERT LỬA” NGUYỄN XUÂN PHÚC, NIỀM HÃNH DIỆN CỦA THỦY QUÂN LỤC CHIẾN

 “Robert Lửa”, do anh em trong đơn vị đặt, vì đối đầu với trận mạc, ông ta là lửa để đốt cháy địch và ông ta là một sức nóng để sưởi ấm cho đồng đội…

….

Tuy nhiên lịch sử xoay vần, 29/3/1975 Ðà Nẵng mất, Phúc, Tùng và binh sĩ của các ông đã cùng chung số phận. Binh Chủng mất các ông, Quân Đội mất các ông như mất những viên trân châu quí giá nhất. Mẹ Ðà Lạt đã mất đi đứa con thân yêu được nuôi dưỡng bằng một lý tưởng vượt thoát. Khóa 16 đã mất đi một người bạn mà anh ta đã làm sáng rực và vinh danh cho khóa. Ðâu đây trên đời sống lưu vong này vẫn còn vang vang tiếng Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc.

Cho tôi được hâm nóng bầu rượu này để sưởi ấm phần nào cho Phúc và cũng để được đền đáp ơn tri ngộ giữa tôi và Phúc đã cùng chiến đấu dưới cùng một màu cờ và sắc áo TQLC. (Toàn bài viết này được in ở trang 265: “TQLC Phúc Yên Nguyễn Xuân Phúc”)

 Bài viết: “Huế, Tôi và Mậu Thân” của Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán đã được các trang web phổ biến, kể cả nhật báo Việt Báo trong chương VVNM (Viết Về Nước Mỹ). Tôi xin trích đoạn một vài nội dung đầy tính nhân bản và tình đồng đội. Anh Phán viết:

Phú Bài!

Mười giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc Quốc Lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Ðại Úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết:

Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương. Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:

Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá.

Nhìn qua chợ Ðông Ba và phố Trần Hưng Ðạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập, những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Ðạo không một bóng người. Nhìn bên phải là Cầu Gia Hội vắng tanh, những cột khói khác vươn lên… Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi dòng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè, cầu Ðông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Ðội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm Đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Ðến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở, thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Ðội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong,… Những tiếng nói đó đây:

Anh Phán đó tề! Anh Phán! Anh Phán…Tiếng gọi lớn dần và lan dài suốt con đường tôi đi.

Con hẻm sát Hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó, xao xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt:

Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi.

Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Đường:

Con xức cho khỏi gió.

Lính đi ngang hỏi nhau:

Mạ Ðại Úy sao đầu trọc lóc vậy bây?

Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy.

Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại:

Nhà mình có răng không Mạ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không?

Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô.

Chỉ là bạn tôi xuất thân Khóa 17 Võ Bị Ðà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:

Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con.

Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi

“Anh Phán, anh Phán…” tiếp tục vang lên cho đến giữa Hồ Tịnh Tâm.

Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với trung đội đầu.

Cuối Hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Ðạt. Như vậy bên hông mặt của “con cái” tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường Tiểu Học Ðoàn Thị Ðiểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục đi thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu,… Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.

Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp.

Ðến lúc ấy đại đội tôi đã có 13 chết, 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.

Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi: Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xi-măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:

Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Nếu không thì đúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm mục tiêu của tôi trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu cùa các ông mà tôi đã ấn định.

Trở lại vị trí, tôi dặn dò toán viên Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy:

Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đây.

Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được, tôi khẽ nói ra lệnh cho 5 thằng em trong toán là Điểu, Việt, Can, Dư, Phúc:

Chuẩn bị!

Tôi cảm thấy hồi hộp, chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội.

Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng, kế tiếp là Ðiểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Ðiểu và Can chiếm cầu tiêu.

Bỗng một loạt đạn thật giòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mù của địch, thằng em mang máy của tôi đã hy sinh. Tôi hét lớn:

Dư, Việt chiếm nhà bếp.

Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Ðiểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Ðiểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

Ðiểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ. Ðể Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Ðiểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ, tôi nghe:

Chết em, Ðại Úy!

Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn.

Ðại Bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:

Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra Tòa Án Quân Sự.

Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ. Suy nghĩ thật kỹ. Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Ðiểu chuyển lệnh cho các toán:

Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi, mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.

Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn.

Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây? Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi.

Những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em. Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:

Ðại Úy, tóc và râu Ðại Úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ.

Cả Ðại Đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu Đoàn:

Tất cả đã về vị trí.

Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:

Thằng Ðiểu đâu?

Tụi nó nói:

Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy tìm Ðại Úy ở bên ấy.

Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau.

Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn vào vị trí và la lớn:

Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?

Ðiểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Ðiểu:

Tau định qua kiếm mày đây.

Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ.

Tóc tai mặt mày râu ria Ðiểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi…

***

Giữa chiến trường, sống chết cách nhau một gang tay, trong 1 giây, người lính TQLC đã gọi Đại Uý Phán là “Anh Hai” thì tôi không còn gì đề viết thêm về Phu Nhơn nữa mà xin kết thúc bằng bài thơ bất hủ của “thi bá” Nguyễn Văn Phán.

Anh viết:

“Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.”

KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN

Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben Het, Dakto
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu D
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về Tổ Quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi Ba Sọc Đỏ Nền Vàng
Xin liệm kín với Hồn Thiêng Sông Núi.

CA, 21/7/2023


[1] Đã quá vãng