Những tác phẩm đầu tiên dùng chữ quốc ngữ
Nguyễn Vy Khanh
Chữ quốc ngữ ban đầu được các vị thừa sai ngoại quốc sáng chế ra với mục đích rao giảng Tin Mừng – hai cuốn sách quốc ngữ in ấn đầu tiên và cả hai do Bộ Truyền giáo in tại Roma năm 1651, là cuốn từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes: Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum, thêm 2 phần phụ: 1- Lingvae Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaration 31 trang về ngữ pháp tiếng Việt ở Đàng Ngoải gồm 8 chương nhưng viết bằng chữ Latinh; 2- Index Latini sermonis mục lục chữ latinh của cuốn từ điển. Cuốn thứ hai là cuốn song ngữ Latinh-quốc-ngữ Phép Giảng Tám Ngày cho kẻ muốn vào Đạo thánh Đức Chúa Trời / Cathechismus pro iis, qui volunt suscipere Baptismum, in Octo die divisus, cuốn sách văn xuôi phản ảnh tiếng và văn nói (bình dân) của người Việt thời bấy giờ.
Hơn 200 năm sau, khi thực dân Pháp xâm chiếm nước Việt đã dùng quốc ngữ như văn tự hành chánh, nhưng rất sớm trước đó, đã được các linh mục và tu sĩ người Việt sử dụng để biên soạn kinh sách và dịch thuật, sáng tác như là những tác phẩm văn học và tôn giáo. Và cũng 200 năm sau, vào năm 1861, để bắt đầu dùng cho các viên chức và quân đội người Pháp ở Nam-kỳ, Gabriel Aubaret, một sĩ quan Hải quân Pháp đã soạn và cho in ở Thái Lan cuốn từ vựng Pháp-Việt Việt-Pháp đầu tiên: Vocabulaire Français-Annamite et Annamite-Français, précédé d’un traité des particules annamites (Bangkok: Imprimerie de la Mission Catholique, xcv+96+157 p).
Phép Giảng Tám Ngày [cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời] (1) của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, là cuốn sách giáo lý đầu tiên được in ấn năm 1651, song ngữ Latinh-quốc-ngữ, phần quốc-ngữ với khoảng 8.000 từ là dấu vết chữ dùng và cách diễn đạt văn xuôi tiếng Việt ở thế kỷ XVII. Hai ông Nguyễn Khắc Ngữ và Phạm Đình Khiêm đã xem “Phép giảng tám ngày” là “tác phẩm quốc ngữ đầu tiên” trong Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên (2)
Đây là sách giáo lý giảng dạy, giải thích lẽ đạo – theo phương cách riêng của Cha Đắc Lộ, sau khi đã quan sát rất tường tận, tìm hiểu địa lý, lịch sử, xã hội Việt nam thời Trịnh- Nguyễn phân tranh, đã quan sát khá tinh vi về nếp sống của dân chúng Việt Nam, để những tín hữu mới thông hiểu và hành đạo cùng giữ đức tin. Những căn bản về giáo lý Công-giáo, linh hồn bất tử và việc thờ phụng một Thiên Chúa đích thực và tránh những “tà đạo”, những tập tục làm hạ giá nhân phẩm như tục đa thê, và mê tín dị đoan, nhưng đề cao những thuần phong mỹ tục. Ngài đã dùng kho tàng phổ biến của nhân gian: ca dao, ngạn ngữ để hội nhập vào các chân lý của Đạo.
Trong “Ngày thứ nhất: Đạo Thánh Đức Chúa Trời”, Cha Đắc Lộ viết: “Đời này, đời sau
Ta cầu cùng Đức Chúa trời giúp sức cho ta biết tỏ tường đạo Chúa là dường nào. Vì vậy ta phải hay ở thế này chẳng có ai sống lâu; vì chưng kẻ đến bẩy tám mươi tuổi chẳng có nhiều. Vì vậy ta nên tìm đàng nào cho ta được sống lâu, là kiếm hằng sống vậy: thật là việc người quân tử. Khác phép thế này, dù mà làm cho người được phú quý, song le chẳng làm được cho ta ngày sau khỏi làm tiểu nhân, khốn nạn. Vì vậy ta chẳng phải học đạo cho ta được phú quý ở thế này. vì chưng ích đạo thánh Đức Chúa trời về đời sau. Người thế sự đời này lành dữ thì hay: lẽ qua đời này cho khi chết được vui vẻ đời sau thì chẳng hay.
Cho được biết đàng ấy, trước thì phải hay, loài người ta có hai sự: một là xác, một là linh hồn. Xác bởi cha mẹ mà ra, có xương, có máu, có thịt hay nát hay mòn. Song le linh hồn là tính thiêng chẳng hay mòn, chẳng hay nát, chẳng hay chết, chẳng phải bởi cha mẹ mà ra, thật bởi bề trên mà có. Linh hồn như chủ nhà, xác như tôi tá hay là đầy tớ, nó thì phải phục linh hồn như chủ, vì chưng đầy tớ cùng tôi tá làm chủ nhà, hay là chủa nhà làm tôi tá, thì lộn lạo cũng chẳng phải lẽ. Song ta xét ta lo trước cho đầy tớ hay là cho chủ nhà? Thật là ta làm trước cho chủ nhà, sau lo cho đầy tớ, thì mới phải.
Cày ruộng, buôn bán, những việc thể ấy là việc về xác. Có kẻ đi cấy, đi cày mà được lúa nhiều trong kho, đến khi qua đời này một nhóm lúa đem đi cũng chẳng được. Có kẻ đi hầu hạ chầu chực vua chúa, mà được làm quan: đến khi linh hồn ra khỏi xác, những sự ấy thì phải bỏ, đem về chẳng được gì sốt. Có lời rằng: “Khi sinh ra chẳng có đem một đồng mà lại; khi chết cũng chẳng có cầm một đông mà đi”. Vì chưng người ta ở thế này chẳng ai khỏi sự ấy, thì phải học đạo thánh về đời sau, cho ngày sau chúng tôi được sống lâu vô cùng…”.
“Thờ Đức Chúa trời hay ma quỷ?
… Vì chưng ta phải hỏi cho biết, ai sinh ra mọi sự mà thờ đấy cho nên, vậy thì ta mới được lên trên thiên đàng, vui vẻ vô cùng. Ví bằng chẳng hỏi cho biết thật Chùa là ai mà thờ đấy, lại đi thờ ma khấn quỷ, thì cũng như người ở trong nước này mà đi làm tôi nguỵ. Ai thờ Đức Chúa trời cho nên, thì được lên trên thiên đàng cùng Đức Chúa trời; ai thờ ma quỷ thì đến ở cùng ma quỷ.
Song le ma quỷ ở đâu? Thật là ma quỷ ở trong địa ngụ là nhà nó. Địa ngục ở đâu? Thật ở trong đất này, là tù rạc Đức Chúa trời hóa ra mà phạt kẻ dữ. Thế gian gọi là Am phủ thì phải, vì chưng là nơi tối tăm mù mịt. Chớ ngờ dưới âm phủ có buôn bán, có ruộng nương, cày cấy như thế gian này đâu. Trong tù rạc nước này vua chúa bắt kẻ có tội, trong ấy có thấy những dòi tói, cùm trang, roi đánh, nào có ai vào cầm trong ấy, muốn làm sao thì được làm vậy ru? Huống họ là kẻ ở trong địa ngục, vậy thì chịu những lửa sinh lửa diêm, đời đời kiếp kiếp, mà khốn nạn vô cùng khỏi chẳng được nữa.
Vì vậy thì ta phải học đạo, vì đạo là đàng về quê thật. Đàng xuống thì dễ, ăn uống, chơi bời, làm những việc xác. Đàng lên thì khó, phải ở hiền lành, ngay thật, lo việc linh hồn trước hết. Vì vậy đạo thật là đạo lý, là đạo phải lẽ. Phải lẽ ra, làm thì có phúc; chẳng phải lẽ ta làm thì có phạm tội..”.
Ngày thứ hai: Đức Chúa Trời
“Lạy ơn Đức Chúa trời, hôm qua đã giảng chẳng nên lạy trời, vì trời là nhà không, chẳng biết đí gì, chẳng khá lạy đất, vì đất là nền, chẳng có hồn nào, song le thờ phượng Đức Chúa trời đất là Chúa cả sinh ra trời đất, thì thậm phải. Thảo kính cha mẹ thì cũng phải, vì đã sinh đẻ tạ. Kính vua Chúa quan quyền trị nước thì phải. Mà cha mẹ cùng vua chúa con mắt xem thấy thì đã biết. Song thật Chúa làm nên trời đất, dù con mắt thịt xem chẳng được, song le cũng phải biết, mà thờ cho nên. Bây giờ phải giảng thật Đức Chúa trời là ai, Đức Chúa trời ở đâu, bởi đâu mà có Đức Chúa trời.
Đức Chúa trời là cội rễ đầu
Sự sau này cho ta giảng trước, ta nói rằng: thật Chúa trời đất chẳng phải bởi ai làm mà có, vì chưng Đức Chúa trời là cội rễ đầu làm mọi sự. Ví bằng có ai làm Đức Chúa trời, thật Đức Chúa trời chẳng phải cội rễ đầu làm mọi sự. Nói thí dụ: có cây nào tốt lớn, mà có ngành rộng xanh, trái ngon ngọt đã đầy. Ví bằng ta hỏi ngành xanh này bởi đâu, ta thưa rằng bởi cội rễ mà có, sự trái cùng lá lại thưa như vậy. Ví bằng lại hỏi có cội rễ khác mà ra chăng, ta thưa rằng các kỳ sự ở nơi cây, thì bởi cội rễ mà ra, song le cội rễ chẳng có cội rễ khác mà ra, ví bằng cội rễ này có cội rễ khác thì cội rễ này chẳng phải cội rễ đầu cây tốt ấy đâu. Sự Đức Chúa trời cũng vậy, thật Đức Chúa trời là cội rễ đầu làm hết mọi sự, vì chưng trời đất cùng mọi sự bởi Đức Chúa trời làm cội rễ đầu mà ra. Chẳng có tìm được cội rễ khác làm ra Đức Chúa trời đâu. Nếu có thì Đức Chúa trời chẳng phải cội rễ đầu mọi sự. Ví bằng tìm cội rễ khác trước, lại hỏi cội rễ khác trước ấy có cội rễ khác trước nữa chăng, làm vậy thì hỏi chẳng cùng, mà chẳng phải lẽ đâu. Vì vậy ta phải kiếm mà giữ một cội rễ đầu làm nên mọi sự, thật là thiên địa vạn hữu chi chân Chúa, mà làm nên trời đất mọi sự…” (3).
Trái với những gì nhiều người vẫn nghĩ, người Việt đã tham gia tích cực trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ: Thầy giảng Bento Thiện đã là người đầu tiên viết lịch sử Việt-Nam bằng chữ quốc ngữ từ năm 1659 dưới dạng viết tay nhưng không được người đồng thời quan tâm. Tập bản thảo viết tay, 12 trang chữ nhỏ, khổ 20X29 cm đã được linh mục Đỗ Quang Chính phát hiện (4).
Xin trích đoạn ở phần 2 viết về tục lệ và sinh hoạt trong những ngày Tết đầu năm khá linh động và chi tiết cũng như cho thấy tiếng Việt thời 1659 không khác bao nhiêu tiếng Việt hôm nay:
“Thói nước An Nam, đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì Vua Chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng Địa Kì. Vua Chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới mở ấn ra cho cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Đài, Ngoại Hiến, Phủ Huyện, quan đảng nha môn, mới có kiện cáo. Đến trung tuần mới có Khánh Thọ Bảo Thần cho thiên hạ mừng tuổi Vua. Ai có nghề nghiệp gì thì làm cho Vua xem. Đến hạ tuần tháng giêng, Đức Chúa lại tế Kỳ Đạo dưới bãi cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng Đế một đàn, là một đàn từ vua Lê Thái Tổ cho đến nay, một đàn thì thờ thần Kì Đạo. Đức Chúa lạy ba đàn này. Đoạn đến đàn Thần Kì Đạo, Đức Chúa lạy đoạn, liền chỉ gươm cùng chém, lại bắn cung. Đoạn lại đánh trống mà chỉ gươm cho thiên hạ bắn súng mới đuổi đi, thì gọi là khao quân. Đoạn liền về tập voi tập ngựa, gọi rằng đã hết năm mới. Đến mùng hai tháng hai, lại ăn Tết ngày ấy. Song le, mặc có nơi ăn nơi chăng. Đến mùng ba tháng ba lại ăn Tết gọi là ăn ưởi. Xưa rằng, có Ngươi giái tử sui người ấy gián vua một hai sự; vua chẳng nghe, thì người ấy trốn lên ở rừng. Vua đòi chẳng về thì vua đốt rừng cho về; người ấy chẳng ra, còn ở, thì lửa cháy đến liền chết. Thiên hạ thương người ấy thì làm giỗ ngày ấy, gọi là tết Tháng Ba, liền bánh trôi nước mà ăn cho mát. Đến mùng năm tháng năm, lại có tết gọi là tết Đoan ngũ, thì có nhiều ý: một là thiên hạ đi lạy Vua Chúa cùng lạy tổ tông nhà, Vua Chúa ngày ấy ban quạt cho thiên hạ, quạt trắng có chữ; hai là đời xưa có một người ở cùng Vua cũng gián chẳng được việc nước, thì xuống biển mà chết, tên người ấy là Quát Nguyên, thì thiên hạ ăn tết ngày ấy cùng đi bơi thuyền, gọi là đi tìm người ấy dưới biển, đến bãi hát bội cũng vậy; ba là kẻ làm đồng cốt, thầy bói cùng các thầy có dạy ai sự gì thì cũng đi Tết mà đơm tiên sư ngày ấy. Đến tháng sáu thì thiên hạ những thứ dân làm ruộng làm cỗ mà giỗ vua Thần Nông là kẻ dựng ra cho thiên hạ các giống lúa. Đến ngày nào cả nước, thì Đức Chúa chèo thuyền cùng bắn súng lớn cho quen, gọi là đua thủy.
Đến tháng bảy là Tết mùa Thu, ai có cha mẹ, anh em, vợ con mới chết, thì đến tháng bảy phải làm cỗ cho làng ăn; nhà giầu thì làm chay đọc kinh mấy ngày thì mặc lòng, mà xin cùng Bụt địa tạng Mục Liên cho linh hồn được siêu sinh Phật quốc lên thiên đàng, cùng đốt áo mão cùng các vật cho cha mẹ. Đến ngày rằm tháng bảy mới đốt ma cho ông bà ông vãi. Đức Chúa lại ban tiền cho con cháu những kẻ có công cùng Vua Chúa mà chết; thì hễ là mọi năm đến ngày ấy, thì cho tiền đốt mã. Ngày ấy gọi là Trung Nguyên tha tội, cũng chẳng có đi chợ ngày ấy, rằng, để cho ma quỷ họp ngày ấy. Ngày ấy ai có tội gì hèn cầm trong tù, thì cũng tha nó cho về nhà. Đến tháng tám lại có Tết Trung thu, thì thiên hạ cùng ăn cùng hát chơi vậy. Đến mùng mười tháng mười, thiên hạ chẳng có ăn tết. Ngày ấy có một Thầy Phù thủy cùng Bà Cốt ăn Tết ấy. Đến tháng chạp, ai có mồ mả cha mẹ, anh em, vợ chồng, thì làm cỏ cùng đắp lại cho tốt cùng sạch sẽ; cũng có làm cỗ mà đơm. Đến gần ngày tết, Vua Chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngày. Đến ngày ba mươi thì Đức Chúa đi giội, gọi là bỏ mọi sự cũ đi mà chịu mọi sự mới. Đến mùng một, liền lên nêu mọi nhà cho kẻo quỉ cớt lấy. Rằng, nhà ai nó nêu là đất Bụt, nhà nào chẳng có nêu, ấy là đất quỉ. Xưa người ta nói truyền rằng, một Bụt một quỷ thì giành đất nhau. Bụt rằng: Tao có một áo Casa nầy, tao trải đến đâu thì đất tao đến đấy. Bấy giờ Bụt lấy áo mà trải ra liền hết đất, thì quỷ phải ra ở biển. Hễ là đến ngày hết năm, thì quỉ lại ăn cướp đất nhau. Ai chẳng có nêu, nhà hay là đất thì về quỷ; cho nên thiên hạ phải nêu. Các sự thay thảy.
Bằng sự cái phép tế các nơi, đầu năm là tế Thượng Đế nghĩa là Thiên Chúa, tế Xã Tắc nghĩa là tế Thiên Thần, tế Khổng Vân là tế kẻ làm mưa gió, tế thánh là tế ông Khổng, thì phủ huyện quan tế các Thần mọi nơi thiên hạ …
Bằng phép để tang cho cha mẹ đã chết, anh em, chú bác, cô, cậu, dị, mợ, thì đã có thứ. Con để cho cha mẹ ba năm; vì mẹ còn ở cùng cha cho đến già, thì để tang ba năm. Cha chết trước, hay là cha để mẹ, mà mẹ lấy chồng khác, thì con để tang cho một năm. Vợ phải để cho chồng cũng ba năm, mà chồng để cho vợ một năm. Song le mặc ý ai, sự ấy quan chẳng có bắt. Song le sự sau này, ai chẳng có giữ cho nên thì có vạ; cháu trai chẳng còn cha, để cho ông ba năm, còn cha để thì để một năm, cháu gái để năm tháng. Anh để cho em một năm, em để cho anh cũng vậy. Em cha hay là chị cha, con gọi là bác cùng chú hay là cô, cũng để một năm. Ví bằng cô đã có chồng, thì cháu để cho chín tháng. Anh mẹ hay là em mẹ, gọi là cậu dị, thì cháu để cho ba tháng; vú cho nuôi cho bú cũng ba tháng. Có ở cùng cha ghẻ, thì để một năm, chẳng có thì ba tháng ” (5).
Inê Tử đạo vãn được xuất bản trong phần Phụ lục (tr. 111-135) của Tự Điển Việt-La (Dictionarium Anamitico Latinum) của G.M. Jean-Louis Taberd (1838). Truyện thơ chữ quốc ngữ thế kỷ XVII, kèm các bản dịch Anh, Pháp và Latinh, gồm 562 câu thơ Nôm lục bát và song thất lục bát theo truyền thống Vãn của Nhà Chung hoặc “ngâm khúc” trong văn học được xem là mẫu mực vốn được sử dụng cho các kinh gẫm, kể chuyện bà Inê Huỳnh Thị Thành chết rũ tù vì đạo năm 1700 ở Đàng Trong.
Về tác giả, Lm Đỗ Quang Chính cho là do linh-mục Lôren Huỳnh Lâu (1656-1712), viết kể chuyện em ruột của ông là bà Inê Huỳnh Thị Thành chết rũ tù vì đạo tại Nha Ru (Nha Trang ngày nay) ngày 25-12-1700. Lê Đình Bảng gọi Inê tử đạo vãn là “bản trường ca tuyên xưng đức tin”, và cũng cho rằng tác giả là Lôren Huỳnh Lâu (1656-1712) (6). Võ Long Tê thì cho là “tác giả vô danh” trong biên khảo “Góp phần nghiên cứu một trong những truyện thơ công giáo đầu tiên viết bằng quốc-ngữ: Inê Tử đạo văn” (7) và dẫn lại trong Dẫn Nhập Nghiên Cứu Tiếng Việt và Chữ Quốc Ngữ (8). Theo Lm. Petrus Vũ Đình Trác, tập Inê Tử đạo vãn” được xem như do ngòi bút của thánh Phan Văn Minh” (9).
“Canh thìn vừa thuở thiên khai
Nguyễn chúa trị đời hiệu lịnh cả ra:
Truyền cho thiên hạ gần xa,
Ai thờ đạo Phật thì ta dong tình,
Bằng ai giữ đạo thiên sinh,
Chẳng chừa thì bắt tội tình chớ tha.
Chẳng ngờ có đứa gian tà,
Lòng hềm độc dữ cáo bà Inê
Lịnh nghiêm phếp kín nhiều bề,
Chị em sao có lòng mê chẳng chừa?” (câu 105-114)
Đoạn Inê đối thoại với quan nghè:
“Ông nghè mới hỏi vân vi:
Nàng cùng nam tử toan nghi một lời,
Bay mà bỏ đạo Chúa trời,
Trở về đạo Phật, giày nơi ảnh nầy,
Thì tao thứ tội cho bay;
Chẳng thì tao giết bỏ thây oan mình.
Nước nầy Chúa thánh thần minh.
Nào ai giữ đạo thiên sinh bao giờ,
Chúa trời bay thật đạo vơ,
Bỏ đi tao đặng thứ tha dong tình,
Chẳng thì tao giết bỏ mình,
Phước đâu chẳng thấy, tội tình nhuốc nha.
Inê đặt gối trình qua:
Chúng tôi giữ đạo Chúa cha nhơn từ,
Thật đàng công chính chẳng tư.
Tôi đâu dám bỏ công phu ngãi người?
Mặc ông tha giết hai lời;
Tôi thà chịu chết, cõi trời nên công.
Giết tha thì mặc lượng ông,
Kim thạch là lòng chẳng chậy mỗ phân
Ông nghè chẳng muốn giết dân,
Vật chi phụ nữ nhọc nhằn quân ta?
Hãy giam tạm nó một nhà,
Ngày sau sẽ nộp lượng hòa một khi” (câu 141-164)
Cảnh ly biệt khi Mat cô, người chồng, vào nhà giam thăm vợ Inê:
“… Anh giã Duminh Inê,
Rày em ở lại anh về cho an,
Đêm ngày cầu nguyện dưới bàn,
Xin hai em đặng làm quan cõi trời.
Nầy đoạn mát cô càng thương
Tìm lên viếng vợ tư lương thảm sầu,
Inê em hỡi cầm đâu?
Rày anh đến viếng bạn hầu kẻo thương.
Vợ chồng đạo ngãi tào khương,
Con thơ nỡ bỏ lo lường làm sao?
Lìa nhau anh dám cãi nào.
Làm chi lên nỗi tù lao rạc hình.
Inê lẵng lặng làm thinh.
Chồng càng than khóc vợ mình kể khuyên:
Sắt cầm từ thuở ấu niên,
Nỡ nào ly biệt cho an tấc lòng.
Dẫu chẳng nên đạo vợ chồng,
Con thơ ai kể quan phòng dưỡng nuôi,
Má hồng mặt bạc mày môi,
Mình vàng vóc ngọc bỏ tôi chẳng nhìn?
Em hỡi nghe lời anh khuyên,
Sắt cầm giai lão nên duyên hiệp hòa.
Inê rằng: chước quỷ ma,
Nó toan làm hại hồn ta phen nầy.
Mát cô anh đã tới đây,
Công linh nghĩa Chúa tôi rày trả ơn.
Anh thì ở lại chớ sờn,
Thìn lòng giữ đạo chẳng hơn cũng tày,
Ngày sau ta lại hiệp vầy.
Thương thì cầu nguyện hồn ngay thẳng về,
Ấy là ngãi đạo phu thê,
Chớ ra lòng mọn lỗi nghì chẳng nên.
Nghe lời em cứng khôn khuyên,
Giã em còn ở anh về cùng con.
Ròng ròng nước mắt bằng non.
Thương em anh phải ruột don héo sầu,
Từ rày chếch bạn phải âu,
Lìa tâm lìa đức lìa nhau khôn tìm,
Gần ngày đam nộp chị em,
Inê mới gửi thơ đem cho chồng,
Cùng thăm huinh đệ đạo đồng,
Họ hàng trên dưới tổ tông hai đàng.
“Thơ rằng.
Chúa cả cao quang phù trì tiểu tử;
Thiếp nay nhi nữ cám đức phu quân.
Ngãi sắt cầm những ước thiên xuân,
Doan kim cải trọn bề tứ đức.
Đạo chính giúp tôi bền sức,
Ơn trên Chúa cả mở lòng.
Xảy gặp hội mây rồng,
Phải lìa doan cá nước.
Thiếp dầu lỗi tam tùng tứ đức,
Dốc trọn nguyền vạn thọ cõi xa.
Xin lang quân chớ chấp ngãi hòa,
Thương ấu tử mồ côi mất mẹ.
Chàng thì chớ nại, giữ đạo cho bền,
Đến cõi trường miên hai ta lại hiệp
Sau dầu cải nghiệp làm bạn nơi nào,…”
(câu 257-314)
Chú thích
- Nguyên văn: Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651.
- Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên. Sài-Gòn: Tinh Việt Văn đoàn, 1961.
- Trích từ Nguyễn Khắc Xuyên. Phép Giảng Tám Ngày. Bản điện tử.
- Bento Thiện. Lịch sử nước Annam, Về văn bản, xem trích từ Đỗ Quang Chính. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 (Sài-Gòn: Ra Khơi, 1972), tr. 107-129. Tuy nhiên dấu vết chữ quốc ngữ xưa nhất là lá thư đề ngày 12-9-1659 của thầy giảng Igesicô Văn Tín và thầy giảng Bento Thiện viết thư trả lời ngày 25-10-1659.
- Đỗ Quang Chính. Sđd. tr. 119-122.
- Văn học Công giáo Việt Nam, những chặng đường, Sđd. tr.134.
- Văn-hóa tập san, XVII, 1, 9-1968, tr. 82-101.
- Reichstett : Định Hướng Tùng Thư, 1997, tr. 109, 152.
- Công Giáo Việt-Nam Trong Truyền Thống Văn-Hóa Dân-Tộc: biên khảo về văn-hóa giáo dục. Orange, CA : Thời Điểm Công Giáo, 1996, tr. 49.
(Ngôn Ngữ số 28, 1-11-2023; Trích từ Sơ Thảo Văn-Học Công-Giáo Việt-Nam (Toronto: Nguyễn Publishing, 2023; lulu.com )