Trang sách úa vàng
Lâm Thụy Phong
(Petrus Ký 1964-1971 )
Sáng nay, thứ năm 1 tháng 8 năm 2024, Paris còn tinh sương. Nước Pháp “tuyệt vời” của Tây Gô-Loa, theo tin trên mạng FranceInfo, dẫn đầu về số huy chương vàng trong vài giờ ngắn ngủi. Mừng và hảnh diện với quê hương thứ hai của tôi. Bên kia bờ là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình cho tôi bầu sữa, nằm nôi, trong thời gian vừa đủ lớn. Và bên này, là người cha, có công dưỡng dục giúp tôi chen chân với chữ nghĩa, miếng khoai tây chiên, phô- mai, bon chen với đời viễn xứ dài lê thê, làm vuông tròn bổn phận của “Tây giấy -hồi tịch Pháp” (theo dòng lịch sử Nam Kỳ) đối với quốc gia “Năm Góc”.
TV gởi cho tôi một “vi-déo” về mùa len trâu, làm máu nhà quê bùn lầy nước đọng, phèn chua hai bờ bồi lở trong tôi tỉnh dậy. Viết để gởi người bên ấy và thật nhiều ân tình cho quê hương bỏ.
Tôi còn nhớ, khi tôi đã biết ráp vần i tờ Quốc Ngữ, trong các hộc tủ bàn thờ, ngoài các cuốn sách tiếng Pháp mà tôi “trớt qướt”, có những tác phẩm của các nhà văn như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo vv và vv đã ghi trong đầu non nớt của tôi những dấu ấn khó quên.
Tôi thích lối hành văn ngắn gọn, trong sáng của Tự Lực Văn Đoàn như “Bông Cúc Đen”,”Ông Đồ Bể”. Và văn phong bình dị, phóng khoáng, chân chất của “Ngọn Cỏ Gió Lùa” (Hồ Biểu Chánh), “Hương Rừng Cà Mau” (Sơn Nam). Cũng như Nguyễn văn Sâm, Thiếu Sơn, Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sền đã cho tôi ít nhiều hiểu biết về vùng đất “Tầm Thực -Nam Tiến” của tiền nhơn.
Từ một lời tiên tri “Hoành Sơn nhứt đái vạn đại dung thân” đã đưa đường chỉ lối cho cha ông ta tiến dần về phương Nam mở mang biên thùy như tầm ăn dâu. Để hôm nay, chúng tôi là kẻ hậu sanh, đứng bên dòng Tiền và Hậu Giang nhìn con nước sông đong đầy, chói lòa dưới nắng gay gắt, ngắm lục bình trôi hững hờ trên sóng đục ngầu phù sa.
Một vùng trời bao la, bao dòng người thuộc nhiều cội nguồn gia phả, bởi nhiều nguyên nhân khác nhau đã đến mở mang, khai phá, xây dựng làng mạc bao bọc bởi lũy tre làng nơi Cù lao Phố, nằm giữa hai bờ sông Đồng Nai, dưới quyền cai trị của Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh. Đốn cây phá rừng, mặc sơn lam chướng khí, hình thành vùng kinh tế cực thịnh qua tài của tướng “Minh bài Thanh”, Trần Thượng Xuyên (Chen shangchuan) dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần.
Một nhóm “phản Thanh phục Minh” khác, Dương Ngạn Địch (Yang Yandi) cầm đầu, ngủ nằm mơ thấy con “gùa” làm hỗn leo lưng con ngựa, qui mã qua Mỹ, và vì lúc đó bị truy lùng từ Quảng Đông qua Quảng Tây, dông tuốt xuống vịnh Bắc phần hành nghề cướp biển.
Chánh gốc là dọc ngang nào biết trên đầu có ai, chống nhà Thanh, được Minh triều phong tước tướng. Sa cơ lỡ vận, xách dép chạy dài, nên sẵn trớn vượt biên qua Mỹ, trình diện như người di tản “xã hội đen”, di dân theo diện trên răng dưới búa. Chúa Nguyễn thấy còn phải gờm, bèn giao cho sở “I – mi – ghờ -rê-sân” Mỹ Tho làm thủ tục tị nạn ăn cướp (“Trade, Piracy, and Resistance In The Gulf Of Tonkin In The 17th Century: Maritime East Asia In The Global, History 1550-1700” / Pr. Robert Antony).


Trên quê hương thứ hai tuyệt vời, “khách lạ” đến bằng “tàu không ai quen”, trổ tài kinh bang tế thế, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, ngoài nghề “ăn cướp”, xây dựng nên một vùng “gạo trắng nước trong” thịnh vượng, trù phú mang tên Mỹ Tho.
Gánh thứ ba, cũng “tàu lạ” cặp bến theo tin tức khí tượng cho xuồng “tuồn” lên bờ , do một thương nhân giỏi đếm tiền hơn dao búa: Mạc Cửu vun vén, chí thú mần ăn ở Hà Tiên để khuếch trương nơi đây đáng sống, sướng rêm mình, rên “mé đìu hiu”.
Theo lời những người cố cựu Hà Tiên, dòng họ của Mạc Cửu truyền được bảy đời (Thất Diệp Phiên Hàn: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam)
Nhứt môn trung nghĩa gia thanh trọng
THẤT DIỆP PHIÊN HÀN quốc sủng vinh
(Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ
Bảy lá che chống, cả nước yêu)
(Viết lại theo Patrice Trần Văn Mãnh / nghiencuulichsu. com)
Trong suốt bảy đời của dòng họ Mạc tại Hà Tiên, có thể xem người con mang hai dòng máu Tàu-Việt, kế thừa sự nghiệp khai phá vùng trời cực Tây-Nam của giang sơn gấm vóc, nổi bật hơn hết là Mạc Thiên Tích. Văn võ song toàn, trấn ải biên cương và xưng danh thi phú “Tao Đàn Chiêu Anh Các” sáng rực trời Nam.
Nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, phu nhơn là Bà Mộng Tuyết cũng là con dân của đất Phương Thành (Hà Tiên).
Và cũng nên nhắc lại cùng các anh em đồng môn Petrus Ký, Cô Lâm Yiem Yiem, Giáo Sư Pháp văn chính là ái nữ của thi sĩ Đông Hồ. Cô đã mất khá lâu và yên giấc ngàn thu tại nơi đây.
Hôm nay, nhìn con sông Tiền uốn khúc bồi lở chạy theo vườn tược ngút ngàn sum xuê cây trái từ Mỹ Tho, về Cai lậy, Cái Bè. Dọc ngang kinh rạch chia năm xẻ bảy cù lao Thới Sơn, Tân Phong, cồn Phụng, cồn Qui. Cho đến Sa đéc, Long Xuyên, Nha Mân, Long Hồ, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ, Chợ Lách. Nối con sông Hậu nghe tiếng ca vọng cổ của anh bán chiếu cắm sào bên bờ kinh Ngả Bảy. Đợi riết sao không thấy cô gái năm xưa ra đặt chiếc chiếu bông. Hay cô đã qua phà Cao Lãnh về Phong Mỹ, nấu cơm cho chồng đi len trâu ?
Tôi đứng trên đất ruộng Tân Thới, Châu Thành. Bờ đê xăm xắp nước, chạy dài huốt tầm mắt tới tận phương trời không biết là đâu. Cơn gió nhẹ thổi chỉ đủ xào xạc lá cây xoài, mít, sầu riêng, nhưng không thể làm khô những giọt mồ hôi chảy dài trên gương mặt của chúng tôi, đỏ hồng vì nắng.
Trong đầu tôi ẩn hiện rải rác đây đó giọng văn rất miệt vườn, gần gũi hơn bao giờ hết mùa nước nổi, cảnh lùa trâu đi tránh lũ ngày xưa mà tôi chưa bao giờ thấy. Ruộng bao la, mênh mông nước, những bầy trâu từ vài chục đến trăm con, lội bì bõm, chạy tung tóe bùn nước, lặn ngụp trong đồng sâu. Bầy cá lóc, trê, rô hoảng sợ nhảy thoát thân. Những người nông dân đội nón lá rách vành che mưa nắng, áo bà ba đen, cột ngang vòng cổ chiếc khăn rằn dẫn đường hay hổn hển chạy theo sau.
Một bức tranh “mộc” rất bình thường, qua lối văn bình dị, không sáo ngữ của nhà văn đầy chất “bùn chưa lắng, phèn chưa nhả”.
Mấy trăm năm trước, bao thế hệ của những con người cần cù, chịu thương chịu khó, gặp nhau nơi đây. Trong tinh thần tương thân tương ái cùng hoàn cảnh cơm áo gạo tiền, may mắn được thiên nhiên ưu đãi đã tạo nên cho họ tánh khí thật thà, chất phát, ruột để ngoài da, hiếu khách, mã thượng, trọng nghĩa khinh tài.
Nơi đây, nước vẫn chảy qua cầu, bèo bọt mây trôi. Mưa nắng hai mùa, đôi bờ bên lở bên bồi. Những con trâu không nhiều đi trước cái cầ . Mùa len trâu chỉ còn là ký ức thật xa xô , ẩn sâu trong tiềm thức .
Trâu ơi , ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng , trâu cầy với ta
Cấy cầy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa trổ bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Lâm Thụy Phong
Viết trong mùa len trâu, bỏ cây dầm, cầm tay lái.

