Người Do Thái già trong nghĩa trang
Lâm Thụy Phong
Tôi không biết ông ngồi trên băng đá lẻ loi từ hồi nào, kế bên có cây gậy gỗ chạm khắc ở đầu tay cầm, dưới đất thêm cái bình tưới cây. Trời đang vào trưa, nắng lên chênh chếch trên đầu, đủ ấm đưa mùa xuân đến từng nụ lá đang bung ra trên cành. Nghĩa trang nhỏ trong thành phố ngoại ô thật yên bình. Bên kia, một hướng đi xuống, đường dẫn vào xa lộ, tấp nập hai dòng xe nối nhau đi vào Paris hay ngược chiều về Cergy Pontoise, thủ phủ của vùng Val d’Oise.
Nghe tiếng chân của chúng tôi trên lối đi trải sỏi, ông ngước đầu, nhẹ nhàng lịch sự nói lời chào hỏi. Đôi chân mài dầy, cặp mắt sáng, nét tinh anh dù đã luống tuổi. Sóng mũi cao, quập xuống, trên đầu đội ” Kippa” đặc biệt của đạo Do Thái. Thấy ông có vẻ cởi mở, hơn nữa còn dư thì giờ nên chúng tôi xin phép được ngồi chung băng đá cho vui.
Sau vài câu xã giao, được khởi hứng, ông bắt đầu tâm sự như đã từng quen biết với chúng tôi từ lâu.
Gia đình ông gốc Do Thái, trôi dạt đến Đức từ đầu thế kỷ 20, và cũng chính nơi đây ông mở mắt chào đời.
“Cha tôi là nhạc sĩ chơi đờn violoncelle, mẹ tôi làm nội trợ. Gia đình chỉ vừa đủ ăn, đủ mặc cho 5 người con, 3 trai, 2 gái đến trường học, nhờ vào tiền lương của cha tôi thu nhập từ các buổi hòa nhạc.” Ông kể cho chúng tôi nghe, giọng trầm ấm mang ít nhiều âm hưởng “gằn trong cổ họng” của người Đức.
“Khi Hitler từ một đảng cực nhỏ mang tên “Lao Động Quốc Xã Đức” gặp thời thế đứng lên nắm quyền, lập ra Đệ Tam Đế Chế (1933, Troisieme Reich). Đảng độc tài, cực đoan, kỳ thị bài Do Thái, tôn vinh nòi giống Đức “cao cả” trên mọi chủng tộc khác (superiorite absolue de la “race maitresse” aryenne), phát động bởi Alfred Rosenberg.
Năm năm sau, 1938, đảng cầm quyền Đức Quốc Xã do “Fuhrer Hitler” chủ trương bài và tận diệt người Do Thái lên cao trào trong “Đêm Pha Lê” (Nuit du Cristal), ruồng bố, truy lùng, đưa người Do Thái vào các trại tập trung phi nhơn, tàn khốc như Struthof, Auschwitz vv, nếu chỉ nhắc lại vài cái tên bi thảm nhứt của lịch sử cận đại.
Chiến tranh chấm dứt, 6 triệu người Do Thái bỏ mạng vì bệnh tật, đói khát, lao động khổ sai trong các “Trại Tập Trung”, “nhơn danh chủng tộc” tận cùng của tàn nhẫn nhơn danh giống người, nhưng không phải là người “. Mắt ông long lanh, lên giọng cao như nghiến răng, và tiếp:
“Gia đình tôi, 5 người không bao giờ trở lại sau cái đêm bố ráp kinh hoàng đó. Chỉ còn em gái út và tôi may mắn do định mạng quyết định, thoát được mẻ lưới bất nhân.
Chúng tôi di cư qua Pháp tá túc với gia đình người bà con xa. Tôi không còn muốn thấy lại nước Đức nhục nhã, nơi tôi đã khóc tiếng chào đời, và cũng chính nơi này cướp của tôi những người thân yêu và đồng bào đồng chủng của tôi”.
Khi ông nói đến đây, tự nhiên tôi bạo dạn hơn, đánh tiếng đặt cho ông câu hỏi “nhạy cảm” về phần mộ của 82 người lính Đức Quốc Xã vô thừa nhận nằm lại trong nghĩa trang này.
Tôi e dè chờ đợi. Ông tằng hắng nhẹ, ngước nhìn tôi qua cặp kiếng lão tròn nhỏ mang sợi dây đeo nơi cổ, chậm rải trả lời:
“Một câu hỏi thú vị ! “.
Ông tiếp:
“Sau chiến thắng của quân đồng minh trước Đức Quốc Xã, thành phố nơi gia đình tôi cư trú tan hoang, khắp nơi chỉ còn những đống gạch vụn nối nhau từ con đường này qua con đường khác. Chờ đợi tin gia đình từng ngày, hy vọng mòn mỏi càng bị bào mòn, tôi đã sống trong trầm cảm, co rút lại trong nổi hận không đáy đối với những kẻ tận cùng khốn nạn mà từ xưa tôi vẫn xem là đồng bào của tôi.
Cái hận đó đeo theo tôi, nặng nề, tỉ lệ thuận với số ngày chưa biết số phận của cha mẹ và anh em tôi đã bị ruồng bắt nghiệt ngã ra sao.
Rồi em gái tôi cùng tôi qua Pháp, cuộc đời đưa đẩy chúng tôi làm lại từ đầu, trên quê hương mới.
Tôi xin được làm giáo sư dạy sử trong một trường trung học ở Sannois, em gái tôi học y tá điều dưỡng, ra trường và có việc làm ổn định vài năm sau.
Thế Chiến tắt lịm, Âu châu điêu tàn, nước Đức tan hoang. Ngày 8 tháng 5 năm 1945, tướng Gustav Jold ký đầu hàng vô điều kiện tại Reims. Chỉ vài tháng sau đó, hội nghị Yalta họp tại nước Cộng Hòa Tự Trị Crimee, Uukraine, vẽ lại địa chánh trị, phân cực cưa hai thiên hạ, bên này và bên kia phải chèo đò qua vĩ tuyến, khui đường hầm “Đông Béc-Lanh” để gọi nhớ bức tường vinh quang bên phía Tây.
Nơi đây, khung cảnh mới, môi trường mới cộng thêm háo hức phấn khởi tái thiết hậu chiến đã giúp tôi vơi bớt nỗi buồn, bình phục, cân bằng tinh thần. Tôi để thì giờ đọc sách, tìm hiểu, nghiên cứu thêm về lịch sử, đặc biệt là Trung Đông, cái nôi của hai dân tộc anh em, thù hận bất cọng đái thiên, mà con đường duy nhứt, theo tôi, là phải chung lưng sanh sống trong hòa bình”.
Chúng tôi lắng nghe một nhà giáo giảng về lịch sử, xen lẫn những bài học nhơn bản qua trải nghiệm cá nhơn đau thương.
Và sau cùng, ông kết luận trước khi chúng tôi chia tay:
“Tôi chôn vùi tất cả mọi hận thù trong tôi, vì hận thù chỉ kêu gọi hận thù. Và từ hàng chục năm nay, khi tôi khám phá mộ phần của 82 người lính Đức yên nghỉ tại đây, mỗi Chúa nhật tôi đều đến cúi chào và tưới cây trên phần mộ này.
Người lính, dù ở phe nào, khi họ nằm xuống, cần phải tôn trọng họ. Vì họ đã sống và làm một người lính và chết đi, NHƯ MỘT NGƯỜI LÍNH. Sau lưng họ, ít nhứt có hai người không bao giờ xem họ là kẻ thù: MẸ và VỢ của họ”.
Nắng đã lên cao trên đầu, đủ ấm chào đón mùa xuân trở lại. Chúng tôi đứng lên xin phép từ giả ông ra về. Ông vẫn ngồi đó, nở một nụ cười nhẹ đầy tự tin, thanh thản như trút được một tâm sự ôm ấp từ lâu.
Chúng tôi còn gặp ông đôi lần sau đó, cũng cô đơn ngồi trên băng đá cũ.
Vài năm sau trở lại, không còn thấy ông. Hỏi người gác dan nghĩa trang mới hay ông đã ra đi, chôn cất nơi nào không ai biết.
Người Do Thái già lặng lẽ ngồi trong nghĩa trang, về với thiên thu, xóa bỏ thù nhà với 82 lính Quốc Xã Đức “đã hy sinh như những NGƯỜI LÍNH Đức Quốc Xã”.
Lâm Thụy Phong
Petrus Ký (1964-1971 )
14/4/2025
