1

A. Thời Thượng cổ

            Về thời kì này, ta chỉ có thể có những nhận xét sơ lược vì đã cách xa ta mà mà lại không có tài liệu ghi chép thành văn để lại. Phần lớn những dữ kiện chúng ta dựa vào đề suy đoán nằm trong truyền thuyết, không có được mức độ chính xác của tài liệu lịch sử ghi chép như các đời sau. Các di tích khảo cổ cũng chỉ là những điềm tựa cho sự suy đoán, tuy mức độ chính xác có thể cao hơn truyền thuyết.

            Thời Thượng cổ là thời đại của nước Văn Lang và nước Âu Lạc. Đây là thời kì bộ lạc và liên bộ lạc (1): nhiều bộ lạc có cùng ngôn ngữ, tập tục, tín ngưỡng … nói chung là đời sống văn hoá giống nhau liên kết lại với nhau và tôn người tù trưởng của bộ lạc lớn mạnh nhất làm “vua”: đó là Hùng vương của “nước” Văn Lang, cũng là tù trưởng của bộ lạc Văn Lang. Dưới Hùng vương là các Lạc hầu, Lạc tướng, tù trưởng của 14 bộ lạc kết hợp thành nước Văn lang. Cuối thời Hùng Vương (vua Hùng thứ 18) xẩy ra cuộc tranh chấp giữa hai nhóm bộ lạc là Lạc Việt (nước Văn Lang) và Tây Âu (hay Âu Việt). Lãnh tụ của nhóm Tây Âu là Thục Phán chiến thắng, sát nhập nước Văn Lang với Tây Âu thành nước Âu Lạc.

            Thời đại này theo truyền thuyết kéo dài hơn 26 thế kỉ là thời kì xây dựng và hình thành một quốc gia với chế độ tạm gọi là quân chủ thế tập và hình thức nhà nước còn sơ khai. Dựa vào truyền thuyết và tài liệu khảo cổ, ta có thể nhận ra một số đặc điểm sau đây:

  1. Chế độ phụ hệ đã được xác lập

            Xã hội đã vượt qua chế độ mẫu hệ do nông nghiệp đã phát triển nhờ có dụng cụ bằng đồng khá tinh xảo. Cuối thời Hùng Vương, tổ tiên ta cũng đã chớm bước sang thời kì đồ sắt. Vai trò của người đàn ông trong đời sống định cư định canh, trong các cuộc chiến đấu để chinh phục hoặc để tự vệ đã trở nên quan trọng hơn. Mười tám đời vua Hùng đều là nam giới (không thấy đả động gì đến một vua Hùng là nữ giới). Trong truyện Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, Sơn Tinh đem lễ vật đến trước, cưới được con gái vua Hùng và đón vợ về lãnh địa của mình. Tuy nhiên địa vị của người phụ nữ vẫn còn quan trọng như ta sẽ thấy sau này, ngay cả khi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa với chủ trương tôn nam quyền đã tràn sang.

2. Quyền lãnh đạo là thế tập

            Ngôi vua không nhất thiết phải truyền cho con trưởng, mà là truyền cho người con nào có tư cách hơn cả. Trong truyện “Bánh dầy bánh chưng”, lang Liêu là người con thứ chín trong số hai mươi hai người con trai của Hùng Vương có sáng kiến làm ra được bánh dầy bánh chưng với ý nghĩa sâu sắc tượng trưng được cho Trời, Đất, vạn vật cùng mối tương quan, lại đề cao được sự quí giá vô song của hạt gạo nuôi sống người cùng với lòng hiếu kính nhớ ơn tổ tiên (dâng cúng của ngon thức lạ). Kết quả chàng được vua cha truyền ngôi.

            Chi tiết lang Liêu sớm mồ côi mẹ, thiếu người giúp đỡ, nên được thần linh mách bảo cách làm bánh, gợi ra là thời đó đã có chế độ đa thê (hai mươi hai người con mới chỉ riêng là trai thôi không thể do một bà vợ sinh ra). Nhưng không biết chế độ này thời ấy có phổ biến như ta thấy sau này, hay chỉ là đặc quyền của tầng lớp thủ lãnh có nhiều của cải và quyền hành mà thôi.

3. Vua và dân thân nhau

            Guồng máy nhà nước đã hình thành tuy còn thô sơ. Thủ lãnh các địa phương và ngay cả vua Hùng chắc vẫn còn sống cuộc đời chất phác, gần gũi với dân chúng. Truyện “Trầu cau” cho thấy Hùng Vương hay đi thăm thú các nơi trong nước, thăm hỏi để biết nhiều chuyện của dân chúng, chứ không sống trong cung điện, xa cách với dân như vua chúa của chế độ quân chủ chuyên chế với triều đình bá quan văn võ sau này. Sách “Việt Sử Tiêu Án” của Ngô Thì Sĩ nhận xét như sau: “Nước ta đương thời Lạc Hùng (…) vua và dân tương thân nhau trong cuộc đời đến vài ngàn năm…”

             (Bản dịch của hội “Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hoá Á Châu” xb., Sài gòn, 1960).

            Kết quả của tình trạng vua và dân gần gũi nhau là vua (suy rộng ra là cả các tù trưởng, thủ lãnh, những người có tuổi, giàu kinh nghiệm) thường dạy bảo dân điều hay lẽ phải, truyền cho họ những kinh nghiệm của mình (từ đây xuất phát tục trọng lão nơi làng xóm sau này). Chẳng hạn vua chỉ cho dân vẽ mình để tránh bị thuồng luồng làm hại khi đi biển, bảo dân dùng trầu cau trong các dịp lễ nghi, giao thiệp, đặc biệt là trong hôn nhân để đề cao lòng chung thuỷ, tình khăng khít giữa vợ chồng.

            Ngược lại khi đất nước gặp biến như khi có giặc ngoại xâm thì vua sai sứ đi khắp nước để thông báo và cầu sự ủng hộ của toàn dân và được hưởng ứng. Đó là ý nghĩa biểu hiện trong truyện Thánh Gióng. Công cuộc chống ngoại xâm cần sự đồng tâm hợp lực của vua và dân: vua lo cung cấp võ khí (ngựa sắt, gậy sắt), dân lo cung cấp quân nhu, quân lương (gạo, thịt, quần áo). Kết quả là ta đã chiến thắng quân thù, bảo vệ được bờ cõi.

4. Một số đặc tính cơ bản về cá tính tâm lí và sinh hoạt văn hoá được hình thành

            Dù khoảng thời gian hai mươi sáu thế kỉ không chắc là chính xác thì thời đại của hai nước Văn Lang và Âu Lạc cũng đủ dài và ổn định (2) để hình thành một số đặc tính cơ bản, trở thành cố định đến độ sau hơn mười thế kỉ Bắc thuộc sau này, chúng vẫn tồn tại để trở thành đặc tính của dân tộc. Xin tạm kể một vài điểm tiêu biểu:

  • Cá tính: cần cù, nhẫn nại là đức tính cần có trong đời sống nông nghiệp, trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt (hay có bão lụt, hạn hán). Cần kiệm, ưa giản dị, trọng thực tế, ghét xa hoa, không thích cầu kì, viển vông (truyện bánh dầy bánh chưng). Tinh thần tập thể cao (khi người cầm quyển lãnh đạo có tài đức, sống thân dân), tinh thần bất khuất chống ngoại xâm mạnh (truyện Thánh Gióng, cuộc kháng chiến chống quân Tần, chống Triệu Đà của dân Âu Lạc).
  • Ngôn ngữ: giàu âm thanh, trọng nhạc điệu, theo cấu trúc ngữ pháp đặt xuôi, đặc biệt giàu từ cụ thể hơn trừu tượng, dĩ nhiên là phù hợp và phản ảnh trình độ sinh hoạt xã hội thời ấy.
  • Tập tục: một số tập tục dần dần hình thành như tục xâm mình, nhuộm răng ăn trầu (dùng trầu cau trong mọi lễ nghi, đặc biệt trong việc cưới hỏi), làm bánh chưng bánh dầy vào dịp tết, định các ngày lễ hội hàng năm ở các địa phương.
  • Luân lí: đề cao lòng hiếu thảo, sự chung thuỷ, tín nghĩa, trọng tình cảm hơn lí trí (các truyện Bánh dầy bánh chưng, Trầu cau, Mị Châu – Trọng Thuỷ), giàu lòng tín ngưỡng, đặc biệt biểu hiện trong việc tang ma, thờ cúng tổ tiên và sùng bái anh hùng dân tộc.   

B. Giới hạn của ảnh hưởng Trung Hoa sau thời Bắc thuộc

Suốt thời kì Bắc thuộc kéo dài hơn một ngàn năm, các viên quan cai trị người Tàu luôn luôn thực hiện chính sách của triều đình họ là đồng hoá dân Việt bị trị. Họ bắt dân Việt sống theo văn hoá của họ: mặc kiểu tàu, học chữ hán, mọi việc tang ma, cưới hỏi, mọi lễ tiết trong năm như hàn thực, đoan ngọ, trung thu v.v… đều theo phong tục tập quán Trung Hoa. Cho nên dù muốn hay không, văn hoá Việt sau thời Bắc thuộc cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá Trung Hoa.

            Sau này đuổi được kẻ đô hộ dị tộc ra khỏi bờ cõi rồi, các triều đại độc lập của ta vẫn coi văn hoá Trung Hoa như ông thầy với khuôn vàng thước ngọc đáng noi theo. Bởi thế mọi tổ chức của bộ máy chính quyển từ trung ương (triều đình) tới địa phương (đạo, lộ, trấn, tỉnh, phủ, châu, huyện), mọi chế độ như quan chế, học chế, binh chế, luật pháp, chính sách sưu thuế đinh, điền… nhiều ít đều có mô phỏng Trung Hoa. Chỉ từ làng xã, thôn xóm là có những tục lệ riêng biệt mà thôi.

            Tuy nhiên, các triều đại quân chủ ở Việt Nam, dẫu tôn sùng Nho giáo vì đó là lợi khí của chế độ, nhưng không phải bất cứ ai trong giới vua quan cũng chủ trương triệt để bắt chước Trung Hoa đến độ vong bản.

            Tinh thần, lòng tự trọng dân tộc khiến nhiều người chủ trương chỉ du nhập của Trung Hoa những gì cần thiết, ngoài ra phải giữ bản sắc của dân tôc mình. Từ giữa đời Trần, Nho giáo thịnh dần lên, sửa soạn chiếm địa vị độc tôn, vua Minh Tông (1314-1329) đã bác bỏ đề nghị của hai danh thần là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi mọi chế độ, bắt chước Trung Hoa. Nhà vua nói:

            “Nước ta đã có hiến chương rồi; Nam, Bắc phong tục khác nhau, không thể bắt    chước nhau”.

            Vua Nghệ Tông (1370-1372) cũng phê phán chủ trương nhất nhất cái gì cũng bắt chước Trung Hoa:

                        Tiên triều ta lập quốc đã tự có pháp độ riêng, chứ không theo nhà Tống. Bởi vì Nam, Bắc đều tự chủ lấy nước mình, không nên phỏng chép của nhau. Duy từ niên hiệu Đại Trị (niên hiệu thứ hai của vua Dụ Tông: 1358-1369) nhân bọn thư sinh chấp chính, họ không hiểu cái ý lập pháp của tổ tông, bèn đem cả phép cũ mà đổi dựa theo phong tục tàu, như là những việc về y phục, ca nhạc, còn nhiều việc khác nữa. Vậy từ nay việc chính trị buổi đầu, nhất thiết phải tuân theo về điển lệ năm Khai Thái (niên hiệu thứ hai của vua Minh Tông: 1324-1329). (Cả hai lời nói của hai vua kể trên là do Nguyễn Trọng Thuật dịch từ nguyên văn hán trong “Đại Việt Sử Kí Toàn Thư”, bài “Điều đình cái án quốc học”, Nam Phong tạp chí số 167, Nov.-Déc., 1931, tr. 361-367).

                Sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, giành lại được độc lập cho quốc gia thì lòng tự hào dân tộc đã khiến Nguyễn Trãi khẳng định lại lần nữa sự khác biệt của văn hoá Việt, tính độc lập của nó đối với văn hoá Trung Hoa:

                        Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu; sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc, Nam cũng khác. (“Bình Ngô đại cáo”, bản dịch trích trong “Việt Nam Sử Lược” tr. 229).

                Như vậy là các nhà lãnh đạo của dân tộc Việt qua các triều đại quân chủ chỉ mượn của Trung Hoa những gì mình cần mà thiếu như văn tự (chữ hán), cách tổ chức thượng tằng của chế độ quân chủ cùng chỗ dựa tinh thần của chế độ ấy là học thuyết chính trị luân lí của Nho giáo, còn ngoại giả những gì mình đã có như ngôn ngữ, tập tục v.v… thì vẫn giữ để phân biệt ta là ta, tàu là tàu. Tinh thần độc lập về văn hoá ấy còn mạnh hơn ở quảng đại quần chúng, điều mà ta sẽ gặp khi đi sâu vào nếp sinh hoạt và tâm tình của họ.

            Liên hệ với guồng máy nhà nước và giới cầm quyền (vua, quan, triều đình, hoàng gia), Việt Nam còn khác Trung Hoa là không có chế độ phong kiến theo đúng nghĩa của danh từ (3), cũng không có chế độ nô lệ tập thể và chế độ nô lệ phổ biến (4).

  1. Về chế độ phong kiến

            Chế độ phong kiến ở Trung Hoa có từ đời thượng cổ và hoàn chỉnh vào đời Chu (5). Trong chế độ này, vua (vương) là chủ của toàn thể đất đai trong nước. Vua đem tước vị (công, hầu, bá, tử, nam) và một phần đất đai (rộng hẹp tuỳ theo tước vị, tước vị lại tuỳ theo công lao) phong cho con cháu và các công thần của mình. Họ trở thành vua chư hầu, có toàn quyền trong phạm vi đất đai được phong ấy; có bổn phận triều cống nhà vua trong thời bình và đem quân theo lệnh gọi để giúp vua đánh giặc trong thời chiến. Trong chế độ này, tầng lớp dưới cùng của xã hội là tầng lớp nông nô đời đời làm lụng để phụng sự tầng lớp chủ nhân cha truyền con nối cả đất đai lẫn tước vị.

            Chế độ phong kiến chỉ bị huỷ bỏ bởi Tần Thuỷ hoàng đế; Tần vốn là một trong bảy nước chư hầu cuối cùng của đời Chu, diệt được sáu nước kia, phế luôn nhà Chu, thống nhất Trung quốc rồi chia nước ra làm quận huyện, bổ nhiệm thẳng các quan cai trị từ triều đình xuống để tránh nạn qua phân cát cứ thời Chiến quốc (479-221).

            Không thấy lịch sử Việt Nam ghi chép về một chế độ như trên, tuy vẫn có quan niệm vua là chủ tể cả đất đai lẫn thần dân trong nước. Dân tộc Việt giành lại được độc lập quốc gia sau chiến thắng sông Bạch Đằng thứ nhất của Ngô Quyền vào năm 938. Nhưng Ngô Quyền mất sớm, các con nối ngôi bất tài, họ Ngô suy dần để xẩy ra nạn cát cứ của mười hai sứ quân đánh lẫn nhau tương tự thời Xuân Thu và Chiến Quốc bên Tàu. Tình trạng này không thể chấp nhận được đối với nước Việt vốn đã nhỏ bé, dân tộc Việt lại đã tốn bao xương máu mới chặt đứt được gông xiềng nô lệ hơn một ngàn năm. Cho nên khi Đinh Bộ Lĩnh đủ tài sức đánh dẹp mười một sứ quân kia thì ông đã thành công chóng vánh vì hành động phù hợp với lòng dân muốn tái lập một quốc gia thống nhất đủ mạnh để chống nạn Bắc xâm truyền kiếp.

            Việc vua phong đất cho công thần chỉ được sử sách chép lại lẻ tẻ như đời Lí Thái Tông (1028-1054), Lê Phụng Hiểu là một võ tướng dũng mãnh, vốn đã có công bảo vệ ngai vàng cho vua lúc lên ngôi bị đám anh em tranh giành, sau lại theo vua đi đánh Chiêm Thành thắng trận; lúc về được vua thưởng công, ông không nhận chức tước, chỉ xin đứng trên núi Băng Sơn (quê nhà) phóng dao, dao rơi đến đâu thì xin ruộng đến đó. Vua thuận cho, Phụng Hiểu lên núi phong dao đi xa hơn mười dặm đến địa phận làng Đa Mĩ. Vua ban cho ông ruộng từ chân núi đến đó được miễn thuế. Từ đó ruộng do vua thưởng cho công thần được gọi là “ruộng ném dao” (thác đao điền). – (theo “Việt Điện U Linh” của Lí Tế Xuyên, bản dịch của Lê Hữu Mục, Khai Trí xuất bản, Sài gòn, 1961).

            Đến triều Trần, vua Thánh Tông (1258-1278) bắt các vương hầu, phò mã chiêu tập dân nghèo đói lưu lạc để khai khẩn đất hoang làm trang hộ. Trang điền có từ đấy.  Cuối đời Trần, Hồ Quí Li chuyên quyền. Ông ta đặt lệ là trừ những bậc đại vương, công chúa ra, còn thứ dân không được có hơn mười mẫu ruộng, ai có thừa phải nộp quan. (theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim).  

            Sang triều Hậu Lê, ngay từ đời vua Thái Tổ đã có chính sách quân điền. Việt Nam Sử Lược” chép:

            Bấy giờ những người không có công lao gì với nhà nước thì lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc lao lung khổ sở, lúc về một tấc đất cũng không có. Bởi thế nhà vua định phép quân điền, lấy công điền công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo trong nước khỏi chênh lệch lắm. (lược trích, tr. 237).

                Cũng theo sách kể trên, đến đời vua Thánh Tông, sau khi lên ngôi, nhà vua phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công thần. Ngài truy tặng những công thần bị giết oan ngày trước và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi về cấp cho một trăm mẫu ruộng để phụng thờ tổ tiên (tr. 241) và các quan văn võ có phần ruộng đất, lại có tiền tuế bổng. (tr. 242). Nhìn chung tuy vẫn còn chế độ ban cấp ruộng đất cho công thần, nhưng số ruộng đất ấy chỉ là công điền công thổ, đủ để cho người trực tiếp thụ hưởng có cuộc đời sung túc, con cháu về sau không phải đương nhiên sở hữu vĩnh viễn số ruộng đất ấy như kế thừa di sản là ruộng đất tư (6).

            Như vậy dưới chính thể quân chủ ở Việt Nam chỉ có chế độ chia ruộng. Trừ vua là chủ tể tất cả, kể từ họ hàng nhà vua cho đến công thần chỉ làm chủ một phần nhỏ đất đai, chứ không làm chủ tất cả ruộng đất như chế độ phong kiến thật sự. Trong số đất đai ấy, ngoài số được vua ban cấp, còn một phần do khai hoang hoặc ngăn biển thành ruộng mà có (7).

             Nói khác đi, ở Việt Nam không có một tập đoàn lãnh chúa thế tập làm chủ đất đai và giữ tước vị vua phong cho để đời đời cai trị giai cấp nông nô cũng đời đời làm nô lệ. Phần lớn ruộng đất là công điền công thổ, chỉ trừ một phần là tư điền của cả quan lẫn dân, có thể do cần cù làm ăn mà tậu được, hoặc do thừa kế di sản hợp pháp mà có (8).

                Các triều đại quân chủ đều theo chính sách kinh tế “dĩ nông vi bản”, chú trọng khai khẩn đất hoang, Đa số ruộng đất khai hoang xong ─ nhất là trong hai triều Hậu Lê và Nguyễn ─ đều trở nên công điền công thổ. Quan chức được vua sai đi trông coi việc khai khẩn chỉ cỏ nhiêm vụ của một viên chức dinh điền, mà không trở nên địa chủ hay lãnh chúa vùng đất họ tập hợp lưu dân để khai hoang. Như đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), vua sai quan đốc dân phu, khai khẩn đất hoang lập ra 42 sở đồn điền (“Việt Nam Sử Lược”, tr. 243).

            Triều đình cũng chủ trương hạn chế quyền tư hữu đất đai như Hồ Quí Li đã nói ở trên, hoặc như thời vua Lê chúa Trịnh, chúa chuyên quyền, vua chỉ còn hư vi, ngôi vị tối cao là vua cũng chỉ được lấy thuế của một nghìn xã làm bổng lộc gọi là lộc thượng tiến (“Việt Nam Sử Lược”, tr. 286). Chúa cũng đặt lệ cấm các quan không được lập trang trại nơi mình trị nhậm để tránh nạn quan ỷ quyền hiếp đáp dân mà lấy ruộng đất (“Việt Nam Sử Lược”, tr. 308).

            Sang triều Nguyễn, không thấy sử ghi chép trường hợp nào vua phong đất để thưởng công thần, mà chỉ phong chức tước, phẩm hàm, ban thưởng tiền bạc. Điều này phù hợp với chính sách trung ương tập quyền để củng cố vương quyền, áp dụng chặt chẽ nhất từ đời vua Minh Mạng (1820-1840) (9). Triều Nguyễn cũng hạn chế sự phát triển quá đáng tư hữu điền thổ bằng lệ cấm bán ruộng công. “Việt Nam Sử Lược” chép:

                        Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi đem công điền đổi ra tư điền, có nơi đem cố, bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803), nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ xã thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hết hạn ba năm lại phải trả lại. Ai giữ quá hạn ấy thì phải tội. (tr. 415)

                Việc khẩn hoang vẫn được chú trọng và cũng do quan chức dinh điền đảm trách, như Nguyễn Công Trứ được sung chức Dinh Điền Sứ mộ dân khai khẩn đất hoang lập ra hai huyện Kim Sơn ở tỉnh Ninh Bình và Tiền Hải ở tỉnh Thái Bình.

            Về tước vị cũng thế, ngoài vua và hoàng gia, không có chế độ thế tập tước vị ở giới quan chức (10). Con quan dù là đại thần cũng phải tự mình học thành tài hay lập công để có được chức tước mà không đương nhiên được tiếp nối giữ nguyên tước vị hay quyền chức của cha. Dĩ nhiên con nhà quan có ưu thế để tiến thân hơn là con nhà dân như lệ tập ấm (11) và được hưởng một vài quyền ưu tiên, chẳng hạn được chọn vào học ở Quốc Tử Giám ở kinh đô dễ dàng hơn là con nhà thường dân (12).

2. Về chế độ nô lệ

            Có thể nói không có chế độ nô lệ tập thể ở nước ta, tức không có một lớp người đông đảo bị cưỡng bức làm nô lệ cho một giai cấp gọi là chủ nô. Trong thời kì bộ lạc, sau mỗi cuộc xung đột, có thể có một số tù binh bị bắt phải làm nô lệ ở một số nhà thủ lãnh các bộ lạc chiến thắng (13). Nguyên do đầu tiên có thể là về mặt kinh tế, xã hội lúc ấy không đủ sức nuôi một số đông nô lệ, bắt buộc họ phải làm việc sản xuất hoặc phục vụ, coi như của chung của tập thể, không kể còn mất công canh chừng họ nổi loạn nữa. Nguyên do thứ hai có lẽ là cái bản tính hiếu hoà, giàu tình cảm của dân tộc Việt khiến họ đối xử nhân đạo với tù binh, làm cho mối tương quan giữa chủ và nô lệ không có sự thù hận gay gắt, dầu rằng thân phận của kẻ nô lệ đương nhiên là thấp kém, có thể bị mua bán, trao đổi, tặng dữ, hành hạ, thậm chí có thể bị giết chóc nữa.

            Vậy ở Việt Nam chỉ có chế độ nô tì trong gia đình, mà cũng không phổ biến, chỉ có ở một số nhà quyền thế giàu có mà thôi. Nếu đắc lực và được chủ tin yêu, nô tì có thể leo lên địa vị quan trọng trong nhà chủ như Mai An Tiêm (truyện Dưa Hấu) hoặc Hà Ô Lôi trong “Lĩnh Nam Chích Quái”.

            Thật thế, sau những chiến thắng, dù là chinh phục Chiêm Thành hay đánh bại quân xâm lăng từ phương Bắc, dân tộc ta cũng đều đối xử nhân đạo với kẻ bại trận. Khi ta bắt tù binh Chiêm thành đem về, cũng chỉ có một số nhỏ phải vào làm nô tì trong các nhà quan. Sử chép năm Giáp Thân (1044), vua Lí Thái Tông ngự giá thân chinh Chiêm Thành, chiếm được kinh đô Chiêm là Phật Thệ, vua Chiêm là Sạ Đẩu tử trận, vương phi Mị Ê, một số cung nữ và năm ngàn người Chiêm bị bắt đem về nước Việt. Dọc đường, Mị Ê nhẩy xuống biển tự trầm để bảo toàn danh dự. Số cung nữ biết múa hát được nhà vua cho ở cung riêng; còn những người khác được ban cho ruộng đất lập thành phường ấp làm ăn.

            Truyện thiền sư Thảo Đường còn cho thấy dân tộc Việt có tinh thần cởi mở phóng khoáng nữa. Năm Kỉ Dậu (1069), vua Lí Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, cùng nhiều dân lính đem về ban cho các quan làm kẻ hầu hạ, Một vị tăng lục (vị sư được cử giữ một chức vụ trông coi Phật sự như sư sãi, chùa chiền) được ban cho một tên hầu như vậy. Một hôm đi ra ngoài về, vị ấy thấy tên hầu kia sửa chữa cả bản ngữ lục của mình. Vị ấy rất ngạc nhiên và đem sự việc tâu vua. Vua cho đòi tên hầu ấy lên hỏi thì y ứng đối thông suốt về kinh điển nhà Phật. Hỏi lại thì tên hấu ấy nói thật ra là một vị thiền sư người Tàu theo thầy qua Chiêm, chẳng may gặp lúc chiến tranh, bị bắt làm tù binh. Đạo hiệu của ngài là Thảo Đường. Vua bèn phong cho ngài làm Quốc Sư, thụ giáo với ngài và mời ngài giảng đạo tại chùa Khai Quốc ở kinh đô. Học trò theo học ngài rất đông và lập thành phái Thảo Đường, tức là thiền phái thứ ba ở Việt Nam. (lược thuật theo “Việt Nam Phật Giáo Sử Lược” của Thích Mật Thể).

Còn đối với tù binh các nhà Tống, Nguyên, Minh thì các triều đình Lí, Trần, Hậu Lê một là do lòng nhân đạo, hai là do đường lối ngoại giao cầu hoà, củng đối xử tử tế. Sau mỗi lần chiến tranh chấm dứt, tù binh được cấp phát, quần áo, lương thực và phương tiện di chuyển để hồi hương.

                        Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể, chưa thôi trống ngực; Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa; về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hoà, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

(“Bình Ngô đại cáo”, bản dịch trích trong “Việt Nam Sử Lược”, tr. 231).

            Trong dân gian càng không có nô lệ. Năm Quí Mùi (1043) vua Lí Thái Tông hạ chiếu cấm không cho mua hoàng nam (con trai từ 18 tuổi trở lên) làm nô. Có thể có các trường hợp lẻ tẻ như con nhà nghèo đói lại đông con, phải bán bớt con nhỏ cho nhà giàu làm con nuôi, đứa ở để lấy một món tiền, những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, những đứa con hoang được nhà giàu nhận làm con nuôi, con ở (khác nô lệ). Cũng có những kẻ tự ý tìm đến các nhà quyền quí xin làm con hầu đày tớ để có chỗ nhờ cậy.

            Mặt khác, trong xã hội Việt xưa cũng không có tình trạng cách biệt quá đáng giữa các đẳng cấp đến độ đẳng cấp nọ không thèm nhìn nhõ đụng chạm đến đẳng cấp kia, không thông hôn được. Do tinh thần trọng tài năng, đức độ, bất cứ ai dù ở tầng lớp hạ tiện mà có tài có đức vẫn có thể leo lên địa vị cao sang. Trong xã hội xưa, không thiếu gì trường hợp kẻ đày tớ giỏi giang đắc lực lấy được con gái chủ, con kẻ ăn mày, con tên mõ làng mà thông minh học giỏi vẫn có thể lấy được vị tiểu thư con quan, vẫn được dự các kì thi và đỗ tiến sĩ, trạng nguyên, trở nên quan lớn trong triều (14). Tình trạng này làm cho có sự liên hệ gần gũi giữa các giai tằng xã hội để khi cần, họ dễ đoàn kết với nhau hơn.

C. Nhận xét chung về chế độ quân chủ và các triều Lí, Trần, Hậu Lê và Nguyễn

  1. Về chế độ quân chủ chuyên chế ở Trung Hoa và Việt Nam nói chung

            Chúng tôi xin bỏ qua ba triều Ngô, Đinh và Tiền Lê quá ngắn ngũi, vì sau khi gỡ bỏ được ách nô lệ của người Tàu, vua quan các triều đại ấy chưa kịp làm gì nhiều ngoài việc đặt cơ sở đầu tiên cho guồng máy chính quyền và dùng oai võ để giữ vững an ninh trật tự trong nước.

            Trước hết chế độ quân chủ ở Việt Nam được thiết lập theo mẫu mực Trung Hoa với nền tảng tinh thần là học thuyết chính trị và luân lí của Nho giáo. Học thuyết này cho rằng Trời sinh ra dân một nước nên cho người đủ tư cách (đức, tài) để trao cho nhiệm vụ thay Trời chăn dắt dân nước ấy. Người nào được chọn là người đưọc thiên mệnh (mệnh lệnh Trời sai) lên làm vua của nước để lo cho dân được sống yên ổn, no đủ bằng phương tiện là quyền cai trị dân (tức chính quyền). Nắm chính quyền trong tay, vua chọn một số người phò tá tổ chức thành guồng máy nhà nước ở trung ương tức là triều đình đóng ở kinh đô và ở địa phương (tuỳ mỗi thời mà có tên gọi khàc nhau như châu, quận, đạo, lộ, trấn, tỉnh, rồi đến phủ, huyện v.v…). Vua là vị nguyên thủ quốc gia nên chỉ có một, nhưng người giúp vua trị nước là các quan thì có nhiều, gồm một hệ thống trên dưới, to nhỏ có trật tự, có nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng.

            Vua có nhiệm vụ thay Trời trị dân, mà dân là con Trời nên vua cũng phải thương dân như cha mẹ thương con. Đó là ý nghĩa của từ thiên tử tức là đại thiên tử dân (代 天 子 民): thay Trời thương dân như con. Vì vua có một mình, không thể đi khắp mọi nơi, làm hết mọi việc được, nên vua bổ nhiệm các quan thay vua đến từng địa phương lo việc cho dân, vậy quan cũng phải thương dân như con. Quan niệm vua quan là cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu) phải thương dân, chăm sóc dân về mọi mặt như cha mẹ chăm sóc đứa con mới đẻ còn đỏ hỏn (nhược bảo xích tử) vậy.

            Đổi lại, dân chúng trong nước có bổn phận phục tùng mệnh lệnh của vua quan, vì mênh lệnh ấy được ban ra và thi hành để phục vụ quyền lợi của chính dân chúng. Công việc của vua quan phải lo cho dân thì nhiều, nhưng có thể thâu tóm vào hai lãnh vực là kinh tế và văn hoá.

  • Về kinh tế, vua quan phải lo cho dân được an cư lạc nghiệp. Nghiệp ở đây chủ yếu là nông nghiệp, làm sao cho mọi người phải có nhà ở, ruộng cầy, người trẻ khoẻ có công ăn việc làm, người già cả ốm yếu, trẻ thơ dại được nuôi dưỡng, săn sóc; trai gái đến thì phải có chồng vợ. Nước lụt thì vua quan lo tìm cách trị thuỷ (đắp đê, khơi sông, đào ngòi) để ruộng khỏi bị ngập lụt làm mất mùa, dân đói kém. Vua quan cũng phải chia nhau cúng tế Trời, Đất, quỉ thần để có được mưa gió thuận hoà, tức là cầu cho có được thiên thời kết hợp với địa lợi và nhân hoà, tức là có sự tương thông đồng cảm giữa tam tài (15) ngõ hầu đời sống được hạnh phúc.
  • Nói đến nhân hoà là đề cập đến yếu tố văn hoá. Về mặt này, vua quan phải giáo hoá dân, tức là dạy dân sống theo lẽ phải, trật tự, hoà mục ở mọi phạm vi, từ trong gia đình ra đến làng, nước. Nhưng muốn dân nghe theo mình, vua quan phải cảm hoá dân trước hết bằng cái đức của chính bản thân mình, nghĩa là tự mình phải sống gương mẫu để dân cảm phục mà noi theo. Sau đó là dạy dân biết lễ, lễ là cách thức biểu lộ cái trật tự trên dưới trong mọi mối tương quan xã hội và trong cách cư xử giữa mọi người với nhau trong mối tương quan ấy. Hỗ trợ cho lễ là nhạc, nhạc có công dụng điều hoà những tình cảm chính đính trong lòng người để chúng phát tiết vừa phải mà không quá độ thì tránh được tai hại.

            Mặt khác, trong xã hội không khỏi có những kẻ gian ác làm hại người lương thiện. Đây là lúc vua quan dùng luật pháp trừng trị kẻ có tội, đồng thời răn đe kẻ có ý định phạm tội. Ngược lại vua quan cũng dùng quyền hành của mình mà khen thưởng những người hiền lương có công với xã hội để khuyến khích mọi người noi gương tốt. Nhưng công dụng chính của hình pháp (hình phạt để thực thi luật pháp) là răn đe, giáo hoá kẻ ác cho họ trở lại đời sống lương thiện. Bất đắc dĩ mới phải dùng đến hình phạt, nhất là hình phạt nặng giết hại mạng sống con người. Người có trách nhiệm về hình án mà hiếu sát ─ cũng như những ông lãnh tụ hiếu chiến hay gây chiến tranh tàn hại sinh linh ─ là trái với đức hiếu sinh của Trời (16), tất sẽ bị nguy hại.

            Trong mối tương quan vua quan – dân chúng, dân còn có bổn phận đóng góp sưu dịch: đóng thuế bằng thóc, bằng tiền và đóng góp công sức để thực hiến các công trình công cộng như làm đường sá, cầu cống, đắp đê, xây thành v.v… Như vậy chính dân chúng làm lụng để nuôi dưỡng, phục dịch vua quan để đổi lại, vua quan dùng tài đức hơn người của mình để làm công việc tổ chức, lãnh đạo, nói cách khác là vạch kế hoạch và điều khiển việc thực hiện kế hoạch sao cho mọi ngành sinh hoạt trong nước được điều hoà, mọi người đều được sống đầy đủ, an vui.

            Nghĩa vụ vua quan như thế cũng nặng nề, tương xứng với quyền lợi lớn lao họ được hưởng; vả công việc của họ cũng không dễ dàng. Do đó tài đức hay khả năng và tư cách đạo đức cá nhân kẻ cầm quyền lãnh đạo là điều kiện không thể thiếu được, nhất là đối với vua, vị lãnh tụ tối cao. Cũng vì thế, một ông vua đang trị vì đã phải lo tìm người xứng đáng để kế vị mình, hầu sau mình việc nước được tiếp tục điều hành tốt đẹp. Đó là hành động của vua Nghiêu không truyền ngôi cho con vì con không xứng đáng, mà truyền ngôi cho ông Thuấn, vì ông Thuấn được dân tín nhiệm về đúc và tài. Đến lượt ông Thuấn cũng noi gương người tiền nhiệm của mình bằng việc truyền ngôi cho ông Vũ, vì ông này có công trị thuỷ giúp dân thoát khỏi nạn lụt.

            Chế độ quân chủ khởi thuỷ như thế cũng là tốt đẹp, thời đại Nghiêu Thuấn được coi là thời đại hoàng kim, xã hội thái bình thịnh trị đến độ đêm ngủ không cần đóng cửa, không ai thèm nhặt của rơi ngoài đường. Đã có yếu tố nhân hoà, Trời cũng chiều người mà mưa thuận gió hoà (thập nhật nhất vũ, ngũ nhật nhất phong), thời tiết thuận lợi tất đưa đến kết quả được mùa, nhân dân no ấm. Chế độ này cũng thích hợp với trình độ dân chúng sống trong nền kinh tế nông nghiệp thô sơ cách đây hàng mấy chục thế kỉ, đời sống vất chất, tinh thần còn đơn sơ chất phác (17).

            Xét thêm mối quan hệ hỗ tương vua quan – dân chúng, ta thấy mặc nhiên có một bản giao ước không thành văn: họ cùng có bổn phận đối với nhau và cùng phải làm tròn bổn phận ấy; bổn phận của bên nọ là quyền lợi của bên kia; Mà đã gọi là giao ước thì hai bên cùng phải tôn trọng bằng cách thực thi thì giao ước mới có giá trị. Khi một bên không thi hành, hay thi hành không đầy đủ, hoặc tệ hơn nữa làm trái giao ước, đương nhiên bên kia có quyền huỷ bỏ nó. Mà kẻ hay vi phạm giao ước lại là kẻ cầm quyền, vì có quyền trong tay, họ thường hay lạm quyền. Vậy khi vua quan cậy quyền ức hiếp bóc lột dân chúng khiến họ lầm than cơ cực thì lúc ấy vua quan không còn xứng đáng là vua quan nữa vì không làm đúng chức năng Trời trao cho là thương dân, chăm sóc dân như cha mẹ yêu thương và chăm sóc con cái. Họ đã trở thành giặc cướp tàn hại dân, nên dân có quyền lật đổ, thậm chí có quyền giết đi nữa.

            Cho nên Mạnh Tử, trước câu hỏi rằng Chu Vũ vương giết vua Trụ là bề tôi phản nghịch giết vua cướp ngôi, sao lại được nhà nho ca tụng, đã trả lời rằng vua Trụ bạo ngược thì không còn là vua nữa, nên Vũ Vương giết Trụ không còn là giết vua mà là giết một kẻ bạo ngược để cứu dân. Cuộc khởi nghĩa của Vũ vương là hành động của một người anh hùng có chính nghĩa vì hợp với lòng dân, cũng là hợp với ý Trời. Hành động đó đã đưa ông lên làm vua lập ra nhà Chu thay cho nhà Thương (Ân) và được coi là cách mạng (thay đổi kẻ làm trái mệnh lệnh của Trời: bỏ kẻ tàn ác, thay thế bằng người nhân đức).

            Như vậy chế độ quân chủ thoạt kì thuỷ lại có tinh thần dân chủ, tiêu biểu nhất là hai triều vua Nghiêu và Thuấn theo lối truyền hiền, dựa vào đức, tài và công nghiệp được dư luận dân chúng công nhận để truyền ngôi vua. Nhưng giai đoạn lí tưởng ấy của chế độ quân chủ sơ khai quá ngắn ngủi; nó chấm dứt khi vua Vũ truyền ngôi cho con lập ra triều đại thế tập đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa là nhà Hạ (18).

            Từ quan niệm thiên hạ là của chung của mọi người, ông vua chỉ là người hiền tài bậc nhất được uỷ thác gánh vác công việc chung chuyển sang quan niệm thiên hạ là của riêng của một người, một dòng họ tượng trưng bằng chiếc ngai vàng, là điều dễ dàng vào thời kì mà trình độ hiểu biết của dân chúng chưa cao. Ngót hai nghìn năm sau Nghiêu, Thuấn, Lão Tử còn chủ trương nhà cầm quyền cần làm cho dân no bụng nhưng rỗng óc, tức là để cho dân chúng sống trong trạng thái tự nhiên, không biết gi; còn để dân biết nhiều chỉ thêm khó cai trị, xã hội thêm loạn. Ngoài trình độ dân chúng còn thấp, tính cách mập mờ: chính quyền vốn là của dân trao cho vua để vua làm việc phục vụ dân, hay chính quyền là đặc ân Trời ban riêng cho một người bắt nguồn ở quan niệm “thiên mệnh” trừu tượng. Trời “trao mệnh” cho ai thì làm sao biết được?

            Có thể cắt nghĩa mệnh trời thể hiện ở lòng người (thiên ý tại dân tâm), mà lòng người thì luôn luôn theo thiện bỏ ác, muốn người hiền tài lên làm vua để dân được nhờ. Trong thực tế của lịch sử không phải lúc nào người ngồi trên ngai vàng cũng là người xứng đáng. Hôn quân bạo chúa như Kiệt, Trụ, U, Lệ, Néron, Lê Long Đĩnh nhan nhản trong lịch sử của chế độ quân chủ chuyên chế ở Đông cũng như ở Tây phương. Những kẻ chẳng có tài đức gì cả, chỉ dùng bạo lực giết vua cướp ngôi, cũng tự cho mình có thiên mệnh, bắt mọi người phải quì gối tung hô “vạn tuế” mặc dầu lòng người không phục (thí dụ Mạc Đăng Dung). Còn người nào nổi lên chống kẻ bạo ngược mà chẳng may thất bại phải rơi đầu thì trở nên loạn thần tặc tử. Đó là ý nghĩa câu tục ngữ Việt Nam “Được làm vua, thua làm giặc”.

            Thường thường ở mỗi triều đại, ông vua khai sáng do tài đức, do công lao đánh đông dẹp bắc, chiến thắng ngoại xâm bảo vệ hay giành lại độc lập cho nước nhà rồi lên làm vua là biết lo giữ gìn cơ nghiệp tạo nên bằng mồ hôi nước mắt và xương máu của bao người bằng cách dùng bề tôi hiền lương giúp rập, cất nhắc, thưởng phạt công minh, lo cho dân được sống yên vui no ấm.

            Nhưng sớm muộn (hai, ba hay bốn đời vua) rồi cũng đến lúc suy vi bởi nhiều nguyên nhân. Một số thí dụ: tranh chấp trong nội bộ hoàng gia, vua bỏ con trưởng lập con thứ vì yêu vợ nọ hơn vợ kia khiến cho các anh em hoàng tử, sau khi vua băng, tranh nhau ngôi báu. Hoặc do vua băng sớm, con còn ở tuổi thơ ấu cũng được bế đặt lên ngai vàng để các vị lão thần đầu râu tóc bạc cũng phải phủ phục tung hô vạn tuế rồi tâu trình việc nước (?), từ đó xẩy ra nạn phụ chính lấn quyền (19). Các thế hệ con, cháu, chắt… ông vua khai sáng thường “sướng từ trong trứng sướng ra”, không biết gì đến nỗi khổ của dân chúng làm lụng lam lũ, nếu thiếu bản chất tốt, lại không được giáo dục cẩn thận là phải thương yêu dân (vì thầy dạy thái tử, hoàng tử cũng phải sợ học trò của mình, một khi họ ngồi trên ngai vàng thì thầy cũng trở nên kẻ bề tôi, chịu quyền sinh sát của họ), khi lên nối ngôi, ở vào địa vị tối cao, có quyền tuyệt đối, không ai kiềm chế, thường dễ có khuynh hướng hưởng thụ ích kỉ, coi dân như đám nô lệ có bổn phận phải cung phụng mình. Họ dễ trở nên hôn quân bạo chúa chỉ nghe lời xu nịnh gièm pha của bọn gian thần, thái giám hoạn quan hầu hạ quanh mình, mà giết hại những người bề tôi tài giỏi trung trực hay can ngăn họ làm điều sai quấy.

            Họ cũng dễ say đắm tửu sắc, bắt dân chịu sưu cao thuế nặng, phục dịch khổ sở để xây dựng cung điện nguy nga, thưởng thức mọi thú vui xa xỉ, kể cả sa đoạ, quanh năm suốt tháng, bỏ bê việc nước. Tệ hại hơn nữa, họ có thể gây chiến tranh để thoả mãn lòng tham không đáy, hoặc chỉ để thoả một cơn tức giận, trả một mối thù cá nhân, hay chỉ để chiếm một người đẹp… mà đẩy dân chúng vào vòng binh đao khói lửa, coi mạng người như cỏ rác.

            Các thế hệ nhà nho sau này không những thừa nhận cái quyền chuyên chế vô lí ấy, mà còn phụ hoạ bằng cả một hệ thống luân lí trung quân mù quáng, đẩy ông vua lên bậc thần thánh (20), muốn làm gì mặc ý, trong khi thần dân chỉ còn biết tuân phục, nếu không sẽ phạm tội bất trung đáng chết. Chủ trương tôn quân của Khổng, Mạnh là có điều kiện (chỉ tôn ông vua xứng đáng); sau này được chế độ giáo dục khoa cử ủng hộ, chủ trương này cứ bị hiểu sai, lợi dụng, đời nọ truyền sang đời kia hàng bao nhiêu thế kỉ ở Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa như Việt Nam ta, khiến các nước Á Đông này cứ giậm chân tại chỗ hàng chục thế kỉ cho đến khi các nước phương Tây có nền văn hoá đàn em qua mặt, trở nên các đế quốc hùng mạnh đem chiến hạm tới buộc phải mở cửa cho họ vào buôn bán.

            Và ngay cả sau khi ấy, mấy ông nhà nho cầm quyền cũng chưa tỉnh giấc mơ. Tại Việt Nam, nhà nho cách mạng Phan Chu Trinh đã phải đánh thức sĩ tử tỉnh dậy khỏi giấc mộng khoa cử bằng bài thơ chấn động trường thi, trong đó có hai câu:

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,

Bát cổ văn chương tuý mộng trung (21).

Cũng chính Phan Chu Trinh với chủ trương canh tân triệt để, sau khi đi Pháp về, đã thẳng tay kéo rơi cái mặt nạ tà nho che đậy bộ mặt thật xấu xa của chế độ quân chủ chuyên chế ở Á Đông để mọi người thấy rõ đạo Nho chân chính đề cao tinh thần dân chủ (tuy không hề nhắc đến từ “dân chủ”) như thế nào:

                        Vẫn biết đạo Khổng Mạnh hay thật, nhưng bây giờ ta biết kiếm nơi đâu?   QuaTàu đem về chăng? Kiếm trong các sử sách Việt Nam này chăng? Tưởng thắp đuốc tìm cũng không thấy nữa, là vì nước Nam, nước Tàu bỏ đạo ấy đã lâu rồi.

                        Đạo Khổng Mạnh không phải là cách chuyên chế của các nhà vua mà các anh em mộng tưởng đâu. Đạo Khổng Mạnh dạy “quân dân tịnh trọng” (vua dân đều trọng) và rất bình đẳng; vua và dân đều cùng có đạo đức luân lý, nghĩa là dân phải kính trọng vua như cha mà vua cũng phải suy lòng đó mà yêu dấu dân như con đỏ vậy.

                        Trong sách Đại Học, thầy Tăng Sâm dẫn lời đức Khổng rằng: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”, từ vua cho đến dân đều phải lấy việc sửa mình làm gốc; sửa mình là việc lớn mà đức Khổng tử buộc dân và vua đều phải như thế, chẳng phải là bình đẳng lắm ru?

                        (…) Đến thời ông Mạnh, các vua chư hầu chuyên chế quá thì ông xướng lên cái chủ nghĩa dân chủ. Như ông nói rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là dân quý hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là khinh (…)

                        Đức Khổng nói rằng: vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân thì dân phải làm sao? Tiếc thay Ngài không nói đến. Ông Mạnh cũng nói rằng: dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua quý mà dân khinh, thì dân phải làm sao? Ông cũng không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi đạo Khổng Mạnh đã qua rồi thì dân Tàu cũng thế, mà dân ta cũng thế, hễ họ vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua nào thua thì mất nước; vua công bình thì dân theo, vua tàn bạo thì dân giết, thành ra đời nào bền lắm là mấy chục năm, thay đổi tranh giành gây ra lắm cuộc trị loạn, làm cho giết hại lẫn nhau: cha giết con, con giết cha, anh giết em, em giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua, không còn gì là luân thương đạo lý nữa. (trích trong “Đạo đức và luân lý Đông Tây”, bài diễn thuyết tại nhà hội Việt Nam ở Sài gòn đêm 19 tháng 11 năm 1925, trích lại trong “Phan Chu.Trinh” của Thế Nguyên). 

2. Về triều Lí (1010-1225)

            Nước Việt sang thế kỉ XI bắt đầu nhà Lí là triều đại có thời gian trị vì tương đối ổn định lâu, thời gian này bên Trung Hoa là nhà Tống (960-1279). Chủ trương tôn quân của Khổng Mạnh bên Trung Hoa đã từ lâu trở nên chủ nghĩa trung quân hẹp hòi cực đoan, tôn thờ một cá nhân, bảo vệ quyền lợi một dòng họ, đồng nhất hoá cá nhân ông vua hay dòng họ vua với quốc gia. Hậu quả là người bề tôi khi đã chọn thờ một ông vua thì sống chết chỉ biết phụng sự cá nhân hoặc dòng họ ông vua ấy mà không biết đến quốc gia, không phân biệt trung quân với ái quốc. Khi một ông vua bất tài vô hạnh mà bị lật đổ, ông ta muốn duy trì quyền lợi ích kỉ của mình, bèn tập hợp một số bề tôi trung thành với mình để cố giành lại ngôi báu, gây nên cuộc chiến nồi da xáo thịt; hoặc tệ hơn nữa là chạy ra nước ngoài “rước voi về giầy mồ”, và những kẻ bề tôi trung thành với ông vua ấy cũng hành động sai lầm theo.

            Các triều đại quân chủ thời độc lập ở nước ta nếu kể từ Lí rồi đến Trần, Hậu Lê và Nguyễn cũng được thiết lập trên cơ sở tinh thần là đạo Khổng Mạnh vốn đã truyền sang từ thời Bắc thuộc (Hán, Đường). Cho đến thời nước ta độc lập (bên Tàu là Ngũ đại và Tống trở về sau) thì đã không còn đạo Khổng Mạnh gốc với chủ trương tôn quân rộng rãi và tinh thần “dân vi quí” chứa đựng ở trong nữa. Do đó các triều vua và các thế hệ nho sĩ Việt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa trung quân hẹp hòi như đã nói ở trên.

            Tuy nhiên, dân tộc Việt do ở vị trí địa lí và hoàn cảnh lịch sử đã tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng song song, lại thêm có tinh thần cởi mở phóng khoáng, đã không nhắm mắt tôn thờ một ý thức hệ nào một cách cực đoan. Thực thế, trước khi tiếp xúc với Tây phương thì ở Việt Nam đã có ba dòng tư tưởng Phật, Lão, Nho du nhập từ Ấn Độ và Trung Hoa tịnh hành, tuy ở vào mỗi thời điểm, mỗi vị trí xã hội, địa vị của mỗi đạo có trồi sụt khác nhau. Nhìn chung lịch sử Việt Nam trước khi gặp phương Tây, không có những cuộc xung đột đẫm máu vì ý thức hệ, không có những cuộc đàn áp tôn giáo đại qui mô (22), tuy vẫn có một vài sự chèn ép giới tăng đồ Phật giáo thi hành bởi giới nho sĩ thời Nho giáo hưng thịnh, cũng là lúc Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Được như thế là nhờ ở cá tính con người Việt vốn ưa sự vừa phải, hay dung hoà mâu thuẫn mà không thích những hành động quá khích như trong sử sách Trung Hoa chép lại khá nhiều (23).

            Trong triều Lí, trước khi đạo Nho được tôn sùng thì đạo Phật đã tiến đến điểm cực thịnh với uy tín lớn lao của giới tăng đồ trong triều đình cũng như ngoài dân chúng. Lí Thái Tổ, ông vua khai sáng ra nhà Lí, xuất thân từ cửa thiền, lên ngôi thay nhà Tiền Lê bằng sự chuyền quyền êm thắm sau khi bạo quân Lê Long Đĩnh chết. Sự vận động ủng hộ của giới thiền sư ắt đã là yếu tố then chốt cho sự thay đổi triều đại này. Kết quả tất nhiên là Phật giáo được vua quan sùng tín, chùa tháp được xây dựng từ kinh đô đến thôn dã và giáo lí từ bi của đức Phật ảnh hưởng sâu đậm đến chính sách của triều đình. Học giả Hoàng Xuân Hãn nhận xét như sau trong cuốn “Lý Thường Kiệt” của ông:

                        Ở triều Lý, ít có những cuộc tàn sát vì những chuyện tiếm vị cướp quyền (…) Các đại thần cũng ít bị nghi kỵ và tàn sát như ở các đời sau.

                        Nói tóm lại sau các đời vua hung hãn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam phản loạn, đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng đạo Phật. (tr. 429)

            Đạo Phật cực thịnh trong đời Lí không phải chỉ vì vua Thái Tổ vốn là con nuôi một vị thiền sư, được giới thiền sư giúp đỡ trong từng chặng đường thăng tiến của ông, rồi vua quan triều Lí quay lại sùng đạo như một sự nhớ ơn; mà chính vì đạo đã giúp đời, nói rõ hơn là giúp cho chính quyền của quốc gia Việt mới thu hồi độc lập còn thiếu người có học, thiếu cả kinh nghiệm trị quốc (24). Chắc chắn là lớp nho sĩ đầu tiên của quốc gia Việt độc lập mà có đủ học thức để ra làm quan giúp nước đã phải theo học các vị thầy thiền sư vì giới này là lớp người Việt duy nhất thông thạo cả Nho lẫn Phật học trong và sau thời Bắc thuộc (25). Kế nghiệp Thái Tổ là Thái Tông và sau đó là Thánh Tông và Nhân Tông, giai đoạn này văn trị thì rực rỡ với công cuộc mở đường cho ngành giáo dục quốc gia: thành lập viện đại học và mở kì thi quốc gia đầu tiên, võ công cũng hiển hách với chiến công phá Tống bình Chiêm.

            Nhưng giai đoạn suy vi đến thì mê tín dị đoan nẩy sinh. Đó là do trình độ và nhu cầu xã hội lúc ấy, và cũng do đạo không được hiểu đúng. Chẳng hạn do nhu cầu có mưa để làm ruộng, nhu cầu chữa các bệnh nan y (thí dụ bệnh hiếm muộn ở hai vua Thánh Tông và Nhân Tông), người ta cầu đến các vị sư tự nhận là có khả năng làm được các việc đó. Ngoài y khoa là khả năng có thể có do sự học hỏi, còn các khả năng phi thường khác như gọi gió cầu mưa, trừ tà bắt quái v.v… thì các vị sư đã trở nên các ông thầy phù thuỷ mất rồi! Trong kho truyện cổ liên quan đến thời trung diệp nhà Lí trở về sau, có rất nhiều truyện kì quái lan rộng từ triều đình ra đến ngoài dân dã, đưa đến những hậu quả không tốt cho xã hội.

            Thí dụ Lê Văn Thịnh đậu thủ khoa trong kì thi đầu tiên ở nước ta (1075), làm quan đến bậc đại thần, chỉ vì bị ngờ dùng phép hoá cọp để giết vua cướp ngôi mà bị cách chức và đầy ra miền nước độc (việc này mà xẩy ra vào đời Hậu Lê hay Nguyễn thì đương sự ắt phải chết, còn đem hoạ đến cho cả ba họ nữa). Nào truyện Nguyễn Bông chịu chết chém để đầu thai thành thái tử Càn Đức, sau này là vua Nhân Tông, nào truyện sư Từ Đạo Hạnh hoá kiếp đầu thai thành vua Thần Tông, sau này Thần Tông mắc bệnh hoá cọp (mình mọc lông, gầm thét như cọp) phải cầu đến sư Nguyễn Minh Không (là bạn cùng tu với Từ Đạo Hạnh trước kia) chữa mới khỏi.

            Ngoài việc vua Thần Tông lên chùa làm lễ tạ Phật vì tin rằng Phật đã phò hộ cho quân Việt chiến thắng quân Chân lạp vào năm 1128 đã bị sử gia đầu tiên của Việt Nam là Lê Văn Hưu phê bình trong “Đại Việt Sử Kí” như sau:

                        Phàm việc trù tính ở trong màn trướng, quyết định được chiến thắng ở ngoài nghìn dặm, đều là công của người tướng giỏi cầm quân làm nên thắng lợi. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Thần Tông đáng lẽ phải cáo thắng trận ở Thái Miếu, xét công ở triều đường để thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc. Nay lại quy công cho Phật và Đạo, đi các chùa quán để lạy tạ, như thế không phải là cách để uỷ lạo kẻ có công, cổ lệ chí khí của quân sĩ. (trích trong bản dịch “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, tập I, Kỷ nhà Lý, tr. 300). 

            Lê Văn Hưu đã đứng trên lập trường của nhà nho để bài xích việc tôn sùng đạo Phật của các vua triều Lí. Nhưng hành động của vua Thần Tông cũng cho thấy giới cầm quyền thời ấy mộ đạo mà không hiểu đạo. Song cũng không phải vì mê đạo mà nhà Lí mất ngôi báu. Đến vua Cao Tông (1176-1210) rong chơi vô độ, bỏ bê việc nước đến nỗi tăng phó Nguyễn Thường dùng sách nho lên tiếng can ngăn để tránh hoạ suy vong mà cũng không được. Hậu quả là giặc giã nổi lên đánh phá kinh đô, vua và thái tử phải chạy lánh nạn đến nhà họ Trần, mở đường cho họ Trần đoạt ngôi vua, chấm dứt nhà Lí.

3. Về triều Trần (1225-1407)

            Nhà Trần đoạt được ngôi vua của nhà Lí là do thủ đoạn xảo quyệt của Trần Thủ Độ. Vua Lí Huệ Tông dở điên dở tỉnh nghe lời xui dại, nhường ngôi cho con gái (vì không có con trai) là Lí Chiêu Hoàng mới có bảy tuổi, rồi bỏ đi tu thì cũng như bỏ trống ngai vàng cho tay gian hùng Trần Thủ Độ đưa cháu là Trần Cảnh vào hầu hạ để cuối cùng cưới được vị nữ hoàng rồi được vợ truyền ngôi cho. Ông vua mới này cũng chỉ có tám tuổi nên mọi quyền hành nằm trong tay Thủ Độ.

            Cuộc chuyển quyền như thế tưởng đã êm thắm. Nhưng muốn ăn chắc, Thủ Độ không từ biện pháp tàn nhẫn “nhổ cỏ nhổ cả rễ”: bức tử Lí Huệ Tông, chôn sống tôn thất nhà Lí và lấy cớ kiêng huý tổ họ Trần (Trần Lí), bắt những người họ Lí trong nước phải đổi ra họ Nguyễn.

            Ngoài ra, Thủ Độ còn làm những việc thương luân bại lí là lấy cựu thái hậu Trần thị (vợ Lí Huệ Tông, là chị họ của ông ta; khi Lí Chiêu Hoàng còn tại vị, Trần thái hậu đã tư thông với ông ta rồi), bắt vua Thái Tông (Trần Cảnh) bỏ Chiêu Hoàng vì hiếm muộn để lấy người chị dâu là Thuận Thiên (chị của Chiêu Hoàng) đã gả cho Trần Liễu (anh của Trần Cảnh) vì Thuận Thiên lúc ấy đang có thai. Họ Trần là ngoại thích của họ Lí mà cướp ngôi vua của họ Lí; nay để tránh cái hoạ tương tự, họ Trần đặt ra lệ thông hôn, bắt người trong họ lấy lẫn nhau mà không lấy người ngoài.

            Tuy thế, vua tôi nhà Trần, sau khi nắm chắc được chính quyền, trong thì lo cho dân được bình trị, ngoài thì bình Chiêm phá Nguyên, bảo vệ được độc lập cho quốc gia, mở rộng được bờ cõi nên thu phục được lòng người. Ba ông vua Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông đều là những bậc anh quân, trong thời gian họ trị vì, văn trị võ công đều rực rỡ. Đặc biệt vua Thái Tông lại là một nhà Phật học uyên thâm. Ấy cũng là do việc ông bị Thủ Độ bắt bỏ vợ để lấy chị dâu nên bất mãn bỏ ngôi vua lên núi Yên Tử để đi tu. Sau nhờ sư Phù Vân khuyên giải nên ông trở về kinh đô, vừa chu toàn bổn phận làm vua, vừa nghiên cứu rồi sau viết sách thuyết giảng giáo lí nhà Phật. Ở cả hai cương vị: nguyên thủ quốc gia và nhà Phật học, ông đều tỏ ra xuất sắc.

            Trong đời Trần Thái Tông quân Mông Cổ đã sang xâm lăng nước ta lần thứ nhất. Nhờ lòng kiên trì kháng chiến của triều đình và quân dân, mặc dầu kinh đô Thăng Long đã phải bỏ ngỏ cho quân giặc vào chiếm đóng, sau đó ta cũng đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi. Ông cũng ngăn không để Thủ Độ giết Trần Liễu về tội nổi loạn, lại còn phong vương (An Sinh vương: ý là khuyên và cho được sống yên) và phong đất cho người anh ruột để xoa dịu nỗi đau mất vợ mất con. Nhà Trần có lệ rất hay là vua nhường ngôi cho thái tử vào thời gian sớm sủa rồi lên làm Thái Thượng hoàng để hai cha con cùng cầm quyền. Đây là thời kì tập sự của vua con dưới sự dẫn dắt của vua cha. Khi thượng hoàng băng thì vua đã thuần thục trong việc trị nước rồi.

            Vua Thánh Tông lên ngôi, rất thân yêu anh em, Ông nói: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú quí chung”. Rồi cho các hoàng thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm một giường rất thân ái; chỉ có lúc nào ra việc công hoặc trong buổi chầu thì mới phải phân thứ tự theo lễ phép mà thôi. (theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, tr. 128). Truyền thống thân cận giữa vua quan dân vốn có từ thời xa xưa vẫn còn được giữ ở mức nào đó dưới đời Trần. Trong “Việt Sử Tiêu Án”, Ngô Thì Sĩ chép: “Vua ban yến cho quần thần, khi rượu say đều đứng lên mà hát…” (bản dịch của hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hoá Á Châu, xb., Sài gòn, 1960).

                Trong “Hịch Tướng Sĩ”, Hưng Đạo vương cũng cho thấy nếp sống gần gũi giữa vị chủ soái có tước vương và các tướng tá của ông: “lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Hội nghị Diên Hồng, đỉnh cao của sự đoàn kết quân dân chính trong lịch sử Việt Nam không thể có được, nếu trước đó giữa vua quan dân đời Trần có sự cách biệt quá đáng. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao trong các giai đoạn lịch sử sau đó của thời quân chủ, một hội nghị như thế đã không thể được lặp lại mỗi khi có cơn quốc biến.

            Thời gian vua Nhân Tông trị vì (1278-1293) mới thật là thời gian oanh liệt nhất của triều Trần. Dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, quân đội Việt hai lần nữa đánh bại quân cường xâm Mông Cổ. Chính vua Nhân Tông đã triệu tập hội nghị Diên Hồng mời các vị bô lão trong nước đến họp để trực tiếp trưng cầu dân ý là nên hoà hay nên chiến với quân Nguyên.  

            Khi đã biết được toàn dân ủng hộ, vua tôi nhà Trần kiên quyết theo đuổi cuộc kháng chiến dù phải đối đầu với một kẻ thù hung hãn mà gót giầy xâm lược giẫm đến đâu thì ở đó ngọn cỏ cũng không mọc lên được. Hai lần quân nhà Nguyên tiến sang sau này (tức là các cuộc Nguyên xâm lần thứ hai và thứ ba), triều đình ta cũng đều phải bỏ ngỏ kinh đô Thăng Long cho quân thù chiếm đóng như lần thứ nhất, thế nước có lúc chông chênh như trứng để đầu đẳng. Thế mà nhờ nắm được đủ ba yếu tố thiên thời (dân mình  hợp với khí hậu thuỷ thổ nước mình, quân thù thì không), địa lợi (đánh giặc trên đất nhà, nắm được địa thế hiểm trở, quân thù ở trên đất lạ) và nhất là nhân hoà (chiến đấu để tự vệ nên có chính nghĩa, triều đình, quân đội, nhân dân cùng một lòng quyết chiến), quân dân ta đã lần lượt lập nên các chiến công vẻ vang Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp, Vân Đồn và cuối cùng là Bạch Đằng giang (đây là lần thứ hai), quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, giữ vững được dải giang san gấm vóc.

            Một điểm đặc sắc nữa của nhà Trần là chính sách quan chức hoá hoàng gia: hoàng thân quốc thích (cùng một dòng họ) không được ăn không ngồi rồi; lúc bình thời họ phải mộ dân khai khẩn đất hoang cũng như được huấn luyện văn võ để đảm nhận các chức vụ trị nước, và khi cần họ đều có thể cầm quân đánh giặc (26).

            Thắng giặc rồi, triều đình phong thưởng người có công, trừng trị kẻ có tội hàng giặc rõ ràng, song lại rộng lượng bỏ qua cho những kẻ mới manh tâm liên lạc với giặc bằng việc đốt bỏ nguyên cái tráp đựng những giấy tờ liên lạc ấy để làm yên lòng và cảm hoá những kẻ yếu hèn (27). Đây là một hành động biểu lộ lòng nhân từ quảng đại rất đắc nhân tâm của triều đình nhà Trần vào thời điểm mà “sau ba phen bon ngựa chiến, non sông đã muôn thuở vững âu vàng”.

            Lại thêm một điểm nổi bật nữa là sau khi làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia qua cơn nguy biến, vua Nhân Tông nhường ngôi cho con và xuất gia đầu Phật. Ông cũng là người lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần, đánh dấu giai đoạn thịnh đạt cuối cùng của Phật giáo Việt Nam thời quân chủ, để sang đời Hậu Lê thì bắt đầu suy.

            Nếu trong đời Lí, Phật giáo đứng hàng đầu thì sang đời Trần tam giáo đồng tôn. Triều đình tổ chức kì thi cho cả ba đạo Nho, Thích, Lão. Môn đồ của mỗi đạo thực hành đúng giáo lí mình tin theo: Nho nhập thế giúp đời. Phật giải thoát tâm linh, Lão tiêu dao tự tại. Điều này cắt nghĩa sự kiện rất thông thường trong đời Trần là một ông vua sau khi làm tròn sứ mạng chủ tể quốc gia, bỏ mũ miện đội mũ ni, cởi hoàng bào mặc cà sa; một ông đại thần, một viên đại tướng công đã thành danh đã toại, sẵn sàng từ bỏ địa vị giàu sang để cắt tóc đi tu. Họ có thể trở nên những bặc cao tăng đăng đàn thuyết pháp truyền giảng giáo lí cho lớp đệ tử đi sau.

            Tình trạng quân bình giữa đạo và đời mà nay ta còn thấy rõ được ở tiểu sử một số danh nhân, trong tác phẩm của một số văn gia thi sĩ là nét độc đáo của thời đại ấy. Nó xuất phát từ sự đồng tôn tịnh hành giữa tam giáo khiến trong xã hội vừa có sự phân công vừa có sự hợp tác giữa đạo lí nhập thế gian (Nho) và các đạo lí siêu, xuất thế gian (Phật, Lão). Kết quả là không có sự tranh chấp thế lực giữa các tôn giáo, không có sự giẫm chân lên nhau giữa đạo (tôn giáo) và đời (chính trị).

            Nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông, khoảng niên hiệu thứ hai là Đại Trị (1355-1369). Sau khi thượng hoàng Minh Tông mất rồi (28), Dụ Tông sống xa xỉ, ham vui chơi, trễ nải việc nước, mới nẩy mầm nội loạn (vụ con hoang Dương Nhật Lễ định dứt nhà Trần) và dẫn đến nạn ngoại xâm (quân Chiêm Thành vào cướp phá cả đến kinh đô Thăng Long; đến vua Duệ Tông thân chinh đánh Chiêm báo thù thì thua và tử trận trên đất Chiêm).

            Vua Nghệ Tông lên ngôi thì nhu nhược hôn ám để Hồ Quí Li chuyên quyền rồi thoán đoạt ngôi tôn chấm dứt nhà Trần. Rõ ràng họ Trần muốn tránh nạn ngoại thích cướp ngôi nên cho người trong họ lấy lẫn nhau, nhưng rồi cũng bị quả báo cướp ngôi nhà Lí là để cho Hồ Quí Li là ngoại thích cướp mất ngôi vua (29).

4. Về triều Hậu Lê (1428-1788), phụ nhà Nguyễn Tây Sơn (1788-1802)

            Trong lịch sử nước Việt thời quân chủ, có sáu lần kẻ cầm quyền (hay cướp quyền) bị lật đổ hoặc gặp nguy chạy đi cầu cứu ngoại bang “cõng rắn cắn gà nhà”. Bốn trong sáu lần đó là dịp cho người anh hùng xuất hiện lập nên công nghiệp cứu nước để danh thơm lại cho đời sau.

            Lần thứ nhất, Kiều Công Tiễn rước quân Nam Hán vào để cho Ngô Quyền lập được chiến công Bạch Đằng giang thứ nhất. Lần thứ nhì, Trần Thiêm Bình cầu viện nhà Minh đưa đến hoạ mất nước mười ba năm (1414-1427). Lần Bắc thuộc này tuy ngắn ngủi (30) nhưng thiệt hại lại vô cùng to tát, nhất là về phương diện văn hoá: người Tàu vẫn với dã tâm cố hữu đồng hoá dân Việt, đã tịch thu đem về Tàu và phá huỷ tại chỗ (những thứ không thể đem đi được) biết bao tài liệu quí giá của ta như sách vở, công trình xây dựng (chùa, tháp, tượng, bia…).

            Nhờ có người anh hùng áo vải đất Lam Sơn, với sự phò tá đắc lực của hiền thần Nguyễn Trãi, chiến đấu gian khổ trong mười năm trời, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, nước ta mới giành lại được độc lập. Nhà Hậu Lê trị vì được ba trăm sáu mươi năm chia làm hai thời kì: thống nhất (1428-1527) và phân tranh (1527-1788).

            Trong mười đời vua thời kì thống nhất, chỉ có vua Thánh Tông trị vì được lâu (1460-1497), còn các vua kia đều chết trẻ. Trong hai đời vua Thái Tổ (1428-1433) và Thái Tông (1434-1442) có nạn giết hại công thần, bi thảm nhất là vụ án Nguyễn Trãi, bậc đệ nhất khai quốc công thần mà phải nạn tru di khiến người đời sau phải công phẫn với cái chế độ chuyên chế độc đoán và than thở cho số phận kẻ làm tôi cái chế độ ấy hay gặp cảnh “thỏ khôn chết rồi, chó săn bị đem ra làm thịt; chim muông hết rồi, cung tên bị xếp xó; quân thù diệt rồi, mưu thần cũng tiêu vong”.

            Đời vua Thánh Tông văn trị võ công đều thịnh đạt. Nho học từ đây chiếm địa vị độc tôn trong khi Phật giáo và Lão giáo suy dần và rút vào địa vị ẩn tàng trong dân gian, nơi sơn dã. Lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử ở nước ta, vua Thái Tông cho khắc tên những người đậu tiến sĩ vào bia đá ở văn miếu, vua Thánh Tông đặt thêm lệ xướng danh các tiến sĩ tân khoa và cho vinh qui bái tổ. Những vinh dự ấy lúc đầu là để khuyến khích việc học, nhưng cũng mở đường cho tinh thần quá thiên trọng từ chương khoa cử sau này.

            Mười sáu đời vua trong thời kì phân tranh thì vua chỉ còn hư vị, thực quyền về tay chúa Trịnh hoặc một vài cường thần khác hiếp chế vua, thậm chí giết vua này lập vua khác. Mạc Đăng Dung giết hai vua Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, cướp ngôi lập ra nhà Mạc (1527-1592) mở đầu thời kì phân tranh (sử gọi là Nam Bắc phân tranh: Lê – Mạc rồi Trịnh – Nguyễn). Khi bị nhà Minh bên Tàu đe doạ, Mạc Đăng Dung thân làm vua một nước mà phải ra biên giới tự trói mình, quì gối chịu tội trước quan Tàu, đút lót vàng bạc cho họ, nộp sổ đinh sổ điền và cắt đất cho ngoại bang để cầu giữ yên ngôi vua thì thật là làm nhục quốc thể và để lại vết nhơ muôn đời không rửa sạch.

            Sau đó hai họ Nguyễn, Trịnh cùng do chiêu bài phù Lê diệt Mạc mà lên, nhưng khi thành công rồi thì chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mà gây nên cuộc nội chiến tàn hại nhân dân trong hơn một thế kỉ rưỡi (1627-1788). Cho đến khi người anh hùng Nguyễn Huệ nổi lên ở đất Tây Sơn, đuổi họ Nguyễn trong Nam, diệt họ Trịnh ngoài Bắc, phục quyền cho nhà Lê ở Bắc (vì ông biết thế lực tinh thần của nhà Lê ở Bắc còn mạnh). Nhưng nhà Lê đến đây thì đã mất hết sinh khí rồi; vua Lê Chiêu Thống bất tài nhu nhược, không giữ nổi quyền bính nữa. Trước tình hình rối loạn, quân Tây Sơn lại phải Bắc tiến lần nữa. Lần này thì vua Chiêu Thống bỏ chạy sang cầu cứu nhà Thanh bên Tàu.

            Đây là lần thứ ba người mình lại “rước voi về giầy mả tổ” và lại tạo dịp cho người anh hùng Nguyễn Huệ trổ tài đánh giặc cứu nước tạo nên chiến thắng Đống Đa oanh liệt (1789). Vua Chiêu Thống và bọn bề tôi theo đạo “trung thần bất sự nhị quân” chạy sang sống lưu vong bên Tàu, chịu biết bao nỗi đắng cay khổ nhục. Rút cục vua chết trong tủi hổ, còn bề tôi sống vất va vất vưởng cho đến lúc nhà Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn (vốn là cựu thần của nhà Lê) lên, mới đem được nắm xương tàn của cố vương trở về đất tổ.

            Ngẫm lại lịch sử, ta thấy những kẻ bất tài chỉ trông mong vào ngoại nhân để nắm quyền trong nước thường là thất bại thê thảm. Con đường dẫn tới thành công phải do người có chân tài thực đức, thành tâm vì dân vì nước và biết tự lực phấn đấu may ra mới đi tới đích.

            Về phần nhà Nguyễn Tây Sơn, tuy vua Quang Trung ở ngôi trong thời gian quá ngắn (1788-1792), ông đã bắt đầu thực hiện những cải cách mạnh bạo: dùng chữ nôm làm văn tự quốc gia thay cho chữ hán trong công văn giấy tờ chính thức và trong các kì thi (trừ lãnh vực ngoại giao phải giao thiệp với nhà Thanh). Hẳn cũng như Hồ Quí Li, vua Quang Trung muốn giảm dần ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa và xây dựng một nền văn hoá độc lập cho dân tộc. Ông cũng chấn chỉnh đạo Phật, dẹp bỏ chùa nhỏ để tập trung làm chùa lớn, chọn các vị tăng có học trụ trì, còn nhưng người thiếu đạo học đạo hạnh thì bắt hoàn tục để tránh cảnh “trốn việc quan đi ở chùa”.

            Ông còn ôm mộng lớn là tổ chức một quân đội thật hùng mạnh không những để bảo vệ giang san chống kẻ ngoại xâm mà còn định đòi người Tàu trả lại đất lưỡng Quảng là địa bàn sinh hoạt của dân Bách Việt từ thuở xa xưa. Nhưng mộng lớn chưa thành thì ông đã mất. Vua Cảnh Thịnh kế vị còn nhỏ tuổi, để người cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên tham ô dâm dật, phụ chính chuyên quyền khiến nhân tâm li tán (sau này các quan tướng Tây Sơn chia bè cánh, chống đối lẫn nhau) tạo cơ hội cho Nguyễn Phúc Ánh tập hợp lại lực lượng dấy lên ở đất Gia Định, đi đến chiến thắng, thống nhất Nam Bắc, dựng nên triều Nguyễn.

5. Về triều Nguyễn (1802 – 1945)

            Về họ Nguyễn, phải ngược dòng thời gian trước 1802, kể từ năm 1558 khi Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ đất Thuận Hoá xa xôi để được yên thân với Trịnh Kiểm, cho đến khi Trương Phúc Loan chuyên quyền (1765) thì các chúa Nguyễn đã lập được công nghiệp lớn lao đối với dân tộc là mở mang bờ cõi bằng cách di dân khai hoang lập nghiệp đem lại những vùng đất miền nam Trung Bộ, mở đường vào vùng đất phì nhiêu Nam Bộ cho dân ta ngày nay.

            Đến Nguyễn Phúc Ánh, công lao duy nhất của ông là thống nhất đất nước, tránh được cảnh một chính quyền chia rẽ thối nát tồn tại quá lâu sẽ tạo nên tình trạng rối loạn để người ngoài lại thừa cơ “đục nước béo cò”. Nhưng chính đời ông ta đã hai lần lặp lại sai lầm của lịch sử là đi cầu viện nước ngoài. Lần trước (cũng là lần thứ tư trong lịch sử), ông đã rước mấy vạn quân Xiêm vào miền Nam để đánh quân Tây Sơn. Rút cục quân ngoài chẳng giúp được gì, lại còn cướp phá tàn hại nhân dân mấy tỉnh miền tây Nam Bộ, và cuối cùng bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tành phải tháo chạy về nước (1785). Như vậy cho đến lịch sử cận đại, Nguyễn Huệ là người anh hùng dân tộc duy nhất trong đời mình đã chiến thắng oanh liệt hai đạo quân ngoại xâm khác nhau.

            Lần sau (lần thứ năm trong lịch sử), Nguyễn Ánh cầu viện người Pháp. Tuy không gây hậu quả trực tiếp là nạn vong quốc, ông đã gợi sự chú ý và mở đường cho thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa sau này. Ông đã gửi thế tử Cành mới có năm, sáu tuổi cho giám mục Bá-Đa-Lộc sang Pháp cầu viện và uỷ cho ông giám mục người Pháp nhân danh Việt Nam kí với chính phủ Pháp một hiệp ước hoàn toàn bất bình đẳng: phía Pháp có lợi rất nhiều, còn phía Việt Nam thì chỉ có lợi cho họ Nguyễn trong cuộc tranh quyền với nhà Tây Sơn thôi. Theo hiệp ước, Pháp giúp cho Nguyễn Ánh bốn tàu chiến và 1650 bộ binh, pháo binh; đổi lại Việt Nam phải nhường đứt cho Pháp cửa Hội An, đảo Côn Lôn, phải để cho người Pháp độc quyền buôn bán tại Việt Nam! Sau khi xong việc, Việt Nam phải trả nợ bốn tàu mới (trị giá bằng tiền) cho Pháp và giúp lại Pháp về người và của khi người Pháp cần đến ở phương Đông. Quả là quyền lợi quốc gia bị bán quá rẻ để phục vụ quyền lợi của dòng họ.

            Hiệp ước này về sau không được thi hành vì người được chính phủ Pháp uỷ nhiệm thi hành là bá tước De Conway, toàn quyền thuộc địa Pondichéry (ở Ấn Độ) bất hoà với Bá-Đa-Lộc nên cản trở. Sau này một người Pháp tên là Faure chép truyện Bá-Đa-Lộc có tỏ ý tiếc rẻ: “Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ Pháp mà sẵn sàng giúp ông Bá-Đa-Lộc thì có lẽ ông ấy đã lập nên cho nước Pháp cuộc bảo hộ An Nam ngay từ cuối đời thập bát thế kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công việc”. (theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim).

            Chiến thắng nhà Tây Sơn rồi, Nguyễn Ánh lên ngôi tức là vua Gia Long. Ông trả thù vua tôi nhà Tây Sơn một cách tàn nhẫn như đào mả vua Quang Trung, chém lấy đầu giam ngục tối, còn thây vứt đi, dùng cực hình với nữ tướng Bùi Thị Xuân và mấy đứa con nhỏ của bà (cho voi giầy). Đời ông cũng để xẩy ra nạn giết hại công thần như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường (31). Đến đời vua Minh Mạng thì bới tội Lê Văn Duyệt, Lê Chất (lúc ấy cả hai đã chết) để hành tội phần mộ và thân nhân của họ (32).  

            Các vua triều Nguyễn có chính sách cai trị độc đoán. Vua Minh Mạng bãi bỏ Bắc Thành (trước do Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn) và Gia Định thành (trước do Lê Văn Duyệt làm tổng trấn) để chỉ còn các quan tổng đốc hoặc tuần phủ (tuần vũ) đứng đầu các tỉnh trực tiếp nhận mệnh lệnh và chịu trách nhiệm trước triều đình. Theo ý vua Gia Long, triều Nguyễn bãi bỏ những chức tước có danh tiếng hay quyền hành quá lớn để tránh nạn vua bị lấn át, đời sau gọi là chủ trương “tứ bất” (bốn không). Đó là không đặt chức tể tướng (dưới vua là sáu vị thượng thư giữ sáu bộ: lại, lễ, binh, hình, hộ, công), không lấy người đậu học vị trạng nguyên (triều Nguyễn chỉ có người đỗ bảng nhãn là cao nhất), không lập thái tửkhông phong hoàng hậu: vợ vua chỉ là các bà phi (bất thiết tể tướng, bất cử trạng nguyên, bất lập thái tử, bất phong hoàng hậu).

            Trong triều Nguyễn đạo Nho tiếp tục được độc tôn, các đạo Phật và Lão suy, những vị cao tăng đạo hạnh cao thâm hiếm dần, đạo biến thành nhiều mối dị đoan, bị các nhà nho miệt thị.

            Để củng cố vương quyền, các vua triều Nguyễn thi hành chính sách thị uy nhiều hơn thi ân. Trong quan trường, kẻ phạm lỗi bị trừng phạt nặng, người có công thì được thưởng rỏ giọt (33). Trong chế độ khoa cử thì áp dụng qui luật trường thi thật khắt khe, áp chế hơn là khích lệ nhân tài, khuôn đúc sĩ tử vào cái khung tư tưởng trung quân hẹp hòi, thiên trọng từ chương sáo rỗng, bỏ rơi thực học. Kết quả là nền giáo dục đào tạo ra những lớp người chỉ biết tuân phục tuyệt đối, thiếu sáng kiến, có óc bảo thủ nặng nề, tình trạng xã hội đầy dẫy bất công thối nát.

            Ngay từ thời vua Minh Mạng đã có nhiều vụ nổi loạn: Phan Bá Vành (1826), Lê Văn Khôi (1833), Lê Duy Lương (1833), Nùng Văn Vân (1833) (34). Đến khi làn sóng văn minh Tây phương tràn sang thì vua quan triều đình ngỡ ngàng, chẳng biết ứng phó ra sao. Bên trong thì gây sự chia rẽ bằng việc cấm đạo Thiên Chúa, bên ngoài thì thi hành chính sách bế quan toả cảng, hầu hết giới sĩ phu tức là giới học thức trong nước đều mù mờ về nền văn minh tiến bộ của các nước phương Tây. Cũng có một vài người có dịp đi ra nước ngoài biết được tình thế phải canh tân cấp bách để đưa đất nước ra khỏi tình trạng lạc hậu làm mồi ngon cho các đế quốc thực dân (lúc ấy đang đua nhau đi chiếm thuộc địa) như Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh; người thì dâng biểu điều trần, kẻ thì tâu bày sự việc, nhưng tất cả đều bị bọn đình thần vì thiếu hiểu biết nên tự cao tự đại cũng có (35), vì sợ mất địa vị đặc quyền đặc lợi cũng có, bác bỏ tất cả những đề nghị cải cách cấp thiết (36).

            Hậu quả là đến đời vua Tự Đức, tình hình nội trị, ngoại giao đã nguy ngập lắm rồi. Trong nước thì giặc giã nổi lên như ong, nhất là ở ngoài Bắc: Tạ Văn Phụng, Lê Duy Cự, dư đảng giặc khách ở bên Tàu tràn sang (giặc Cờ Đen, Cờ Trằng, Cờ Vàng). Đặc biệt Lê Duy Cự được nhà nho nổi tiếng hay chữ nhất thời ấy là Cao Bá Quát làm quân sư phò tá. Họ Cao vốn là người học trò giỏi xuất chúng, nhưng bị chế độ thi cử khắt khe, bất công chèn ép, nên bất đắc chí, có thái độ ngông nghênh ngạo đời, dùng văn tài châm biếm từ vua, hoàng thân cho đến đại thần nên càng bị giới cầm quyền ghét bỏ, cất đầu không nổi.                                                                                                                   

            Nhưng ông cũng có dịp theo sứ bộ sang Tân-gia-ba thời ấy đã là thuộc địa của Anh, nhìn thấy sự tiến bộ của nền văn minh Tây phương, biết được rằng cái học của ta là hẹp hòi lạc hậu:

Tân-gia từ vượt con tàu,

Mới hay vũ trụ một màu bao la;

Giật mình khi ở xó nhà,

Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi!

            Thế mà rồi ông cũng bị dồn đến bước đường cùng phải dựng cờ khởi nghĩa chống lại cái chế độ đã dạy ông phải tôn quân, nhưng ông thì lại thấy nó bạo tàn, cần phải làm một cuộc cách mạng:

Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn,

Mục Dã, Minh Điều hữu Võ, Thang (37).

            Về trách nhiệm lo cho đời sống của dân chúng thì chính quyền từ trung ương đến địa phương hầu như bất lực. Nạn vỡ đê ở Hưng Yên xẩy ra mười tám năm liền, dân vùng đó đói kém, phải kéo nhau đi ăn xin, khiến phát sinh ra câu tục ngữ “oai oái như phủ Khoái kêu vỡ đê” (38).

            Đối ngoại thì từ khi tiếng súng đại bác đầu tiên từ tàu chiến Pháp bắn vào cửa bề Đà Nẵng năm 1847 (cuối đời vua Thiệu Trị) cho đến khi lần lượt mất ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862) rồi mất nốt ba tỉnh miền Tây (1867), thời gian kéo dài tới hai mươi năm. Sau đó thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhất năm 1873, rồi lần thứ hai năm 1882. Thêm mười lăm năm nữa (hoàn toàn nằm dưới triều vua Tự Đức) qua đi mà triều đình Huế vẫn còn như mơ ngủ, cứ tưởng thiên triều Trung Quốc có thể cứu được mình, nên sai sứ sang cầu viện mà không biết rằng lúc ấy người Tàu giữ nước họ cũng chưa nổi. Đây là lần cầu viện nước ngoài lần thứ sáu (chỉ riêng nhà Nguyễn cầu ngoại viện đến ba lần, chưa kể lần sai Bùi Viện sang cầu cứu Hoa Kì, nhưng không được). Quân Tàu kéo sang mấy tỉnh giáp biên giới phía Bắc. Nhưng Tàu hay Tây cũng đều là đế quốc, một đàng là đế quốc phong kiến phương Đông, một đàng là đế quốc thực dân phương Tây, cả hai đều là hổ, báo, cùng muốn ăn thịt chú cừu Việt Nam. Lần này thì con beo trẻ, khoẻ phương Tây thắng con cọp Tàu già rụng răng nên giành được con mồi Việt Nam.

            Triều đình nhà Nguyễn đánh mất nước vào tay người Pháp, chấm dứt giai đoạn lịch sử cận đại trong đó đất nước Việt Nam tuy độc lập nhưng chịu ảnh hưởng khá đậm của văn hoá Trung Hoa; ta có thể tạm gọi cái di sản văn hoá tinh thần của ông cha ta để lại sau triều Nguyễn (tạm tính đến hết thế kỉ XIX) với cái bề mặt nổi rõ lên là nền văn hoá Việt Hán. Tuy nhiên bàng bạc theo chiều rộng của cuộc sinh hoạt, và thăm thẳm theo chiều sâu của tâm hồn, cá tính Việt vẫn tồn tại cùng với ảnh hưởng của Phật giáo vừa hoà hợp, vừa nhẹ nhàng chi phối đời sống tinh thần của dân tộc ta.

            Nhận xét chung về chế độ chính trị trong suốt quá trình lịch sử Việt Nam thì thời thượng cổ với nước Văn Lang và nước Âu Lạc, trong khoảng hai ngàn năm trước công nguyên, các nhà lãnh đạo của dân tộc ta đã đoàn kết được các bộ lạc gần gũi nhau quanh đồng bằng sông Nhị để dựng nước bằng cuộc tranh đấu gay go với thiên nhiên khắc nghiệt (các thần thoại Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh, Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, tục vẽ mình) và bằng các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm (Thánh Gióng phá giặc Ân, Thục Phán thắng quân Tần) để hình thành nền văn minh trống đồng (hay văn minh Đông Sơn) trên căn bản:

  • kinh tế nông nghiệp: trồng lúa nước
  • dụng cụ sinh hoạt và sản xuất: đồ đồng, trống đồng được chọn làm tiêu biểu
  • kĩ thuật quân sự để giữ nước: chiến thuật du kích, bắn nỏ liên hoàn với mũi tên đồng và thành Cổ Loa.

            Sau thời Bắc thuộc hơn một nghìn năm, nhờ tinh thần độc lập, lòng tự trọng cùng với óc cầu tiến và cởi mở, dân tộc ta đã tiếp thu văn hoá Trung Hoa một cách có chọn lọc; ta đã mô phỏng chế độ chính trị, giáo dục, sử dụng công cụ văn hoá (chữ hán) mà không trở thành nô lệ hay tự ý đồng hoá.

            Trong chế độ quân chủ thời độc lập trải qua mười triều đại kéo dài ngót một nghìn năm, số hôn quân bạo chúa tương đối ít (nếu có thì thời gian trị vì cũng ngắn ngủi), số vua lên ngôi còn quá nhỏ tuổi nên thiếu năng lực và bị lấn quyền thì nhiều. Thật vậy, thời quân chủ tuy là chuyên chế, không có những kẻ cầm quyền cực kì bạo ngược (như Tần Thuỷ hoàng) gây ra những biến thiên nội bộ ghê gớm, viết nên những trang sử đầy thành tích máu như cung A Phòng, Vạn Lí Trường Thành xây nên bằng máu xương và nước mắt của hàng chục vạn sinh linh.

            Trái lại, vì nước nhỏ dân nghèo, lại phải thường xuyên chống nạn ngoại xâm, dân tộc Việt không ít bậc minh quân, lương thần, danh tướng. Và những người thành công trong việc trị dân giữ nước đều là những người biết thi hành chính sách thân dân, thực tâm vì đất nước, coi dân là gốc nước để được dân tin phục trong lúc bình thời, ủng hộ trong cơn quốc biến; nhờ đó chính quyền thì đứng vững dài lâu mà quốc gia thì được thái bình thịnh trị.

Chú thích cuối chương thứ nhất

(1) Các tác giả cuốn “Thời Đại Hùng Vương” (nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1973) dùng từ “bộ tộc” để chỉ hình thức phát triển của bộ lạc thị tộc (nhóm người kết hợp theo quan hệ huyết thống) tiến đến các nhóm người đông hơn kết hợp theo nhiều mối quan hệ khác nữa như lãnh thổ, kinh tế, đời sống văn hoá.

(2) Trong “Việt Nam Sử Lược”, Trần Trọng Kim cho rằng thời gian 2622 năm tính từ Kinh Dương Vương đến Hùng Vương thứ 18 (2879-258 tr. Tl.) cả thảy 20 đời vua, tính trung bình mỗi vua trị vì hơn 150 năm là điều không xác thực. Chúng tôi đồng ý là khó xác định được số năm chính xác mà chỉ ước định thôi. Theo tài liệu khảo cổ tìm được tại miền Bắc sau năm 1954, các sử gia Hà Nội xác định rằng thời đại Hùng Vương cách nay ngót 3000 năm là có thực. Vậy chỉ còn con số 18 đời vua Hùng trị vì không có tài liệu viết nên không chắc chắn mà thôi.

(3) Thời đại nước Văn Lang, anh em vua Hùng chia nhau làm thủ lãnh các địa phương không phải là chế độ phong kiến, mà chỉ là chế độ bộ lạc liên kết theo huyết thống mà thôi.

(4) Chế độ nô lệ tập thể gồm đoàn nô lệ đông đảo do những cuộc chinh phục đem về cưỡng bức lao động như của chung của tập thể. Chế độ nô lệ phổ biến là việc nuôi nô lệ phổ biến trong dân chúng, ở các tư gia. Người ta có thể mua bán, trao đổi hơặc trực tiếp với nhau hoặc ở chợ nô lệ,

(5) Đời Chu gồm Tây Chu (1134-770) và Đông Chu (770-221). Các sử gia lại chia Đông Chu làm 2 thời kì Xuân Thu (772-479) và Chiến Quốc (479-221).

(6) Một vài trường hợp hoạ hiếm như Nguyễn Trãi là bậc khai quốc công thần lại bị nạn tru di oan uổng, triều đình muốn chuộc lại lỗi xưa nên cấp ruộng để đền bù cho con cháu của ông.

(7) “… những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chỗ đất bồi ở ngoài bể đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn rồi khai khẩn thành ruộng để làm tư trang.” (“Việt Nam Sử Lược”, tr. 179).

(8) Vào giai đoạn suy thoái cuối mỗi triều đại, một số kẻ cầm quyền thất đức dùng quyền thế ép mua rẻ, thậm chí cướp đất của dân, nhưng ta không thể kết luận rằng tất cả tư điền của nhà giàu đều không phải là mồ hôi nước mắt do cần kiệm có khi hàng nhiều thế hệ mới có được.

(9) Thời vua Lê chúa Trịnh, vua chỉ còn hư vị, chúa nắm thực quyền, nên ngôi chúa cũng thế tập. Còn chúa Nguyễn trong Nam thì coi như một nước riêng rồi.

(10) Con trai quan được tập ấm là được hưởng một phần nhỏ ơn vua ban cho cha; đó cũng là phúc ấm của cha dành cho con bằng danh vị ấm sinh hay ấm thụ. Bởi vậy con quan mà chưa tự mình lập công để được danh vị hay chức tước gì thường được người ta gọi là cậu ấm hay ông ấm.

(11) Quốc Tử Giám là viện đại học quốc gia duy nhất ở kinh đô dành cho con các quan lớn theo học để dự các kì thi Hội rồi thi Đình để lấy học vị từ tiến sĩ trở lên. Con nhà dân muốn được vào học ở đó thi phài đỗ cử nhân ở khoa thi hương ở địa phương đã; mà cũng phải là người giỏi xuất sắc mới được vào học.

(12) Những nhận xét của chúng tôi về các chế độ thế tập, nô lệ, tư hữu ruộng đất, chủ yếu là trong thời kì quốc gia độc lập đã có sử ghi chép. Trước đó là thời Bắc thuộc và thời nước Văn Lang cùng Âu Lạc thì phải căn cứ vào truyền thuyết và tài liệu khảo cổ mà suy đoán. Thời Hùng Vương thì ngôi thủ lãnh các bộ lạc cũng thế tập; ruộng đất có thể còn ở trong chế độ công xã (của chung, làm chung, chia sản phẩm), Chế độ nô lệ có lẽ phổ biến hơn trong thời Bắc thuộc vì có những cuộc nổi dậy của dân bản xứ: tù nhân bị bắt, không kể kẻ bị giết, một số phải làm nô lệ; ngoài ra còn có tội nhân từ chính quốc bị đầy sang làm nô lệ cho giới quan lại người Tàu, trong đó có số nô lệ có thời hạn, hết hạn họ được tự do.

(13) Thí dụ truyện “Trạng Khiếu” chép trong “Việt Nam Văn Học Toàn Thư”, quyển II của Hoàng Trọng Miên, Văn Hữu Á Châu xb., Sài gòn, 1960.

(14) Chữ “vương” ( 王 ) là vua gồm 3 nét ngang theo thứ tự trên dưới tượng trưng cho tam tài (Trời, Người, Đất) và 1 nét sổ nồi liền 3 nết ngang ấy. Vậy vua là bậc thông tam tài, có nhiệm vụ tạo sự tương thông đồng cảm giữa tam tài.

(15) Đức hiếu sinh: Trời sinh ra muôn loài và muốn cho chúng được sống trọn vẹn cái mạng của chúng, đồng thời tạo cho chúng mọi phương tiện để sống (bản năng sinh tồn, thức ăn, chỗ trú v.v…). Cho nên muôn loài trong đó có con người đều ham sống sợ chết. Làm hại sự sống, đặc biệt là giết người, tức làm hại đồng loại, ắt sẽ mang hoạ.

(16) Có người cho rằng thời đại Nghiêu Thuấn chỉ là lí tưởng mà người xưa ước mơ chứ không có thật. Nếu thế thì cái lí tưởng mà người ta đề ra cho chế độ quân chủ cũng rất tốt đẹp. Chế độ nào xưa nay cũng đề ra lí tưởng cao đẹp và tự cho mình là hay hơn cả, nhưng thực tế có thực hiện được lí tưởng ấy hay không, có xây dựng được một xã hội công bằng trong đó con người sống hoà mục với nhau không, lại là chuyện khác!

(17) Nhà Hạ (2205-1818). Học giả Đào Duy Anh trong cuốn “Trung Hoa Sử Cương” cho rằng thời đại Nghiêu Thuấn với lối truyền hiền chỉ là huyền thoại trong đó tù trưởng các bộ lạc công cử một tù trưởng có uy tín nhất đứng đầu tất cả các bộ lạc của cả nước. Nếu thuyết này đúng thì càng xác nhận chế độ quân chủ sơ khởi có tinh thần dân chủ.

(18) Chẳng hạn vua Lê Thái Tổ thăng hà năm 49 tuổi. Con là Thái Tông lên kế vị mới có 11 tuổi. Lê Sát phụ chánh chuyên quyền, sau bị giết. Đến lượt Thái Tông thăng hà năm 20 tuổi. Thái tử Bang Cơ lên nối ngôi mới có 2 tuổi (!) tức là vua Nhân Tông. Bà Thái hậu (cũng còn quá trẻ) cầm quyền, lại nghe lời gièm pha giết hại các cựu thần khiến lòng người không phục. Ở ngôi 17 năm, Nhân Tông và mẹ bị người anh em khác mẹ là Nghi Dân ám sát để cướp ngôi. Đến lượt Nghi Dân ở ngôi 8 tháng cũng nghe lời dua nịnh giết hại cựu thần, để lại bị đám cựu thần giết và lập vua mới là Thánh Tông lên ngôi (dựa theo “Việt Nam Sử Lược”).

(19) Từ đó có các từ “thánh quân”, “thánh thượng”, “thánh thể” để tôn xưng vua, dù ông vua cũng rất trần tục chẳng ‘thánh’ chút nào! Mọi thứ của vua dùng đều đặc biệt như màu vàng chỉ dành riêng cho vua, mọi người không được dùng; thậm chí mọi hành vi của vua cũng có từ đặc biệt để chỉ: vua ăn cơm là “ngự thiện”, đi chơi là “ngự du”, đi đánh giặc là “ngự giá thân chinh”, vua chết thì nhà viết sử phải chép là vua “băng” (núi lở) hoặc “thăng hà” (lên cõi xa) v.v…

(20) Nghĩa: muôn dân đang sống dưới ách cường quyền (thế mà sĩ tử) vẫn say trong trong giấc mộng khoa cử. Trong bài kinh nghĩa ─ giải thích câu văn lấy trong Ngũ Kinh, Tứ Thư ─ phải có đủ tám vế (bát cổ).

(21) Lịch sử Phật giáo Trung Hoa chép lại 4 cuộc đàn áp Phật giáo dữ dội đến độ giết sư, phá chùa, đốt kinh gọi là “tam Võ nhất Tông chi ách” (tai ách dưới 3 đời vua có hiệu là Võ, 1 đời vua có hiệu là Tông). Đó là: 1. Năm 446, đời Thái Võ đế nhà Hậu Nguỵ – 2. Năm 574, đời Võ đế nhà Bắc Chu – 3. Đời Võ Tông nhà Đươờg (840-847) – 4. Đời Thế Tông nhà Hậu Chu (thế kỉ IX).

(22) Thí dụ hai nhân vật Dự Nhượng, Yêu Li (Đông Chu Liệt Quốc) tự hoại một phần thân thể, riêng Yêu Li giết cả vợ con để làm thích khách báo thù cho chúa; một người thất bại, một người thành công, nhưng cuối cùng cả hai đều tự sát.

(23) Các vua từ Đinh Tiên hoàng, Lê Đại Hành đến các vua nhà Lí đều nhờ các vị thiền sư làm cố vấn trong việc quốc gia đại sự.

(24) Thời kì Bắc thuộc kéo dài, kinh sách Phật bằng chữ hán theo các vị sư Trung Hoa sang đất Việt, các vị sư Việt muốn học đạo phải học chữ hán trước. Do đó các vị sư thông thái thường tinh thông cả Hán học lẫn Phật học. Hai danh nho đời Lí là Tô Hiến Thành và Ngô Hoà Nghĩa là học trò sư Trí Thiền. Mặc dù là đại thần nơi triều đình, mỗi khi đến thăm thầy, họ vẫn giữ lễ thầy trò và nghe lời dạy bảo.

(25) “Khi vua Thánh Tông lên ngôi có lập một chương trình kinh tế quân sự rất có hiệu lực. Năm 1226 ra lệnh cho vương hầu, công chúa, phò mã chiêu tập dân vô sản và phiêu lưu đi khai khẩn đất hoang làm trang trại. Lúc hữu sự thì dùng thóc khoai ấy làm quân lương và những điền tốt ấy luyện tập làm lính. Cái chế độ gia binh ấy ích lợi cho quốc gia không phải nhỏ. Lúc đánh giặc Mông Cổ, sử chép rằng các vương hầu đem quân họp đến 20 vạn người (…). Ngoài ra lại còn lối chiêu tập môn khách (giống như đời Chiến Quốc bên Tàu) cũng là công việc ─ hầu như là bổn phận ─ của các vương hầu. Các nhân tài do đó xuất hiện…” Nguyễn Đồng Chi, “Việt Nam Cổ Văn Học Sử”, phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hoá xb., Sài gòn, 1970.

(26) Một câu chuyện cho thấy lòng độ lượng của vua Trần Thái Tông. Một lần vua ban xoài cho các quan tả hữu mà quên mất một viên quan là Hoàng Cự Đà. Năm 1257 quân Nguyên sang đánh, Cự Đà xuôi thuyền trốn, gặp thuyền của thái tử ngược lên, hỏi: “Giặc Nguyên ở đầu?” Cự Đà đáp: “Không biết, hãy tìm hỏi bọn ăn xoài!”. Khi dẹp giặc rồi, thái tử xin vua đem Cự Đà trị tội, song vua nhận lỗi “quên” của mình mà tha tội cho y. (sách dẫn trên).

(27) Dụ Tông có hai niên hiệu: thứ nhất là Thiệu Phong (1341-1357); thời gian này còn Thượng hoàng Minh Tông nên vua chưa hư hỏng.

(28) Quí Li có hai người cô cùng lấy Minh Tông, một người sinh ra Nghệ Tông.

(29) Quân Minh dứt họ Hồ năm 1407 thì ngay năm đó nhà Hậu Trần lại dấy lên, đến năm 1413 vua tôi nhà Hậu Trần bị quân Minh bắt được. Đến năm 1417 Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa. Như vậy quân Minh chỉ thực sự ở yên trên đất nước ta có ba năm.

(30) Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử chỉ vì một bài thơ ngông của người con là Nguyễn Văn Thuyên.

(31) Cả hai (Lê Văn Duyệt và Lê Chất) đều là công thần theo vua Gia Long mở nước, bị vua Minh Mạng ghét từ lúc họ còn sống, có lẽ vì thái độ “công thần”. Riêng Lê văn Duyệt khi được vua Gia Long hỏi ý kiến về người kế vị thì tỏ ý muốn lập con hoàng tử Cảnh để đền công khó nhọc cho cha (lúc ấy hoàng tử Cảnh đã mất). Chắc để tránh nạn vua nhỏ tuổi, phụ chánh chuyên quyền nên vua Gia Long đã chọn hoàng tử Đảm lên nối ngôi, tức là vua Minh Mạng.

(32) Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Công Trứ (1778-1858) có cuộc đời làm quan đầy sóng gió. Đau nhất là lần đang làm tuần vũ tỉnh An Giang bị vu cáo là làm ngơ cho bọn buôn lậu qua biên giới Cao Miên, bị cách tuột làm lính thú ra Quảng Ngãi. Sau 30 năm phục vụ ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với bao công lao trong các lãnh vực hành chánh, kinh tế (Doanh điền sứ), quân sự (dẹp giặc Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân), lúc về già sau từng bước leo dần mãi mới lên được hàm phủ doãn Thừa Thiên thuộc hàng quan tam phẩm.

(33) Lê Văn Khôi là con nuôi Lê Văn Duyệt. Khi ông Duyệt bị hỏi tội thì bọn thuộc hạ cũ trong đó có Khôi bị bắt giam. Uất ức vì cha nuôi là khai quốc công thần, chết rồi còn bị hạ nhục (mộ ông bà Duyệt bị đánh trượng rồi bị xích), bản thân bị bọn quan lại tham nhũng ở địa phương hành tội oan, bọn Khôi nổi loạn, phá ngục ra bắt được viên án sát (quan trông coi về hình án) đem thiêu sống, chiếm thành Gia Định. Quân triều đình phải đánh trong ba năm mới dẹp xong. Họ hàng thân thích Khôi cũng bị vạ lây. Nùng Văn Vân là anh vợ Khôi bị truy nã cũng nổi loạn. Rõ ràng chủ trương “một người làm quan cả họ được nhờ, một người làm loạn ba họ phải tru di” gây hậu quả thật tai hại!

(34) Đa số sĩ phu lúc bấy giờ vẫn cho rằng văn minh nhất là Tàu, nhì là ta, còn các nước phương Tây là bọn Tây dương bạch quỉ cả.

(35) Bọn đình thần thủ cựu được bà thái hậu Từ Dụ hậu thuẫn. Mà vua Tự Đức lại sợ và vâng lời mẹ. Sự ngu hiếu ở đây đã gây hại lớn cho đất nước.

(36) Bình Dương là kinh đô của vua Nghiêu, Bồ Bản là kinh đô của vua Thuấn, đều ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Mục Dã ở tỉnh Hồ Nam, nơi Vũ vương khởi nghĩa diệt bạo quân Trụ rồi lập nên nhà Chu, Minh Điều là nơi vua Thành Thang khởi nghĩa diệt bạo quân Kiệt mà lập nên nhà Thương. Tương truyền cặp câu đối trên là do họ Cao thảo ra, được thêu trên lá cờ của nghĩa quân, có ý nói các vua triều Nguyễn thiếu bậc minh quân (chỉ toàn hôn quân bạo chúa), nên các ông phải khởi nghĩa để cứu dân.

(37) Phủ Khoái Châu thuộc tỉnh Hưng Yên. Hẳn là dân vùng đó đi ăn xin đều nêu nguyên quán ở phủ Khoái vì nạn vỡ đê liên tiếp làm đói kém nên phải đến nỗi này.