Những Gian Truân Trong Hành Trình Di Dân Sang Canada
Lâm Vĩnh-Thế
Tháng 4-1979, gia đình tôi nhận được giấy tờ bảo lãnh di dân sang Canada của Anh Tư tôi gởi về. Mẹ tôi rất vui mừng và lập tức sáng hôm sau cả nhà chúng tôi cùng đi ra trụ sở Công An Phường 4 của Quận Nhứt (nhà của gia đình tôi tại số 54 đường Nguyễn Phi Khanh, Đakao, thuộc về Phường 4 của Quận Nhứt) để xin đăng ký xuất cảnh. Bài viết này cố gắng ghi lại những gì mà tôi, ở tuổi 83 này, còn nhớ được về những gian truân mà gia đình tôi đã phải trải qua trong thời gian hơn hai năm (từ tháng 4-1979 đến tháng 9-1981) để có thể thực hiện được việc di dân sang Canada.
Trước Khi Mẹ Tôi Mất
Chuyện khó khăn đầu tiên xảy ra như sau: Công An Phường cho biết chỉ nhận đơn xin đăng ký của Mẹ tôi và Má Sáu tôi (em gái kế của Mẹ tôi; Mẹ tôi là Má Năm) mà thôi, còn phần tôi và bà xã tôi thì họ không nhận với lý do là công nhân viên của nhà nước còn đang làm việc. Mẹ tôi rất buồn và bảo tất cả mọi người đi về, không nộp đơn nữa. Về đến nhà Mẹ tôi mới nói rõ như sau: “Má nộp đơn là để cho tụi con [tức là tôi và vợ con tôi] được cùng đi luôn chung chớ Má đi một mình làm gì.”
Vừa buồn giận về chuyện Công An Phường gây khó khăn trong việc đăng ký cho gia đình tôi đi bảo lãnh qua Canada này, Mẹ tôi lại còn đang rất lo lắng về chuyện gia đình Chị Hai tôi đi vượt biên theo lối “bán chính thức” [1]mà đến lúc đó, đã 6 tháng rồi, vẫn chưa có tin tức gì cả.
Về sau, khi đã sang Canada rồi, tôi mới được biết rõ về chuyến đi “bán chính thức” đó của gia đình Chị Hai tôi như sau: chiếc tàu sắt của chuyến đi bán chính thức đó mà gia đình Chị Hai đã tham gia, tàu Skyluck,[2] với 2.651 người trên tàu, đã bị Chính quyền Hong Kong giam giữ trong 6 tháng; tất cả mọi người không được xuống bờ; trong thời gian ở trên tàu, Chị Hai bị muỗi độc cắn, vết thương làm độc khiến cho chân Chị Hai bị sưng vù lên, đi đứng rất khó khăn; Chị Hai cũng rất lo lắng vì không biết tương lai sẽ ra sao nên cả thể chất và tinh thần Chị Hai đều bị suy sụp khá trầm trọng. Tình trạng này kéo dài mãi cho đến ngày 29-6-1979, tàu bị bảo đánh đập vào đá, có thể bị chìm, Chính quyền Hong Kong bị bắt buộc phải cho tất cả hành khách xuống bờ và đưa vào giam giữ trong một nhà tù cũ có tên là Chi Ma Wan. Lập tức nhân viên Bộ Di Trú Canada (Immigration Canada) đã đến làm thủ tục để đưa gia đình Chị Hai tôi đi Canada ngay vì họ đã nhận được giấy tờ bảo lãnh từ Anh Tư tôi từ mấy tháng trước đó. Gia đình Chị Hai đã đến Montréal đoàn tụ với Anh Tư từ giữa tháng 7-1979. Lúc đó Mẹ tôi đã mất rồi nhưng trước tình trạng khủng hoảng về cả thể chất và tinh thần của Chị Hai, Anh Tư không dám báo cho Chị Hai tin buồn về Mẹ chúng tôi ngay. Sau hơn hai tuần lễ, khi sức khỏe của Chị Hai đã phục hồi phần nào, Anh Tư mới dám báo cho Chị Hai biết là Mẹ chúng tôi đã mất. Chị Hai rất đau buồn khi biết tin này, và Chị Hai đã làm một bài thơ khóc mẹ thật hay và thật cảm động.[3] (Xin đọc bài thơ trong Phần Phụ Đính).
Lúc đó Mẹ tôi và tôi đều không biết gì hết về chuyện chiếc tàu Skyluck này. Việc quá lo lắng làm cho Mẹ tôi bị tăng áp huyết khá cao và đưa đến việc Mẹ tôi bị tai biến mạch máu não vào cuối tháng 6 và, sau gần 1 tuần lễ ở trong tình trạng hôn mê, Mẹ tôi đã mất vào ngày 4-7-1979. Tôi lập tức gởi điện tín báo tin cho Anh Tư tôi, và nhờ tiền của Anh Tư tôi gởi về liền, tôi đã có thể lo cho Mẹ tôi một đám tang thật đàng hoàng, và sau đó đưa tro hài cốt của Mẹ tôi vào giữ tại Chùa Vạn Thọ ở Tân Định.[4]
Gặp Dại Diện Bộ Di Trú Canada Lần Đầu Tiên
Trong khoảng thời gian này, tại Sài Gòn, có khá nhiều gia đình có thân nhân bảo lãnh đi Canada. Mỗi buổi sáng, những người đại diện cho các gia đình này, trong đó có tôi, thường tụ họp ở công viên trước Sở Ngoại Vụ Thành Phố Hồ Chí Minh (địa điểm này, trước ngày 30-4-1975, là trụ sở của Bộ Ngoại Giao của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa — VNCH) để nghe ngóng, dò hỏi, và chia xẻ với nhau các tin tức về việc đi đến của vị Đại Diện của Bộ Di Trú Canada.
Một ngày giữa tháng 7-1979, bọn chúng tôi được biết vị Đại Diện của Di Trú Canada, ông Bersma, đã đến Việt Nam, và đang gặp gỡ, phỏng vấn những người đi bảo lãnh tại Khách Sạn Caravelle. Được tin này, tất cả mọi người kéo đến tập trung tại cái công viên nhỏ ngó ngang qua tòa nhà Quốc Hội cũ của VNCH (ngay tai chỗ bức tượng hai người lính Thủy Quân Lục Chiến, lúc đó đã bị đập bỏ rồi). Dĩ nhiên, chỉ có những người đã nhận được giấy mời của Sở Ngoại Vụ mới được vào bên trong Khách Sạn Caravelle để gặp ông Bersma.
Chờ đến 12 giờ trưa, khi mọi người đã giải tán, tôi tiến đến trước cửa Khách Sạn Caravelle, áp sát vào người bảo vệ, bỏ vào túi áo anh ta một phong bì đựng một tờ giấy bạc 50 đồng và xin anh ta cho tôi vào gặp ông Bersma. Tôi không bao giờ có thể ngờ là lại gặp phản ứng của anh bảo vệ hết sức đàng hoàng và lương thiện này (một điều thật hiếm có và quý giá, rất đáng tôn trọng trong hoàn cảnh xã hội tại Miền Nam sau ngày 30-4-1975)): anh ta lấy phong bì trong túi áo trả lại cho tôi và nói nguyên văn như sau: “Anh đừng làm vậy, tôi không lấy tiền của anh đâu. Tôi sẽ để cho anh vào gặp ông ấy.” Tôi nhận lại phong bì, xin lỗi và cám ơn anh ta, và nhờ anh ta đưa cho ông Bersma một mảnh giấy nhỏ trong đó tôi có viết một câu tiếng Anh ngắn như sau: “Dear Mr. Bersma, my name is Vinh-The Lam. I’ d like to see you for a few minutes, if possible.”
Anh bảo vệ cầm mảnh giấy đó đi vào bên trong, và không tới 5 phút sau, ông Bersma đi ra và đưa tay vẫy gọi tôi vào. Tôi thật sự vô cùng kinh ngạc khi nghe câu hỏi đầu tiên của ông Bersma: “Gia đình bà chị của ông đã rời Hong Kong đi Canada chưa?” Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông Bersma vậy mà ông ấy đã nắm quá rõ thông tin về gia đình tôi. Tôi trả lời cho ông ấy biết là gia đình Chị Hai tôi đã đến Montréal rồi. Kế tiếp ông cho biết muốn gặp Mẹ tôi ngay. Tôi báo cho ông hay là Mẹ tôi đã mất; ông nói lời chia buồn với tôi; ông cũng nói ông rất tiếc vì Mẹ tôi có ưu tiên rất cao trong chuyến đi sang Việt Nam lần này của ông, và đưa tôi xem cái danh sách những người mà ông dự định sẽ phỏng vấn trong đợt này và tôi đã nhìn thấy rõ tên của Mẹ tôi là số 4 trong danh sách. Xong rồi ông hỏi tôi đã có giấy xuất cảnh chưa, tôi cho ông biết tôi vừa mới nộp đơn chưa đến 2 tuần nên chưa có giấy xuất cảnh; ông nói liền là ông sẽ không làm được gì cho tôi cả và mời tôi ra về. Cuộc gặp gỡ của tôi với ông Bersma lần đầu tiên kéo dài chưa đến 15 phút.
Gặp Dại Diện Bộ Di Trú Canada Lần Thứ Nhì
Chưa đến 3 tháng sau, hồ sơ xin xuất cảnh đi Canada của Má Sáu tôi được chấp thuận và PCTNNN gởi thư mời Má Sáu tôi đến lảnh giấy xuất cảnh. Một tuần lễ sau đó thì Má Sáu tôi lại nhận được thư mời của Sở Ngoại Vụ đi gặp Đại Diện Bộ Di Trú Canada, lần này là tại Làng Đại Học trên Thủ Đức. Tôi thuê một xe taxi để đưa Má Sáu tôi lên đó để được phỏng vấn. Đó là lần thứ nhì tôi gặp ông Bersma. Sau cuộc phỏng vấn, ông Bersma cho biết ngay là Má Sáu tôi không đủ điểm để được Canada chấp nhận cho di dân, và ông nói thêm vài tuần lễ nữa thì Má Sáu tôi sẽ nhận được văn thư chính thức về việc bị từ chối này của Văn Phòng Đông Nam Á của Bộ Di Trú Canada từ Singapore gởi sang.
Hệ Thống Chấm Điểm của Bộ Di Trú Canada
Đây là lần đầu tiên tôi được nghe nói về hệ thống chấm điểm này của Canada.[5] Tôi lập tức gởi một điện tín sang Canada cho Anh Tư tôi và xin Anh Tư tôi gởi cho thông tin về chuyện chấm điểm này. Hơn 10 ngày sau tôi nhận được từ thông tin đó từ Anh Tư tôi.
Theo Bộ Luật Di Trú của Canada năm 1967 (Immigration Law of Canada of 1967), các ứng viên xin nhập cư vào Canada được chia ra làm 4 hạng người:
• Người tỵ nạn (Refugees)
• Doanh Nhân (Entrepreneurs)
• Người được bảo lãnh theo diện F (F Category; F = Family = Gia đình; bao gồm cha mẹ, vợ chồng, con cái)
• Người được bảo lãnh theo diện R (R Category; R = Relative = Bà con; bao gồm anh em, chú bác, cô dì)
Người tỵ nạn, đáp ứng đúng tiêu chuẩn do Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner of Refugees), đương nhiên được nhận vào Canada sau khi khám sức khỏe.
Các Doanh Nhân đương nhiên được nhận vào Canada nếu có thể mang vào Canada một số tiền quy định đủ để có thể thiết lập một cơ sở kinh doanh sử dụng tối thiểu là ba (3) nhân viên.
Những người được bảo lãnh theo diện F cũng đương nhiên được nhận vào Canada sau khi khám sức khỏe.
Những người được bảo lãnh theo diện R thì phải được xét duyệt qua hệ thống chấm điểm (tối đa là 100 điểm) gồm 9 mục trong đó có các mục sau đây:
• Tuổi tác (Age)
• Thông thạo Anh và Pháp ngữ (Language Fluency, English and French)
• Học vấn (Education and Training)
• Nghề nghiệp (Job Skills)
• Thị trường nhân dụng (Job Market)
• Khả năng hội nhập (Adaptability)
• Quan hệ gia đình (Family Connections)
Điểm tối thiểu để được chấp nhận vào Canada là 67 điểm.[6] Điểm của Má Sáu tôi không phải là điểm 0 mà còn là điểm trừ (- 26), vì cách tính theo hệ thống chấm điểm đã được ông Bersma thực hiện như sau:
• Tuổi tác: từ 18 đến 35 tuổi là 10 điểm, từ 36 tuổi trở đi, cứ thêm một tuổi là trừ 1 điểm, Má Sáu tôi lúc đó đã 74 tuổi, nên điểm cho Tuổi tác là – 39
• Thông thạo Anh – Pháp ngữ: 0
• Học vấn: Má Sáu chỉ học đến Lớp 3: 3
• Nghề nghiệp: 0
• Thị trường nhân dụng: 0
• Khả năng hội nhập: 0
• Quan hệ gia đình: vì người bảo lãnh là Anh Tư, một người có bằng Tiến Sĩ và là Giáo Sư Đại Học, nên được điểm tối đa: 10
• Tổng số điểm: – 39 + 13 = – 26 (Trừ 26)
Về sau, khi tôi đã có được giấy xuất cảng và được Ông Bersma phỏng vấn thì tôi vẫn phải qua hệ thống chấm điểm này vì, cũng như Má Sáu tôi, tôi cũng thuộc diện F vì là anh em bảo lãnh cho nhau.
Phòng Công Tác Người Nước Ngoài
Phòng Công Tác Người Nước Ngoài (PCTNNN) là một đơn vị của Sở Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (SCATPHCM), đứng đầu là Thượng Tá (về sau thăng cấp lên Đại Tá) Nguyễn Văn Năm, bí danh Năm Thạch,[7] đặt trụ sở tai tòa nhà ở cuối đường Nguyễn Du, kế cận ngã ba Nguyễn Du – Lê Văn Duyệt, trước ngày 30-4-175 đã từng là Tòa Đại Sứ của Canada. Do vị trí của trụ sở như vậy, PCTNNN thường được bà con được bảo lãnh đi Canada, trong lúc trò chuyện với nhau, gọi tắt là Nguyễn Du.
PCTNNN có nhiệm vụ cấp giấy xuất cảnh cho những người được nhà nước đồng ý cho đi định cư ở các nước ngoài do thân nhân bảo lãnh. Do chức năng này, PCTNNN đương nhiên trở thành một khâu rất quan trọng trong tiến trình “chạy” giấy xuất cảnh. Nói cho đúng, thật ra, PCTNNN chỉ là một bộ phận thi hành quyết định của SCATPHCM mà thôi. Nhưng vào lúc đó chúng tôi chưa nắm được tiến trình làm việc này nên quá coi trọng PCTNNN và, vì thế, gia đình tôi đã bị cán bộ của Phòng, thông qua cò mồi của họ, lừa gạt và bị mất của. Người cò mồi này, mà tôi vẫn còn nhớ rõ cho đến ngày hôm nay, là một người Bắc Di Cư 54 tên là Tiến, bảo chúng tôi là một anh cán bộ trẻ của PCTNNN tên là Đực đồng ý giúp sắp xếp để gia đình chúng tôi được mời đến Phòng lăn tay để cấp giấy xuất cảnh và chỉ lấy 2 cây vàng thôi. Tôi bàn với bà xã tôi về đề nghị này của tên Tiến và chúng tôi đồng ý với đề nghị đó. Một buổi sáng, theo đúng hẹn đã sắp xếp, gia đình tôi được đưa vào trong khu vực làm việc của nhân viên PCTNNN và được chính tên Đực lăn tay cho tất cả mọi người trong gia đình. Hôm sau tên Tiến đến nhà tôi và được vợ chồng tôi trả cho 2 cây vàng. Nhưng sau đó chúng tôi chờ hoài gần một tháng trời mà vẫn không nhận được thư của PCTNNN mời đến nhận giấy xuất cảnh. Lúc đó chúng tôi mới biết chắc là đã bị lừa. Về sau này thì chúng tôi mới biết là việc lăn tay chỉ là một bước nhỏ, khởi đầu của tiến trình duyệt xét của SCATPHCM trong việc cấp xuất cảnh mà thôi. Một thời gian ngắn sau đó chúng tôi được thông tin là tên Đực đã bị điều đi nơi khác, không còn làm việc tại Phòng CTNNN nữa. Về phần tên Tiến thì sau đó hắn cũng biệt tăm biệt tích, có lẽ cũng đã đi vượt biên rồi. Vậy là tôi đã mất đường dây “chạy” giấy xuất cảnh rồi, và trước mắt phải lo tìm một đường dây khác.
Tuy nhiên, đúng như ông bà mình thường hay nói, “Họa trung hữu phúc, phúc trung hữu họa,” [8] tuy bị lừa gạt mất 2 cây vàng, nhưng nhờ được vào bên trong khu vực làm việc của PCTNNN mà tôi đã được gặp một người mà tôi thấy có vẻ quen quen nhưng không nhớ ra là ai. Lúc đó tôi chỉ lo cái chuyện lăn tay cho gia đình tôi, không để tâm đến người đó nhiều lắm. Về sau, khi đã biết bị bọn Đực + Tiến lừa gạt rồi, và đã mất đường dây “chạy” giấy xuất cảnh đó, tôi mới chợt nhớ lại người đó nhưng nhứt thời không biết đã gặp người đó ở đâu. Tôi cố gắng nhớ lại, và một thời gian sau, đột nhiên tôi nhớ ra là đã gặp người đó tại nhà Bác Ba, một bà bạn thân của Mẹ tôi. Ngày hôm đó, vào khoảng một tuần lễ sau đám tang của Mẹ tôi, tôi mang một giỏ trái cây đến nhà Bác Ba để biếu Bác và cám ơn Bác đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian đám tang của Mẹ tôi. Lúc đang ngồi ở phòng khách nói chuyện với Bác Ba thì hai vợ chồng Chị H., con gái lớn của Bác Ba vừa đi đâu về, bước vô phòng khách, và chào tôi. Người chồng của Chị H., Anh Ba Đ., chính là cái người mà tôi đã gặp tại PCTNNN, và, tôi tin rằng đây chính là đường dây “chạy” giấy xuất cảnh mới mà tôi đang cố tìm. Về nhà tôi bàn với bà xã tôi về chuyện nhờ Anh Ba Đ. giúp đỡ và bà xã tôi đồng ý ngay. Mấy hôm sau, tôi trở lại nhà Bác Ba, nói chuyện với Chị H. và Chị vui vẻ đồng ý sẽ nói Anh Ba Đ. giúp gia đình tôi.
Tôi cứ tưởng là mọi việc sẽ trôi chảy và gia đình tôi sẽ sớm nhận được giấy xuất cảnh. Nhưng độ hai tuần sau, khi tôi sang nhà Bác Ba gặp Chị H. để hỏi thăm tin tức thì rất may mắn gặp được cả Anh Ba Đ., nhưng Anh Ba cho hay là tin tức từ SCATPHCM cho biết là cấp trên không đồng ý cho tôi được xuất cảnh vì tôi thuộc diện chuyên viên cao cấp về ngành quản trị thư viện mà nhà nước đang cần. Tôi rất buồn vì thấy không còn hy vọng gì nữa hết. Nhưng Anh Ba Đ. khuyên tôi đừng vội tuyệt vọng vì Anh nói sẽ tìm cách khác để giải tỏa gút mắt này, và bảo tôi ráng chờ thêm một thời gian.
Mấy tuần lễ sau, một buổi sáng, độ hơn 10 giờ, đột nhiên, anh Công An Phường phụ trách khu phố nhà tôi, đến nhà gặp tôi. Trong câu chuyện anh ấy hỏi tôi như sau: “Tôi thấy anh họ Lâm vậy anh có phải là người Hoa không?” Tôi trả lời cho anh ấy là tôi không phải là người Hoa, nhưng gia đình tôi thì đúng là có gốc Hoa nhưng đã qua bao nhiêu đời rồi, và từ nhỏ tới lớn tôi chưa bao giờ nghĩ tôi là người Hoa, thậm chí tôi cũng không biết nói tiếng Hoa. Tuy vậy anh Công An Phường vẫn hỏi tôi như sau: “Nhưng anh có giấy tờ gì chứng minh anh là người gốc Hoa hay không?” Tôi trả lời là tôi không biết nhưng tôi sẽ tìm xem trong các giấy tờ cũ của gia đình xem có gì chứng minh gốc Hoa của bản thân tôi hay không. Anh Công An Phường lại nói: “Vậy anh ráng tìm đi nha, ngày mai tôi sẽ trở lại.”
Sau khi anh Công An Phường ra về, tôi mở cái tủ sắt của Mẹ tôi và tìm được một tài liệu gọi là Tờ Cử của Hội Minh Hương Gia Thạnh trong Chợ Lớn mà dòng họ Lâm của gia đình tôi là một thành viên. Tờ Cử này là một giấy chứng nhận bằng hai ngôn ngữ, chữ Việt và chữ Hán, in trên một tờ giấy nền vàng khổ lớn có hình lưỡng long tranh châu làm khung, ghi rõ là của Hội Minh Hương Gia Thạnh, được cấp cho tôi từ năm 1967, khi Mẹ tôi, sau khi tôi đã lập gia đình và có được một đứa con trai 3 tuổi, xin cho tôi được chính thức làm Hội Viên (trong Hội gọi là Hiệp Lý). Mẹ tôi đã gấp Tờ Cử này lại làm 8, và xếp cất trong tủ sắt hơn 12 năm nên nó đã rách thành 8 mảnh. Tôi phải lấy băng keo dán lại và đem ra tiệm chụp hình nhờ chụp lại và rửa lớn lên thành khổ 18 x 24 cm như tấm ảnh bên dưới đây:
Tờ Cử của Hội Minh Hương Gia Thạnh
Sáng hôm sau anh Công An Phường trở lại và tôi đưa cho anh ta xem Tờ Cử thì anh nói ngay: “Tốt quá, cái giấy này được rồi, nó cho thấy rõ ràng anh là người gốc Hoa. Anh cho tôi giữ nó để làm hồ sơ nha.” Dĩ nhiên,là tôi bằng lòng ngay và anh ta vui vẻ ra về.
Chỉ độ 2 tuần lễ sau tôi nhận được thư của PCTNNN mời gia đình tôi đến nhận giấy xuất cảnh. Và người trao các giấy xuất cảnh cho gia đình tôi không ai khác hơn mà chính là Anh Ba Đ. Lúc đó tôi mới hiểu tại sao Anh Ba Đ. đã khuyên tôi đừng vội tuyệt vọng và hứa sẽ tìm cách giải tỏa cái gút mắt của hồ sơ xin xuất cảnh của gia đình tôi. Thì ra Anh Ba Đ. đã giúp tôi qua được cửa ải SCATPHCM bằng cách sử dụng cái chiêu “chính sách đưa người Hoa ra khỏi nước của nhà Đảng và Nhà Nước sau vụ Chiến Tranh Biên Giới vào đầu năm 1979” lúc đó vẫn còn đang được áp dụng triệt để.
Sau khi nhận được các giấy xuất cảnh cho gia đình tôi gồm:
• Một giấy Thông Hành (Laissez-Passer) cho tôi
Mặt chính của Giấy Thông Hành
Giấy Thông Hành của tôi
• Một giấy Thông Hành (Laissez-Passer) cho bà xã tôi có kèm theo hình của Trung, đứa con nhỏ (mới 5 tuổi) của vợ chồng tôi
Giấy Thông Hành của vợ tôi có kèm hình của Trung
• Một giấy Thông Hành (Laissez-Passer) cho Dũng, con trai lớn (17 tuổ) của vợ chồng tôi
Giấy Thông Hành của Dũng
Thủ Tục Xuất Cảnh
Như đã trình bày bên trên, tôi thuộc một nhóm bạn bè gồm những người mà gia đình được thân nhân bảo lãnh đi định cư ở Canada. Nhờ những bạn đã có giấy xuất cảnh trước chỉ dẫn nên tôi đã biết được rất rõ thủ tục xuất cảnh gồm những điều phải làm như sau:
• Lấy chứng chỉ hợp lệ về nhà đất do Sở Nhà Đất TP HCM cung cấp: cá nhân tôi không gặp khó khăn gì hết về chuyện này vì nhà tôi ở là thuê của nhà nước; một số bạn trong nhóm đã gặp khó khăn và đáng kể nhứt là trường hợp của bạn H. nhà đã bán nhưng vẫn bị Sở Nhà Đất làm khó dễ đủ điều, chỉ vì không “biết điều” với họ, và kết quả là mãi đến sáng hôm lên máy bay rời Việt Nam bạn vẫn chưa nhận được cái chứng chỉ cần thiết này; sau cùng gia đình bạn ấy đã phải “biết điều” (tôi không được biết là đã chung bao nhiêu “cây”) mới lấy được cái chứng chỉ hợp lệ nhà đất, và, khi nhận được cái giấy đó (thật ra đã được ký từ hơn 2 tuần lễ trước đó rồi) thì đã gần 10 giờ sáng vừa kịp để lên phi trường Tân Sơn Nhứt cho chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam lúc 11:30 đi Bangkok, Thái Lan.
• Lấy chứng chỉ hợp lệ ngân hàng: cá nhân tôi cũng không gặp khó khăn vì tôi không có tài khoản nào hết tại các ngân hàng; một người bạn thân của tôi hồi học bậc Đệ Nhị Cấp tại Trường Petrus Ký, anh P.K.T., tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, Ban Anh Văn, đã là Giáo sư môn Anh Văn cho một số trường trung học trước 1975 tại nhiều tỉnh ở Miền Nam (Khánh Hòa, Vĩnh Long, Gò Công), được thân nhân bảo lãnh đi Úc, đã chạy hụt hơi luôn để lấy cho đủ 3 chứng chỉ hợp lệ ngân hàng từ 3 tỉnh đó.
• Lấy chứng chỉ đã chích ngừa đầy đủ
• Đăng ký chuyến bay: cá nhân tôi đã bị dời chuyến bay tất cả 3 lần, vì lý do chỉ có Trời biết (nhưng, thật ra, mọi người đều biết là vì có những gia đình nào đó đã “bất ngờ” có ưu tiên cao hơn gia đình tôi)
• Cân đo hành lý: cũng phải “biết điều” chút đỉnh với các anh cán bộ tép riu làm công việc đó.
Sau khi đã làm xong hết các thủ tục kể trên, và, sau cùng không bị dời chuyến bay nữa, gia đình tôi rời Việt Nam đi Canada trên chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam, một chiếc phi cơ Dakota DC-3, rời Phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 11:30 sáng ngày Thứ Tư, 23-9-1981. Chuyến bay đáp xuống phi trường Bangkok của Thái Lan vào khoảng sau 1 giờ trưa. Chúng tôi phải chờ đến khuya ngày hôm đó mới lên chuyến bay Thai Airways, lần này là một chiếc Boeing 747, đi Amsterdam, thủ đô của Hòa Lan, với 3 trạm dừng tại Karachi (thủ đô của Pakistan), Beirut (thủ đô của Lebanon), và Rome (thủ đô của Ý). Sau 4 giờ chờ tại phi trường Amsterdam, chúng tôi lên chuyến bay của Air Canada, một chiếc DC-10, đi thắng đến Phi trường Mirabel, tại thành phố Montreal, thủ đô tỉnh bang Québec của Canada. Anh Tư tôi với bà vợ người Québec, Chị Raymonde Charron, cùng với gia đình Chị Hai tôi (gồm Anh Hai, Chị Hai, và hai cháu gái là Nguyễn Minh Phượng và Nguyễn Minh Hoàng), và anh Vũ Trọng Tuấn, một người bạn thân đồng nghiệp cũ của tôi tại Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn trước 1975, đã có mặt để tiếp đón gia đình tôi. Sau khi về đến nhà Anh Tư, chúng tôi đã chụp chung tấm ảnh kỷ niệm bên dưới đây:
Từ trái qua phải: Anh Hai, Chị Hai, Minh Phượng, Chị Raymonde, tôi, Minh Hoàng, vợ tôi, Dũng, Trung, và bạn Tuấn.
Thay Lời Kết
Tiến trình thực hiện việc ra khỏi Việt Nam để đi định cư tại Canada kéo dài khoảng hơn 2 năm và kết thúc tốt đẹp vào buổi chiều ngày Thứ Tư, 23-9-181 tại Thành phố Montréal, tỉnh bang Québec, Canada sau bao nhiêu gian truân có lúc gần như tuyệt vọng. Trong tiến trình đó, tôi đã được cái may mắn hiếm có là gặp vị Đại Diện Bộ Di Trú Canada, ông Bersma, đến tất cả là ba lần. Tôi đã hiểu rõ hệ thống chấm điểm mà Bộ Di Trú Canada đã sử dụng để tuyển chọn những người muốn nhập cư Canada. Điều duy nhứt mà tôi thật sự đau lòng và hối tiếc trong toàn bộ tiến trình đầy gian truân trong hơn hai năm đó (1979-1981) là đã không mang được Má Sáu tôi cùng đi sang Canada với gia đình tôi.
GHI CHÚ:
1. Huy Đức. Bên thắng cuộc. I: Giải phóng. Sài Gon, Boston: OSIN Book, 2012, tr. 122-125. Trong tác phẩm này, tác giả cho biết việc tổ chức ra đi “bán chính thức “cho người Hoa này có tên là “Phương Án II.”
2. Skyluck, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:Skyluck – Wikipedia
3. Lâm Vĩnh-Thế. Chị Hai của tôi, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/chi-hai-cua-toi-lam-vinh-the/
4. Lâm Vĩnh-Thế, Mẹ tôi: một phụ nữ tiêu biểu của Nam Kỳ Lục Tỉnh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tuyển tập Vĩnh Nhơn Lâm Vĩnh Thế: Mẹ Tôi: Một Phụ Nữ Tiêu Biểu của Nam Kỳ Lục Tỉnh (tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com)
5. Hệ thống chấm điểm của Bộ Luật Di Trú Canada năm 1967, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây : 100-Point System of Immigration Canada of the 1960s – Search (bing.com)
6. 67 out of 1000 possible points, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Minimum points to pass the 100-points system of Immigration Law of Canada (1967) – Search (bing.com)
7. Năm Thạch là một cán bộ của Mặt Trận Giải Phóng (tức là Việt Cộng) hoạt động nội thành, đã từng làm quản lý cho đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga trong rất nhiều năm. Sau ngày 30-4-1975 mới lộ mặt là một sĩ quan Công An mang quân hàm Thượng Tá, và được cử làm Trường Phòng của PCTNNN. Một thời gian ngắn sau khi thăng lên cấp Đại Tá, Năm Thạc đã bị giết chết tai nhà, rất có thể là một vụ thanh trừng nội bộ hay tranh ăn vì chức vụ Trường PCTNNN là một nguồn thu nhập rất lớn.
8. Họa Trung Hữu Phúc, Phúc Trung Hữu Họa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Họa Trung Hữu Phúc, Phúc Trung Hữu Họa (giaophanvinhlong.net)





