TQLC Cổ Tấn Tinh Châu.
Tô Văn Cấp
(Trích: Huynh Đệ Chi Binh Thủy Quân Lục Chiến)
Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu
Kính Anh Sáu Cổ Tấn Tinh Châu.
Sáng thứ Sáu 07/7/2023, Anh Chị đến uống café với 20 đứa chúng em.
Anh đến bắt tay từng đứa; khi anh chị ra về anh lại đến bắt tay từng đứa, từng đứa.
Anh hỏi em in tuyển tập Huynh Đệ Chi Binh TQLC chưa? Em nói tuần sau sẽ đưa cho anh xem.
Anh cười tươi.
Anh cho Dr. Cam Vũ xem vết bầm ở đầu gối, Mấy thằng em nháy mắt … khiến anh cười bối rối.
Anh mới cười đó rồi Anh ra đi ngày 11/7/2023 ở tuổi 88.
Đó là niềm hạnh phúc của những người lính già. Kính chúc Anh lên đường bằng an.
***
TQLC Cổ Tấn Tinh Châu sinh năm 1935, theo học Truờng Petrus Ký (1948-1954), 1955 tốt nghiệp Thiếu Uý Khoá 5 Trử Bị Thủ Đức, tình nguyện về Binh Chủng TQLC, lần lượt giữ các chức vụ trung đội, đại đội và năm 1964 là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ.2/TQLC.
Cuối năm 1965, anh thuyên chuyển về Trường Võ Bị Đàlat, 1968 về Bộ Nội Vụ, 1970 về Phủ Thủ Tướng. 1971-1974 Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. 1/1975 Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát.
Trong 10 năm ở TQLC, có 3 biến cố đáng nhớ xảy ra đối với anh:
-Em ruột là Đại Uý Cổ Tấn Tịnh Châu thuộc TĐ.5/TQLC, tử trận năm 1966.
-Bắt dân quân Trung Cộng trên đảo Hoàng Sa.
-Chính Lý 1964: Bắt Trung Tướng Tôn Thất Đính, theo lệnh Trung Tướng Trần Thiện Khiêm.
Xin giới thiệu bài viết của TQLC Cổ Tấn Tinh Châu về 2 biến cố chính trị.
***
Bắt Dân Quân Trung Cộng Trên Đảo Hoàng Sa:
Vào khoảng đầu năm 1959, tôi là Trung Úy Đại Đội Trưởng ĐĐ3/TĐ2 đang đóng tại Cam Ranh thì nhận được lệnh của Chỉ Huy Trưởng TQLC/VN là Thiếu Tá Lê Như Hùng và Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 là Đại Úy Nguyễn Thành Yên, bảo tôi đem đại đội ra kiểm soát các đảo trong quẩn đảo Hoàng Sa là Pattle (đảo chánh), Robert, Duncan, Drumont và Money. Khi đến quần đảo Hoàng Sa thì tôi đóng quân tại đảo Pattle với hai trung đội, còn một trung đội thì đóng trên đảo Robert. Hai ngày sau tôi nhận được lệnh di chuyển bằng chiến hạm do HQ Trung Úy Vũ Xuân An làm Hạm Trưởng đến kiểm soát đảo Ducan, sau này tên Việt Nam là đảo Quang Hòa, cách đảo Pattle chừng 1 giờ 30 phút đi bằng tàu.
Tôi chỉ đi với một trung đội (+), phần còn lại đóng và giữ hai đảo Pattle và Robert. Tàu chạy được khoảng gần một giờ thì Hạm Trưởng Vũ Xuân An chiếu ống nhòm và nói với tôi là trên đảo Ducan có lá cờ nhưng không phải là cờ đỏ sao vàng, rồi anh đưa ống nhòm cho tôi xem. Sau khi quan sát kỹ, tôi nói với anh đó là cờ Trung Cộng, cờ đỏ 5 sao vàng.
Tôi và Hạm Trưởng hội ý với nhau và quyết định dừng tàu lại để báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, vì thời gian đó TQLC còn dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Sau chừng một tiếng thì chúng tôi nhận được lệnh thượng cấp cho chiếm đảo Ducan.
Chiến hạm chở chúng tôi không phải là loại tàu đổ bộ nên tàu phải đậu cách bờ trên một cây số vì đây là bãi san hô, không thể vào gần hơn được cũng không có xuồng để vào bờ. Tôi có nêu vần đề khó khăn này với Hạm Trưởng và yêu cầu báo cáo về BTL/HQ thì tôi được lệnh “Bằng mọi giá phải chiếm.”
Đây là lúc khó khăn nhất mà tôi “đơn thân độc mã” phải quyết định một mình, không liên lạc được với Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Thành Yên để vấn kế. Không có xuồng thì phải lội trên bãi san hô gập ghềnh ngập nước nông sâu chứ đâu phải bãi cát phẳng phiu như các quan to ngồi ở BTL nghĩ rồi cho lệnh “Bẳng mọi giá!” Rõ là “lệnh” đi với “lạc”.
Đảo Ducan hình móng ngựa, có cây cối khá nhiều, nhìn lên đảo tôi thấy có hai dãy nhà vách cây lợp lá, thấp thoáng có bóng người đi lại sinh hoạt bình thường, dường như họ không biết có Hải Quân và TQLC/VN đang chuẩn bị tấn công họ để chiếm lại đảo.
Khi có lệnh phải chiếm đảo “bằng mọi giá” mà tàu không vào sát bờ được, tàu cũng không có xuồng đổ bộ, để hạn chế tối đa thiệt hại cho đơn vị mình, tôi đã yêu cầu Hạm Trưởng yểm trợ hải pháo, tác xạ tối đa lên mục tiêu trước khi TQLC đổ bộ. Nhưng sau khi quan sát tình hình trên đảo, tôi thay đổi ý định và yêu cầu HQ chỉ tác xạ lên mục tiêu khi chúng tôi đã nổ súng trước. Sở dĩ tôi thay đổi kế hoạch hỏa lực yểm trợ vì những lý do:
1/ Cờ Trung Cộng rõ ràng trên đảo, nhưng chưa xác định được những người trên đó là quân hay dân hoặc cả hai lẫn lộn, nếu HQ tác xạ hải pháo lên đảo trước thì chắc chắn có thương vong, chết dân tội nghiệp.
2/ Dường như lực lượng trên đảo không biết sắp bị tấn công nên tôi chưa xin HQ tác xạ lên mục tiêu trước để giữ yếu tố bất ngờ.
3/ Nếu trên đảo là quân Ttung Cộng có vũ khí, khi HQVN nổ sung trước, coi như báo động cho họ chạy ra tuyến phòng thủ thì khi TQLCVN bì bõm lội nước tiến lên thì chắc chắn sẽ là những tấm bia di chuyển dưới nước để quân địch trên bờ tác xạ, thiệt hại cho TQLC là chắc chắn nhưng chưa chắc đã chiếm được đảo.
Đây là những giờ phút quan trọng nhất của các cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận. Phải thi hành như thế nào giữa cái lệnh của thượng cấp “bằng mọi giá” mà cái giá là sinh mạng của người lính? Mạng sống của người lính kéo theo mạng sống của gia đình vợ con họ ở hậu phương.
Đành rằng nhiệm vụ của người lính là hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc, nhưng thượng cấp ở tuyến sau, ở hậu phương cứ nhắm mắt ra lệnh bắt lính tại chiến trường hy sinh một cách không cần thiết, hy sinh vô ích cho một mục tiêu không đáng, hay mục đích cá nhân của người ra lệnh thì quả thật lệnh này là “lệnh lạc”.
Tình hình địch trên đảo không rõ ràng, không cung cấp phương tiện đổ bộ nhưng lệnh ra thì phải thi hành, mà tôi là cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận, sống chết của đồng đội, của thuộc cấp nằm trong tay tôi, phải thi hành như thế nào đây? Mạng sống của con người, kể cả hai phía ta và địch đâu phải là con giun, con trùng, thượng cấp ở hậu phương đâu có đẻ ra chúng tôi, đâu có biết mạng sống quý như thế nào? Do đó tôi yêu cầu HQ sẵn sàng và chỉ trực xạ và bắn tối đa lên mục tiêu khi có súng của địch quân từ trên đảo bắn vào TQLC chúng tôi đang lội nước, đạp lên đá san hô tiến vào bờ.
Chúng tôi đổ bộ xuống, tiến quân rất chậm và khó vì bước trên đá san hô. Khi đến gần bờ thì nước lại sâu nên tiến quân không nhanh được, có nơi chúng tôi phải kéo binh sĩ lên khỏi những vũng sâu. Vừa tiến quân vừa hồi hộp, nếu lúc này có tiếng súng nổ, dù chỉ một vài cây AK trên đảo bắn ra thì TQLC chịu trận nằm giữa hai làn đạn: đạn của địch từ trên dảo bắn ra và hải pháo của quân bạn HQ từ ngoài biển tác xạ vào, thương vong chắc chắn là lớn với cái lệnh là “bẳng mọi giá”! Mà cái “giá” là chính thân xác của anh em TQLC chúng tôi.
Rất may mắn, phải gọi là may mắn chứ không thể nói là tài ba, lính TQLC không phải là mình đồng da sắt mà bắt xung phong vào lửa đạn, đã không có một tiếng súng nổ khi chúng tôi hô “Xung phong…” ào ạt tiến lên đảo, bắt được tất cả là 60 “thanh niên” không trang bị vũ khí, rồi đưa ra chiến hạm của Trung Úy An bằng xuồng của Trung Cộng.
Tôi suy nghĩ đây không phải là thường dân Trung Cộng mà là dân quân, chắc chắn chúng phải có vũ khí, nhưng chúng đã chôn giấu kỹ để khỏi lộ diện là mang quân đi xâm lăng nước láng giềng mà chỉ là giả dạng thường dân đi tha phương “cẩu sực” mà thôi, ngoài ra còn có mục đích để dò phản ứng của VNCH và Hoa Kỳ nữa. Vì vào thời điểm này Trung Cộng còn quá yếu so với Hoa Kỳ.
Nghĩ vậy, nhưng đó là chuyện của thượng cấp, còn tôi chỉ là cấp đại đội trưởng TQLC đã hoàn tất nhiệm vụ, đã bắt được “dân TC” trên đảo, có nghĩa là đã thi hành nhiệm vụ xong, không tốn một viên đạn, máu TQLC có chảy nhưng do san hô đâm. Chúng tôi để nguyên hai dãy nhà đã xây cất được 5 hay 6 tháng rồi, chúng tôi chỉ tịch thu lá cờ Trung Cộng mà thôi. Sau đó chiến hạm cũng phát giác quanh đảo Ducan thêm 5 ghe nữa, chúng tôi đuổi theo bắt được và kéo về đảo chính Pattle nơi Đại Đội 3/TĐ2, còn hơn 60 “dân Trung Cộng” thì đem về Đà Nẵng.
Chiều hôm đó Thiếu Tá Lê Như Hùng CHT/TQLC đã dùng máy bay Dakota (C47) bay vòng vòng trên đảo Pattle để khuyến khích khen ngợi tinh thần anh em binh sĩ, vì ở Hoàng Sa không có sân bay.
Một tuần sau, số người bị bắt trên 5 ghe được đưa trở ra đảo Pattle và thả họ cùng trả mấy chiếc ghe lại cho họ. Còn 60 dân (quân) Trung Cộng bắt được trên đảo Ducan thì một tháng sau trao trả sang Hồng Kông. Và sau đó thì TQLC chỉ đóng quân trên 2 đảo Pattle và Robert mà thôi, không có ai đóng quân trên đảo Ducan nữa.
Tôi xin nhắc lại là vào thời điểm 1959, tôi nghĩ Trung Cộng chỉ muốn dò phản ứng của VNCH ra sao mà thôi, vì khi đó Trung Cộng chưa đủ mạnh để “bắt nạt” các quốc gia trong vùng, và nhất là đối với Hoa Kỳ là đồng minh của VNCH, có lực lượng hải quân hùng mạnh trên biển Đông nên Trung Cộng chưa thể ngang nhiên đem quân xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chưa thể ngang nhiên vẽ cái “lưỡi bò” trên biển Đông như ngày nay.
***
TĐ2/TQLC Và Những Biến Cố Chính Trị
“Thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã xảy ra hai cuộc đảo chánh mà hậu quả đưa đến cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa đã xẩy ra nhiều cuộc chỉnh lý mà hậu quả là một số tướng, tá bị giết và tình hình chính trị thêm rối ren. Đã có nhiều hồi ký và tài liệu nói về những biến cố này, nhưng có những trái ngược nhau và nhiều sự thật chưa được sáng tỏ. Những biến cố này có nhiều liên quan đến sự tham dự một số đơn vị quân đội, trong đó có TQLC.
“‘Kỷ luật là sức mạnh quân đội’ và ‘Thi hành trước, khiếu nại sau’ là hai yếu tố khiến Binh Chủng Tổng Trừ Bị TQLC chúng ta, dù muốn dù không, trong giai đoạn đó gồm các TĐ1, 2, 3 và 4 cũng bị kéo vào cơn lốc này. Tuy nhiên đa số chúng ta, nhất là những anh em trẻ sau này chưa biết nhiều về vai trò của một số TQLC đi trước. TQLC Cổ Tấn Tinh Châu là một trong số những người đó, đã ghi lại những gì có liên quan tới những biến cố này trong phạm vi một quân nhân TĐ2/TQLC. Bài viết của MX Cổ Tấn Tinh Châu tuy không đi sâu vào chi tiết của các TĐ1, TĐ., và TĐ4 mà chỉ chú trọng nhiều về TĐ2 nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn khá chính xác về tình hình chung.”
(trích bài viết của TQLC Saigon Tôn Thất Soạn)
Chỉnh Lý Năm 1964.
Ngày 29/ 01/1964, khoảng 22:00 giờ, tôi nhận được lệnh từ một vị tướng ngoài TQLC là đem Tiểu Đoàn 2 TQLC tăng phái cho Vùng 3 Chiến Thuật để tham dự một cuộc hành quân đặc biệt ngay và BTL/TQLC sẽ xác nhận bẳng công điện sau.
Một tiếng đồng hồ sau, khoảng 23:00 giờ, một đại úy của Vùng 3 Chiến Thuật đến trao cho tôi sự vụ lệnh của Vùng 3 để di chuyển vào Tiểu Khu Gia Định, ông ta nói với tôi là lệnh thượng cấp mà không cho tôi liên lạc và tiếp xúc với bất cứ ai cho đến khi cuộc hành quân hoàn tất. Thời gian này, tất mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của Vùng 3 Chiến Thuật.
Ngay sau đó xe vận tải đến chuyển quân TĐ2 vào Tiểu Khu Gia Định. Đến Tiểu Khu tôi trình diện Trung Tá Tồn, Tiểu Khu Trưởng (TKT). Trong phòng của TKT có Trung Tướng Trần Thiện Khiêm và Trung Tướng Nguyễn Khánh.
Trung Tướng Khiêm nói với tôi: “Lệnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng giao cho anh đi bắt Trung Tướng Tôn Thất Đính và Trung Tướng … về Tổng Tham Mưu, anh cần tin tức gì thì hỏi Trung Tá Tồn sẽ cho biết.”
Tôi hỏi về an ninh của tư dinh Trung Tướng Đính thì được biết có khoảng một trung đội lo an ninh và canh gác. Phương tiện liên lạc thì điện thoại đã bị cắt rồi. Có một chiến xa sẽ trình diện khi chúng tôi tới mục tiêu. Nhận được đặc lệnh truyền tin để liên lạc với thượng cấp và đơn vị bạn.
Tôi ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Hay, ĐĐT/ĐĐ2 thi hành nhiệm vụ này. Theo lệnh của thượng cấp, tôi còn ra lệnh cho ĐĐT/ĐĐ3 là Đại Úy Nguyễn Năng Bảo đi bắt một trung tướng nữa, nhưng nay tôi không nhớ là ông tướng nào (trong số 4 ông tướng: Kim, Đôn, Xuân, Đính). Ngoài ra còn hai trung tướng nữa trong số 4 ông thì có đơn vị bạn nhận trách nhiệm đi bắt.
Đại Đội 2 của Đại Úy Hay đã di chuyển lối 2, 3 phút thì tôi lại lo là Đại Úy Hay tánh nóng có thể làm điều bất lợi cho Trung Tướng Đính nên tôi vội lấy xe chạy đến tư dinh Tướng Đính (nằm trên đường Thống Nhất gần hãng xăng Shell). Vừa đến nơi tôi đã thấy Đại Úy Hay cho bố trí 4 khẩu SKZ 57ly bên kia đường đối diện nhằm vào dinh Tướng Đính! Tôi nói anh Hay nên lo giữ an ninh bên ngoài thôi để chờ tôi liên lạc với Trung Tướng Đính trước đã.
Ngay lúc đó có một chuẩn úy và một xe thiết giáp đến trình diện tôi, anh ta là trưởng toán chiến xa theo như lệnh đã ấn định trước. Tôi nói với anh ta đợi ở ngoài với Đại Úy Hay. Tôi đến cửa dinh thấy bên trong có khoảng hai tiểu đội Nhảy Dù đang bố trí dọc theo hàng rào sắt phía trước. Một vị sĩ quan đến hỏi tôi là ai, cần gì?
-Tôi, Thiếu Tá TĐT/TĐ2 TQLC muốn gặp Trung Tướng.
Sĩ quan này vào rồi trở ra nói chỉ một mình tôi được vô mà thôi. Tôi nói với anh ta:
-Anh chờ, tôi sẽ trả lời anh sau.
Tôi bàn với Đại Uý Hay, nhưng ông khuyên tôi không nên vào một mình, chú cận vệ và anh mang máy truyền tin cũng đòi đi theo nhưng tôi không cho. Tôi nói Đại Uý Hay:
-Anh cứ yên chí đi, không lẽ Trung Tướng… Nếu trong vòng 30 phút mà anh thấy tôi chưa trở ra thì anh biết phải làm gì rồi.
Tôi một mình đi vào dinh, tôi chào Trung Tướng Đính, chưa kịp xưng danh trình diện thì ông đã hỏi tên tôi và ai ra lệnh tôi đến đây làm gì?
Tôi trình diện tên cấp bực, đơn vị rồi nói:
-Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra lệnh tôi đến mời Trung Tướng vô Bộ Tổng Tham Mưu ngay bây giờ (mặc dù đây là lệnh bắt chớ không phải mời).
Trung Tướng Đính lấy điện thoại gọi, thấy vậy tôi nói:
-Thưa Trung Tướng, đường dây điện thoại bị cắt rồi.
Trung Tướng nói tôi ngồi đây uống café chờ ông thay quần áo.
Vài phút sau ông tướng bước ra với quân phục worsted vàng, mũ đỏ Nhảy Dù. Tôi nói Trung Tướng cứ đi xe của Trung Tướng, tôi sẽ theo sau lên Bộ TTM.
Sau khi giao Tướng Đính cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tôi trở về Tiểu Khu Gia Định. Theo lệnh, tôi cho một đại dội di chuyển lên Bộ TTM để giữ an ninh phòng họp của các tướng lãnh, kể từ đó, TĐ2/TQLC nhận lệnh làm trừ bị cho Vùng 3 Chiến Thuật.
Ngay sau đó tôi thông báo cho Bộ Tư Lệnh TQLC và hậu cứ TĐ2 biết vị trí của Tiểu Đoàn 2. Mấy ngày sau TĐ2 được trả về hậu cứ và tiếp tục hành quân trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật1
Nhận xét về Chỉnh Lý 1964.
Theo tôi nghĩ, việc chỉnh lý này đương nhiên là phải do Mỹ chủ trương rồi, còn Trung Tướng Khiêm, Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và Tướng Khánh, Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, là người thi hành, sau đó thì Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra tuyên cáo là các tướng bị bắt vì chủ trương Trung Lập thân Pháp. Còn Trung Tướng Dương Văn Minh không hay biết gì cho đến lúc Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đến tư dinh của ông Minh bắt Thiếu Tá Nhung đem về trại Hoàng Hoa Thám ông Minh mới biết chuyện gì xảy ra.
Từ khi nhận lệnh tăng phái cho V3CT đến lúc nhận lệnh đi bắt các Tướng, tôi vẫn chưa biết mục đích của cuộc hành quân đặc biệt này là gì cho đến trưa ngày 30/01/64 tôi mới biết đó là cuộc chỉnh lý để bắt 4 Tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính.
TQLC Cổ Tấn Tinh Châu.
***
“Anh Sáu” Cổ Tấn Tinh Châu.
Khi anh tốt nghiệp trường Trung Học Petrus Ký năm 1954 thì tôi (Tô Văn Cấp) mới nhập học lớp Đệ Thất, như vậy tuy cùng là đồng môn nhưng cách nhau 7 năm nên tôi không biết anh.
Anh là một trong những Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên của TĐ2/TQLC. Năm 1965 khi anh rời TĐ2/TQLC về Trường Võ Bị thì tôi mới từ TĐ5 thuyên chuyển về TĐ2, do đó tôi chưa có dịp được trình diện anh.
Tôi quen biết em ruột của anh: Đại Uý Cổ Tấn Tịnh Châu TĐ5/TQLC. Châu tử trận vào năm 1965. Nhưng với anh Cổ Tấn Tinh Châu thì tôi mới được tiếp xúc kể từ khi anh di chuyển từ San Diego về Litlle Saigon, sinh hoạt với Hội TQLC Nam CA.
Tuy xuất thân cùng một học đường, phục vụ cùng một đơn vị – TĐ.2/TQLC, nhưng vì là kẻ “hậu sinh” nên thời gian đầu, khi anh về sịnh hoạt với Hội TQLC Nam CA, tôi chưa dám “bắt quàng làm họ”, nhưng dần dần với nụ cười, lời thăm hỏi của anh làm mọi người lại gần anh hơn. Tôi trông thấy anh mặc bộ quân phục TQLC với bảng tên màu tím TĐ2 (Trâu Diên) khiến tôi xúc động, nên từ đó tôi gọi anh là “Anh Sáu” Cổ Tấn Tinh Châu thay vì “Đại Tá”.
Gần anh tôi mới nhận ra sự khoan dung độ lượng, anh bỏ ngoài tai mọi sự khen chê, dù từ “cậu ông Trời” vọng xuống, hay từ “đáy giếng” vang lên. Anh không quan tâm phe phái chính trị, dù cho có những “chính chị gia” ve vãn anh. Nhưng với chống Cộng, hội đoàn nào hoạt động chống Cộng là anh ủng hộ, anh tham dư. Anh luôn đặt tình “Huynh Đệ Chi Binh” lên trên phe nhóm. Do đó anh được các hội đoàn Quân Đội mời chủ toạ và phát biểu cảm tưởng trong những buổi lễ. Khán thính giả thích nghe anh phát biểu với giọng hùng hồn, nội dung ngắn gọn nhưng xúc tích, vì anh đã từng “tay súng, tay viết”. Điều ít tai biết là anh còn có “tay đàn” điêu luyện, là sư phụ của một số nhạc sĩ.
Ngoài hai bài viết “Bắt Dân Quân Trung Cộng Trên Dảo Hoàng Sa” và “Chỉnh Lý Năm 1964”, anh còn viết nhiều bài khác nữa như: “Đệ Tứ Quốc Tế Việt Nam”, “Đặc Khu Rừng Sát và Những Ngày Sau Cùng”, “Giải Phóng và Thống Nhất”, “Người Mẹ Thời Chiến”, “Truy Điệu 81 Chiến Sĩ Nhảy Dù”, “Hình Tượng Anh Hùng Quang Trung”, “Nhớ Ơn Thầy Cô”, v.v…
TQLC Anh Anh Sáu Cổ Tấn Tinh Châu là tấm gương khiêm nhường và đại lượng. ⬛
Anh Chị Cổ Tấn Tinh Châu luôn sát cành với Hội TQLC Nam CA.
Những ly cà phê cuối cùng với Anh Cổ Tấn Tinh Châu. Anh Chị luôn gắn bó với đồng đội TQLC Nam Cali.
L-R: NT Hoàng Đình Ngoạn, Anh Chị Châu, NT Lý Văn Mẹo
Anh Sáu TQLC Cổ Tấn Tinh Châu.
Mỗi sáng Thứ Sáu và Cháu Nhật.
Chị lái xe đưa Anh đến với chúng em
Khi ly trà, ly café, nước cam, sinh tố.
Thứ nào cũng được, miễn sao có chỗ ngồi bên các em là Anh vui rồi.
Khi Anh tới, Anh đến bắt tay từng người, miệng cười tươi:
-Khoẻ không em?
Khi Anh về
Vẫn thế,
Vẫn bắt tay từ giã từng đứa:
-Giữ gìn sức khoẻ nghe em.
Sáng Thứ Sáu ngày 7 tháng 7, khấp khểnh bước tới, Anh nói
-“Tự nhiên đầu gối của anh đau”!
Mấy tên đàn em rắn mắt nhìn nhau khôi hài:
– “Nào phải tự nhiên đâu!”
Đám trẻ cười, người lính già 88 bẽn lẽn cười theo.
Chiều hôm ấy chị báo: “Anh vào ICU”.
Bốn ngày sau-11/7, tin sét đánh: “Anh đã ra đi”!
Anh cười đó, rồi ra đi sau đó ở tuổi đại thọ 88.
Người lính già không sợ chết, kết thúc như anh là điều hạnh phúc.
Hôm nay đây-ngày 24 tháng 7/2023,
Người người đến tiễn chân Anh lần cuối.
Sống, chiến đấu như Anh mọi người nể phục!
Thác như Anh, đồng đội, đồng môn, thân bằng quyến thuộc tiếc thương!
Đồng Kính Bái:
Các em: Võ Ý, Đình Ngoạn, Văn Thiệt, Kim Thu, Khắc Kha, Trương Sương, Văn Cấp, Quách Lâm, Đổng Hùng, Trung Việt, Thanh Sang, Công Cự, Mạnh Trường, Khoa Toàn, Trọng Việt, Khắc Phước, Nguyễn Hàm, Cam Vũ, Quý Hùng, Văn Giỏi, Ái Đỉnh, Phước, Thành Kiên, Văn Đuông, Trọng Oánh, Minh Đức, Khải Bình, Văn Nên, Văn Thuận, Bửu Ngọc và Nguyễn Đình Hiếu.
1 Theo ghi nhận cuả Sàigòn Tôn Thất Soạn, sau cuộc Chính Lý 1964, Đại Tá Lê Nguyên Khang đang làm tùy viên quân sự ở Phi Luật Tân được Trung Tướng Nguyễn Khánh gọi về giữ chức Tư Lệnh TQLC và sau đó được thăng cấp Chuẩn Tướng. Còn Trung Tá Nguyễn Bá Liên và Thiếu Tá Trần Văn Nhựt thì lại đi làm tùy viên quân sự ở Phi Luật Tân thay thế Đại Tá Lê Nguyên Khang. Sau khi trở về VN, Trung Tá Liên được thăng Đại Tá Tư Lệnh Biệt Khu 24; ông tử nạn trực thăng trong lúc hành quân ngày 06/12/1969 và được vinh thăng cố Chuẩn Tướng. Còn Thiếu Tá Nhựt được thăng Trung Tá Trung Đoàn Trưởng SĐ18 BB, rồi Đại Tá Tỉnh Trưởng Bình Long. Sau trận Bình Long – An Lộc, ông Nhựt được cử đi làm Tư Lệnh SĐ2 BB rồi thăng Chuẩn Tướng.





