Cuộc kháng chiến võ lực chống thực dân Pháp đã khởi xướng từ miền Nam ngày 23-9-1945. Thật vậy, tiếp nối truyền thống kháng Pháp ngay sau khi tàu chiến nước này bắn phá chiếm thành Gia-Định và các tỉnh miền Đông, của những Trương Định, Thủ-Khoa Huân, Thiên-Hộ Dương,… Thơ văn kêu gọi chống Pháp đã có những đóng góp đáng kể cho cuộc kháng chiến này, với những Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông, Phan văn Trị. Sau khi người Pháp bị quân đội Nhật loại khỏi Đông-dương, đã tìm cách trở lại, và đã gây phản ứng mãnh liệt của con dân người Việt và phong trào đã khởi đi từ miền Nam – Nam-Kỳ kháng-chiến đã khởi đầu và văn giới, báo giới đã liên tục vận động hình thành một mảng văn-học yêu nước và kháng Pháp khá đặc-biệt. Vũ Anh Khanh là một tác nhân của cuộc chiến văn-hóa chính-trị này.

Ông tên thật là Võ Văn Khanh, còn ký Vương Ấu Khương khi đăng truyện trên báo Xuân Việt-Nam số Tết 1951. Ông sinh năm 1926 tại Mũi Né, Phan Thiết và mất vào năm 1957 khi lội sông Bến Hải vượt vĩ tuyến XVII vào miền Nam Cộng-hòa sau một thời gian tập kết ra Bắc sau ngày đình chiến tháng 7-1954.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu-thuyết và làm thơ lấy khung cảnh đời sống thị thành và nông thôn vùng lên chống thực dân và bất công. Ông đã cộng tác với các báo Việt Bút, Đại Chúng, Tiếng Chuông và cùng Thẩm Thệ Hà mở nhà xuất bản Tân Việt-Nam. Tác phẩm của ông đều xuất bản tại Sài-Gòn gồm các truyện dài Cây Ná Trắc (Tân Việt, 1947), Nửa Bồ Xương Khô (2 tập; Tân Việt-Nam, 1949-1950), Bạt-Xíu-Lìn (Tiếng Chuông, 1949), các tập truyện ngắn Ngũ Tử Tư (Tân Việt-Nam, 1949), Đầm Ô Rô (Tiếng Chuông, 1949), Sông Máu (Tiếng Chuông, 1949), Bên Kia Sông (Tân Việt-Nam, 1949).

Về thơ, Vũ Anh Khanh đã xuất bản hai tập Phấn Son (Báo Việt Bút, 1948) và trường thiên Chiến sĩ hành (Tân Việt-Nam, 1949).

*

Thơ văn Vũ Anh Khanh đã gây ảnh hưởng mạnh trong quần chúng lúc ấy, cổ võ sự ủng hộ cuộc chiến đấu chống thống trị, xâm lược. Nhân vật chính diện của ông như các chiến sĩ, anh hùng thường được lý tưởng và đôi khi lãng mạn hóa, còn tầng lớp bình dân nhất là ăn chơi, sống kiếp tầm gởi thì tầm thường với đủ nét hiện thực hoặc sống sượng.

Nửa Bồ Xương Khô hay Bên Kia Sông với những nhân vật chiến sĩ oai hùng, sống và hành động theo lý tưởng và không chùn bước trước hiểm nguy, khó khăn; khi bị trọng thương xin được chết với phát súng ân huệ cuối cùng. Mặt khác, tác giả trình bày bộ mặt tiêu cực ở các thành phố với những người bạt nhược, trác táng và không ý thức, dửng dưng trước sự nguy vong của đất nước. Nửa Bồ Xương Khô 2 ngay sau khi phát hành đã bị nhà cầm quyền Pháp tịch thu, sự việc khiến ông quyết định bỏ vào chiến khu.

Cây Ná Trắc là câu chuyện ghi lại một vài nếp sinh hoạt kháng chiến của người dân làng Khánh Thiện, vùng duyên hải miền Trung, khi lính Nhật tiến đến đây; người dân quê – và cả người thiểu số ở Bù Đốp, được cơ hội tỏ lòng yêu nước chân chất, hết mình vì đất nước.

Ông dùng chuyện đời xưa Ngũ Tử Tư diệt Sở để nói chuyện thời nay trong Ngũ Tử Tư, hay Đào Duy Từ trong Khổ Nhục Kế, hoặc dùng chuyện xưa để bàn chuyện cấp thiết hôm nay trong Sông Máu. Những con sông thường được tác giả sử dụng để kêu gọi lên đường chiến đấu, anh hùng, chiến sĩ sẽ biệt ly quê nhà, người thân yêu từ những dòng sông.

Bạt Xiu Lìn nói lên tình tự yêu nước của Bạt Xiu Lìn, một người con gái cha Tàu, mẹ Việt nhưng yêu dân tộc đã có hành động chống lại lớp người thống trị Việt-Nam.

Văn-chương và tinh thần yêu nước lộ rõ nhất trong thi-ca Vũ Anh Khanh. Trong phần này, chúng tôi giới thiệu những bài thơ đã làm nên tên tuổi ông và sống mãi trong lòng những người yêu thơ và thương quê hương đất nước.

Chiến-Sĩ Hành

Thơ văn ái-quốc thường bùng phát khi nước nhà nguy biến và tình trạng bi đát đó càng kéo dài thì vô tình càng phong phú về lượng cũng như giá-trị. Lịch-sử nước Việt-Nam ta là lịch-sử của một dân-tộc luôn phải trả giá đắt bằng sinh mạng, tài nguyên, để được tự chủ, độc lập và phải thường trực cảnh giác vì kẻ thù luôn có mặt. Nhưng kẻ thù ta qua lịch-sử là ai? Là những kẻ đồng màu da nhưng khác chủng tộc, là những kẻ khác màu da khác chủng tộc và cuối cùng là những kẻ cùng màu da nhưng khác lý tưởng. Kẻ thù còn là chính con dân, là đồng loại nhưng rước voi về dày mả tổ, rước con người và lý thuyết ngoài về dày xéo con người và đất nước. Lịch-sử đã và sẽ đánh giá những con người và tập thể tự biện minh và đánh bóng “sứ-mạng lịch-sử” của mình cũng như sẽ thẩm định công tội ái-quốc của các triều đại, chế độ và lãnh tụ! Thơ văn ái-quốc luôn được trân trọng vì văn-học nghệ thuật là phương tiện và là hình thức hữu hiệu nhất cho mục-đích chính-trị và vận động dân quyền!

Tinh thần ái-quốc ở miền Nam thể hiện dưới nhiều hình thức qua nhiều giai-đoạn khác nhau, lúc âm ĩ, lúc náo động. Các nhà trí thức và văn-nghệ sĩ đã sử-dụng đủ các hình thức và thể loại, để ghi nhận, nói lên, kêu gọi tinh thần ái-quốc đồng thời vạch mặt, chỉ tên, tố cáo những âm mưu và thủ đoạn “bán nước”. Thời Pháp thuộc, nhiều văn phẩm bị kiểm-duyệt, cấm đoán, mà đến thời gọi là độc lập sau 1954 ở miền Bắc cộng-sản, các tác-phẩm ái-quốc cũng bị kiểm cấm và tác-giả của chúng bị án tù đày hoặc xử lý nặng nề. Ngay cả hiện nay, khi hai miền đã thống nhất và tổ quốc lớn mạnh, hai chữ ái-quốc vẫn là cấm kỵ, hiểm nguy cho nhiều công dân!

Lòng yêu nước đưa đến kháng chiến khởi động đúng lúc ở trong Nam. Cuộc chiến Ðông Dương thứ nhất có thể xem khởi đầu đêm 22 rạng 23 tháng 9 năm 1945, do liên quân Anh-Pháp bất ngờ đánh chiếm trụ sở Ủy-ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ là cơ-cấu xuất hiện từ 25-8-1945 khi Trần Văn Giàu tuyên bố Nam bộ độc lập và chế độ Cộng-hòa dân chủ thành lập tại đây – xem như một tiếp nối của phong-trào Thanh Niên Tiền-phong của BS Phạm Ngọc Thạch! Một cuộc chiến tranh du kích bắt đầu, thanh niên vô bưng, theo những đoàn Giải Phóng Quân, Vệ Quốc Ðoàn. Sẽ bị lợi dụng, nhưng kháng-chiến chống Pháp đã là một phong trào đấu tranh bộc-phát của thanh niên, sinh viên học sinh yêu nước ngay trong vòng vây của thực dân. Kế thừa truyền thống cha ông, mang trong mình hào khí Hoa Lư, Lam Sơn và Ðông A, tuổi trẻ thành phố nhanh chóng tìm được tiếng nói chung trước cảnh sơn hà nguy biến. Phải chăng miền Nam bị Pháp chiếm trước, tinh thần yêu nước đã bùng lên sớm và mạnh hơn, vì đã từng bàng bạc qua đạo lý, tinh thần hảo hán, Lục Vân Tiên, rồi các phong trào vận động Minh Tân, Ðông Du, v.v.

Chính tinh thần đạo lý bình dân cộng với lòng trung quân và yêu nước của con người ở vùng đất bị thực dân xâm chiếm đã gây nên phong trào kháng chiến rất đặc biệt ở trong Nam. Tâm lý thực tế, ngôn ngữ dân gian càng khiến lòng ái quốc dễ đi vào lòng người hơn. Ðó là lý do khiến trường ca Chiến Sĩ Hành (1949) của Vũ Anh Khanh, truyện Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Vó Ngựa Cầu Thu (1945) của Thẩm Thệ Hà, Tôi Bị Ðày Ði Bà Rá của Việt Tha, Tàn Binh của Sơn Khanh (Nguyễn Văn Lộc), … và thơ văn ở Sài-gòn và trong Nam đã thành công khơi dậy tinh thần yêu nước và kháng chiến chống Pháp. Thơ văn này có khác biệt tinh tế nếu so sánh với thơ văn chống Pháp từ các liên-khu miền Bắc sau đó. Cũng kêu gọi lên đường, cầm giáo mác khí giới, nhưng lòng ái-quốc trong thơ văn Vũ Anh Khanh, Sơn Khanh, … vừa có nét lý … gần với những Cha Tôi của Lê Ðạt, Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, Chiều Mưa Ðường Số 5 của Thâm Tâm, nhiều bài của Quang Dũng, … hơn là những Ta Ði Tới của Tố Hữu, Ðất Nước của Nguyễn Ðình Thi, v.v.

Chúng tôi xin giới thiệu trường thi Chiến Sĩ Hành của Vũ Anh Khanh, được viết vào cuối Thu năm 1947 nhưng chỉ được xuất-bản hai năm sau, vì kiểm duyệt và khó khăn thời đó cho thơ văn tranh đấu. Một nhà nghiên cứu đã cung cấp cho chúng tôi văn-bản đánh máy lại từ bản in đã hơn 50 năm và thiếu mất 12 câu do chữ in bằng kim-nhũ trên bức minh họa “lửa căm hờn” đã tróc gần hết. Nơi hai trang đầu ghi: Chiến-sĩ hành, Thơ trường thiên của Vũ-Anh Khanh, Tam Ích đề tựa, Thẩm-Thệ Hà đề bạt, Nguyễn-văn Mười hoạ bìa và phụ bản, A. Tích Trú kẽ chữ và phụ bản, Nguyễn văn Dầu khắc bản, nhà xuất-bản Tân-Việt-Nam, 1949.

Hành là một thể-loại thơ cổ Trung-Hoa, được các nhà thơ Việt-Nam sử-dụng cho các đề tài ái-quốc (kêu gọi, đề cao, …) và tranh đấu, tương đương với Hịch bên văn xuôi. Hành là thể thơ cho phép vấn hỏi và than thở với vài dụng-ngữ như “hề!” cấu trúc nghi-vấn. Vũ Anh Khanh đã tận dụng những phép đó. Ngoài ra, chữ dùng và khí thơ trong bài Chiến Sĩ Hànhdựng lại hình ảnh quê-hương hào hùng cha ông đã hy-sinh để lại mà nay chính mảnh đất đó lại lâm vào loạn ly (Hai năm trước, cuối mùa thu xám / Lửa căm hờn cháy nám trời xanh/ … Khói hờn loạn phủ ải xa / Lửa hờn dậy khắp sơn-hà Việt-nam) cũng như nói lên chí khí thanh niên yêu nước. Tác-giả đã tả rõ nét hình ảnh người yêu nước: những người thanh niên ra đi vì đại-nghĩa, vì đất nước lâm nguy, những chiến sĩ chủ-trì hành-động nhiều hơn nói xuông! Lời thơ và hình ảnh hùng tráng (Vó ngựa gõ dịp cầu cao vọi / Gươm mình khua mắt dõi đêm dầy) nhưng sao nỗi ngậm ngùi, thương tiếc cứ vương vất (Chiến-sĩ đi buồn tênh tiếng dế!), tâm-trạng người đi vướng tâm-tình người ở lại, hành trình dài và đầy hy vọng nhưng viễn tượng sẽ ra sao, nào ai hay (Trời hộ người trai trẻ thành công)! Chiến Sĩ Hành thuộc về thi-ca tranh đấu, và nhà thơ đã thành công làm sống lại thời hào-hùng đầy khí-thế và hoài bão của người trẻ những năm tháng đó, dù có dăm câu cho thấy ảnh-hưởng thi-ca lãng-mạn yêu nước như Chinh phụ ngâm.

Ngoài tập thơ Phấn Son như lời trách móc của người nữ ở hậu phương trách móc người đi việc nước, Vũ Anh Khanh còn là tác-giả Tha La Xóm Ðạo, một bài thơ nổi tiếng khác từ cùng thời kháng-chiến, được sáng-tác khi nhà thơ trên đường kháng Pháp về ngang qua quê nhà, nhìn lại nơi xưa đầy dấu vết chiến-tranh tàn phá và ngậm ngùi sự trống vắng của những người xưa yêu dấu! Bài này đã được nói đến rất nhiều, do đó chúng tôi không đề cập và phân-tích ở đây, nhưng hễ nói đến thơ văn kháng-chiến trong Nam không ai có thể quên giá-trị văn-học cũng như lịch-sử của bài Tha La Xóm Ðạo! Bài thơ là một câu chuyện ở một làng quê thời chiến tranh chống thực dân xâm lược. Đầu năm 1949, Vũ Anh Khanh về quê bạn là Thẩm Thệ Hà ở Trảng Bàng, Tây Ninh, có dịp cùng ghé xóm đạo Tha La, biết chuyện giáo dân ở đây đã từ giã giáo đường vào bưng kháng chiến. Câu chuyện đã gây cảm hứng cho ông sáng tác bài thơ Tha La, sau được in trong tuyển tập Thơ Mùa Giải Phóng (1949) của nhà Sống Chung. Một phần bài thơ đã được đưa vào tiểu-thuyết Nửa Bồ Xương Khô (1949) cũng của ông với tựa đề là Hận Tha La.

Xin ghi lại bài CHIẾN-SĨ HÀNH:

Hai năm trước, cuối mùa thu xám.
Lửa căm hờn cháy nám trời xanh,
Gió ngàn tứ hướng lộng hành,
Mây thù bủa khắp kinh-thành loạn-ly!
Trước nhục nước, kể chi thân nữa?
Xếp bút nghiên, mài giũa kiếm cung.
Cao tay thề với non sông,
Noi gương xưa những anh hùng giọc ngang.
Tiếng trống giục rền vang đêm tối.
Hàng cờ bay theo lối gió đưa.

Ra đi khỏi hổ sống thừa,
Lên yên ngựa, chiến bào chưa nhạt mùi.
Ðêm tháng chín nghe trời hiu-quạnh,
Ngày lập đông sương lạnh biên-thùy.
Người đi rồi lại người đi,
Mười mong chín nhớ làm chi? Hỡi người!
Loa tuyền hịch lời lời thống-thiết.,
Hịch nhờ loa cho biết tin nhà.
Khói hờn loạn phủ ải xa,
Lửa hờn dậy khắp sơn-hà Việt-nam.
…………………… (1)
Lời loa thét bay tràn quan ải.
Bóng quân kỳ lấp giãi Trường-son.
      Tám mươi năm nuốt tủi hờn,
Lòng dân rung chuyển nhịp đờn tiến binh.
Mắt mơ bóng thanh-bình tự chủ.
Lãnh nhung y quan vũ từ đây.
Lưu cầu ba thước trao tay,
Tình riêng thôi nhé, từ nay giã nhà.
Xin gửi lại mẹ già, con dại.
Sẽ thay ta phận gái chính-chuyên,
Giúp chồng giữ trọn lời nguyền.
Làm sao trọn đạo mẹ hiền, dâu ngoan.
Trăng thu vướng đầu non lạnh-lẽo.
Nước hồ đông lệ-liễu soi hình.
Ra đi muôn dậm trường-đình.
Nợ trai anh trả, sầu mình ai hay!
Rượu tiễn đưa đành khuây tấc dạ.
Nghe quốc kêu ròng rả năm canh.
Làm trai vì nước hy-sinh.
Thân ta dù nát, lưu danh muôn đời.
Nhớ thuở trước, vào thời Quốc Tuấn,
Giặc Nguyên sang xâm lấn cõi bờ.
Cướp người của, chiếm Kinh đô.
Kể chi mắt ngập lệ mờ muôn dân.
Trước lũ sói, vua Trần bối rối,
Thương dân hiền vô tội lầm-than.
Ðánh thôi không lại thì hàng ?
Sinh-linh đồ-khổ Trẩm càng xót đau!
Nghe vua phân, rập đầu trước bệ,
Hưng-đạo-Vương nguyện thệ một lời,
Ðầu thần còn vững chửa rơi,
Làm sao giặc chiếm nước trời nước Nam?
Rồi viết hịch dò thăm dân chúng,
Giặc đã sang, nên đánh hay đừng?
Một đêm hội-nghị Diên-Hồng,
Muôn dân đề quyết một lòng chiến-chinh.
Muôn cặp mắt long-lanh sáng tỏ,
Muôn hồn say vội-vã lên yên.
Hùm ơi! Ðừng chọc Cáo hiền,
Ðằng-giang một trận, quân Nguyên tan tành!
Giống Hồng-Lạc bốn ngàn năm chẵn.
Có bao giờ chịu hẳn hàng đầu?
Trải qua mấy cuộc bể dâu,
Thà cam đổ máu, hàng đầu thì không.
Hồn tử-sĩ ngâm giòng sông Hát.
Xương trắng phơi nắng nhạt mầu cây.
Chiều chiều ra đón bóng mây,
Chiều chiều nghe gió giải bày tâm tư.
Trước nhục nước thân dù tan rã.
Lòng ta xin nguyện trả nợ trai.
Thôi em đừng cản gót hài,
Ðể anh lên ngựa, đợi ngày thâu binh.
Chớ theo gương Ngu tình thuở nọ,
Khóc tiển đưa Hạng-Võ bá vương.
Buồn chưa tiếng địch Ô-giang!
Sầu len núi thẳm, hận tràn rừng  sâu.
Bể Nam-Hải bạc đầu sóng réo,
Rừng Bắc-Sơn vạn nẻo lạnh-lùng.
Cùng chia một ánh trắng đồng.
Bắc-Nam-Trung vốn một giòng Âu-Cơ.
Trứng rồng nở bên bờ Dương-tử.
Máu rồng sinh nam, nữ một trăm.
Bốn nghìn năm! Bốn nghìn năm !
Dân: hai mươi triệu. Ðất: ngàn dậm xa.
Nhục vong quốc hờn ma Yên-thế,
Thù cha nương tủi quế Lam-sơn.
Ra đi chỉ một lần hơn,
Chiến bào trắng đẩm máu hờn đỏ au.
Vó ngựa gõ dịp cầu cao vọi.
Gươm mình khua mắt dõi đêm dầy.
Nghe chừng lá rụng ngàn cây,
Ngàn cây lá rụng rơi đầy mặt sông.
Ba lớp áo dò lòng chẳng ấm.
Gió trở về gửi gấm phong thư,
Viết bằng sắc máu hồng tươi.
Pha bằng nước mắt, trộn hơi sương tàn.
Gửi cha già gió ngàn hiu-hắt.
Hẳn nơi đây thành Bắc đêm đông,
Làm sao cha ấm được lòng !
Khi dân nước Việt muôn trùng chiến-chinh.
Lệ cha rỏ đọng quanh chân nến,
Năm canh trường trống điểm sao lu.
Sao lu vì bởi mây thù.
Ngàn khơi nẻo khói, dậm trời chông-chênh.
Chiến sĩ đi buồn tênh tiếng dế !
Nhục nước này há để cho ai ?
Gậm cầu nước chảy hàng hai.
Nhịp cầu ván ghép dấu hài rêu phong.
Hài in dấu đầy đồng quạnh-quẽ.
Ðôi bờ cây lặng-lẽ phơi mình,
Phơi mình đón gió sông xanh,
Sông xanh một giãi trăm tình ngẩn-ngơ.
Giấy hoa-tiên chép thơ thời loạn.
Mảnh tàn y gói trọn nàng Tao,
Giấu nàng sau lớp chiến bào,
Ủ nàng Tao, áp nàng Tao bên người.
Muôn binh-sĩ đã rời thành nội,
Ra ngoại ô, bờ cõi dân quân.
Quyết tâm chống giữ đến cùng,
Ðất Nam-Việt tẩm máu giòng Việt-nam.
Gươm ba thước yên lam một cỗ.
Cờ xung-phong nhuộm đỏ sơn-hà.
Lửa thành soi dáng núi xa.
Súng thành nổ oan hồn ma vật vờ.
Ðất rừng rộng làm mồ tử-sĩ.
Có rừng nhiều sẽ giữ nắm xương.
Vì ai dong ruổi chiến trường.
Ðem thân chịu đạn, lấy xương xây thành?
Mạnh lời hát quân-hành điệp khúc,
Quân-hành ca trống giục vang trời.
Quê hương khói lửa bời bời.
Ra đi khăng-khẳng một lời xin thưa.
Lật sử cũ ngày xưa xem lại,
Gương người xưa triều đại Đinh, Trần,
Bao phen chống giặc oai hùng,
Cờ lau Bộ-Lĩnh, Bạch-đằng Ðạo-Vương.
Mùng năm Tết, Quang-Trung Nguyễn-Huệ,
Múa gươm thiêng một trận Ðống-Ða,
Quân nhà Thanh hóa ra ma,
Hơn hai mươi vạn Hồng-Hà bỏ thây!
Sử còn chép hồ Tây Trưng-Nữ,
Sách còn ghi Triệu-Ẩu vú dài,
Tuy nữ nhi cũng như ai,
Ô hô ! Phận gái an bài non sông!
Ðất Giao-Chỉ cột đồng Mã-Viện,
Người Giao-Châu dần tiến về Nam.
Chân mây một giãi non Chàm,
Núi Hời ngóng gió, sông Lam đợi thuyền.
Thăng-Long thành ai khen giặc rợ ?
Ðồ-Bàn kinh ai sợ Bồng-Nga ?
Trăng lên rồi lại trăng tà,
Huyền-Trân gái Việt, chết già thành Chiêm?
Hồn tử-sĩ có thiêng chăng tá ?
Hãy về đây phù trợ cháu con,
Ra đi lòng thắm tựa son,
Gió đông lạnh chiếc áo đơn lỏng gài.
Chiến sĩ đi rê dài mũi kiếm.
Bờ lau đôi cỏ liếm sương trong.
Nhà ai xây tạm ven sông.
Cỏ cây hoa nở nhụy phong hương thừa.
Quay nhìn lại sao thưa đậm bóng,
Tai cố nghe bể sóng trùng-dương.
Rừng cây thưa, vạn nẻo đường,
Nẻo về hàng giặc, nẻo thương giống nòi.
Thương giống nòi ra ngoài biên ải.
Gươm Kinh-Kha thêm lưỡi Tô-Tần.
Ra đi thôi chỉ một lần.
Có về đâu nữa, ngại-ngần biệt-ly.
Mặc ai nhẹ cầu chì, tiếng bấc.
Mặc ai khơi những giấc mộng vàng.
Rủ-rê quyến dỗ bướm ngàn,
Nơi đây thành nội có đàng trải hoa.
Ðàng trải hoa thì hoa biết lấy.
Ðây bướm rừng đã ngấy hương nồng.
Biên-khu có ngọn kỳ-phong,
Có khe suối nhỏ, đôi giòng nước xanh.
Nhạc đỉnh núi dạo hành dăm khúc,
Ðể lòng reo bỏ lúc tương-tư.
Tương tư khi đọc xong thư,
Của người thành-thị bên lư “bồ đề”.
Một ra đi có về đâu nữa.
Thôi từ đây khép cửa thơ-sinh.
Vất bút nghiên, xé thơ tình.
Tay non roi ngựa giận mình còn ương.
Ðất thì dài dậm trường hoa rũ/
Ðường thì xa mây bể gió ao.
Về chi được nữa, ôi chao !
Sợ dừa xanh, ngại hàng cau chê cười.
Sống nhục-nhã bia đời để miệng.
Thà chết vinh, đất liệm hình hài,
Bên mồ trồng một cành mai,
Bướm rừng để chỡ, hoa lài chịu tang.
Rồi muôn thuở bẽ-bàng thân liễu.
Rồi nghìn thu lạnh-lẽo mưa ngâu.
Có gì đâu ! Có gì đâu !
Một người khóc vạn cỏ sầu héo chân.
Cỏ sầu héo vì quân nước Việt,
Bỏ nhà đi thề ….(2)
Bỏ người kỹ-nữ Hàng-Châu.
Bỏ con thuyền rượu phai mầu phấn son.
Bỏ tất cả lúa non đồng héo.
Bỏ vườn rau trước méo sau dài.
Bỏ hàng cau tận thôn Ðoài.
Bỏ giây trầu thắm mọc ngoài xóm Ðông.
Bỏ mẹ già chiều trông sáng đợi.
Bỏ vợ hiền mòn mỏi ngóng tin.
Bỏ chiều thổi sáo đồi Lim.
Bỏ đèn, bỏ sách, bỏ duyên, bỏ bèo.
Chiến sĩ đi lên đèo xuống thác.
Biết sau này sống thác làm sao !
Từ Nam-quan đến Cà-mau,
Con Hồng cháu Lạc đua nhau lên đường.
Thương đất Việt mười phương nổi gió,
Trai anh hùng vò-võ thiết-tha,
Mong mau đến chiến-trường xa,
Chiến-trường máu đổ chan hòa lối đi.
Lòng tâm-niệm bài thi Thường-Kiệt,
Mắt say-sưa đọc hịch Bình-Ngô.
Ðường trần một gánh chung lo,
Làm trai há để hổ cho giống nòi ?
Miền Nam-bộ đầy trời binh lửa.
Cõi Bắc-kinh trăng vữa mầu sương.
Ngựa hồ gióng sẵn yên cương,
Người ra roi nhé, tóc vương mây sầu.
Lấy máu đỏ tô mầu sông núi,
Ðem xương ngà lấp suối Thần-kinh.
Nghìn năm miệng thế truyền danh,
Hồn theo cánh nhạn sóng gành viễn du.
Thân có lắm dãi-dầu mưa nắng.
Xin lòng đừng bạc trắng như vôi.
Ðừng thâm như lá trầu hôi.
Ðừng dơ-dáng mặt người bôi sắc chàm.
Ðời có khổ đừng ham phú quý.
Bã vinh-hoa chớ nghĩ giàu sang.
Người đem thân gửi chiến tràng,
Thương thân cởi áo tỵ hàn đổi trao.
Chiến-sĩ đi đường nao chân ngựa,
Chiến-sĩ đi mây bủa tứ-tung.
Hộ người lâm trận nên công,
Thương người vì nước ngòi sông lao mình.
Ðất Nam-Việt lắm kinh nhiều rạch.
Người Việt-Nam khí phách trượng-phu.
Bao giờ biết sợ ai đâu ?
Ðời nào cũng có mày râu anh hùng.
Ðây nẻo Thục trập-trùng mây trắng,
Ðường sang sông ngựa chẳng bông cương.
Gươm vàng loáng bóng trăng thương,
Người lên yên, tiễn mấy đường tơ đau.
Chiến-sĩ đi cờ cao tay phất,
Chiến-sĩ đi gió lật đài mây.
Ðồi thông chia rẻ đường này,
Bên đồi thông tiễn cầm tay ngùi ngùi.
Phấn thông vàng thương người thành-thị,
Trở về thành lắm bụi làm thơ.
Rồi năm năm thắng đợi chờ,
Mỏi mòn mắt trắng ngóng hờ rừng xanh.
Ngại kẻ đi đầu gành cuối bể,
Biết đêm đêm ngủ ở nơi nao ?
Ngại trùng-dương sợ phai màu,
Ngại trùng-dương, sợ chiến bào tả-tơi !
Ðường lên khu đôi lời nhắn nhủ,
Kẻ ở nhà sẽ đợi muôn năm.
Dẫu cho sóng bể cát lầm,
Hoa đơn nguyện, nhụy đơn thầm cầu xin.
Chiến-sĩ đi bình yên mạnh khoẻ.
Trời hộ người trai trẻ thành công.
Ngày mai trời sáng rạng đông,
Trở về ải Bắc, ghi công non Ðoài.
Xiêm với giáp gửi ngoài trận tuyến.
Ngựa với gươm vĩnh-viễn giã từ.
Trở về thăm lại Hàng-châu,
Thăm con thuyền rượu dặm mầu phán son.
Thăm tất cả lúa non đồng héo,
Thăm vườn rau trước méo sau dài,
Thăm hàng cau tận thôn Ðoài,
Thăm giây trầu thắm mọc ngoài xóm Ðông.
Thăm mẹ già chiều trông sáng đợi,
Thăm vợ hiền sắc gợi duyên tình.
Mắt người vợ cũ còn xinh,
Môi người vợ cũ còn in hương nồng.
Trở về thăm lại thơ phòng,
Lượm bút nghiên, lượm giấy hồng hoa tiên.
Rồi từ đấy đêm đêm vơ-vẩn,
Bên đèn lu lẩn-thẩn đề thơ.
Tặng người chiến-sĩ ngày xưa,
Ra đi vì nước chôn bừa tuổi non.
Rồi từ đấy máu tim lại thắm,
Hoa lại thơm say đắm bướm ngàn,
Bướm ngàn lại bảo bướm ngàn,
Rằng nơi đất Việt lắm đàng trải hoa.
Rồi từ đấy trăng ngà lại sáng.
Trời lại xanh hết áng mây sầu.
Gió vườn hết rủ-rê nhau,
Quét vơi lá rụng mùa thu hết buồn.
Rồi từ đấy lắm nguồn thi ngữ,
Viết thật to hai chữ THANH-BÌNH:
Chiến-sĩ hề ! “CHIẾN-SĨ HÀNH”
Bấy giờ sẽ gửi gió thành đem đi.

Ðầu hạ cuối Thu năm Hợi (1947)
Vũ Anh Khanh

(1) 12 câu đọc không được, chữ in bằng kim-nhũ đã tróc gần hết.
(2) Kiểm duyệt bỏ ba chữ (chú thích của nguyên bản).

Nguyễn Vy Khanh