9

            Vì có tinh thần thiên về thực dụng nhiều hơn là về lí thuyết cho nên khi nhìn vũ trụ quanh mình, người Việt ta xưa ít thắc mắc về vấn đề nguồn gốc: vũ trụ từ đâu ra, ai sinh ra nó. Nếu muốn trả lời thì cũng dễ thôi: Trời sinh ra. Còn trời có bản tính ra sao, có phải Đấng Toàn Năng Toàn Thiện không, ta không đặt thành vấn đề. Ta chỉ nhìn thấy vũ trụ nó thế nào, và dùng trí tưởng tượng hình dung thêm cho đầy đủ hơn cái phần nhỏ hẹp thiếu sót do giác quan đem lại. Nói khác đi, người Việt ít quan tâm đến khởi nguyên của vũ trụ, mà chỉ để ý đến hiện tượng của vũ trụ mà thôi.

            Tổng hợp tam giáo cùng với tín ngưỡng ban đầu vốn có, dân tộc Việt đã hình dung ra vũ trụ được tổ chức như sau :

A. Các thế giới khác nhau trong vũ trụ

  • Cõi người (nhân gian) – là cái thế giới con người đang sống đây, là cõi đời (thế gian) đầy bụi bặm (cõi trần, trần gian, trần thế, trần ai). Nó có núi rừng, sông biển, đồng bằng bao la trên đó ngoài con người còn có muông thú chạy trên cạn, chim bay trên trời, cá lội dưới nước v.v… Nhưng chủ yếu vẫn là con người tinh khôn biết sống hợp quần, tổ chức thành đoàn thể xã hội, biết dựa vào thiên nhiên vạn vật để sống, nên gọi là nhân gian.
  • Cõi trời – Trên bầu trời xanh cao thăm thẳm có tới chín tầng mây kia, hẳn phải có một thế giới trên đó (thượng giới) cũng ngự trị một ông vua; đó là Ngọc Hoàng Thượng đế (gọi tắt là Ngọc đế, Thượng đế, Ngọc hoàng) cũng ngự trong cung điện như cung điện của vua dưới trần (Thiên cung, dĩ nhiên là đẹp hơn) với cả một triều đình (Thiên đình) gồm các vị tinh quân (các vì sao), các vị thiên tiên, thiên thần giúp Ngài cai quản các cõi, kể cả cõi trần. Hai vị tinh quân được người ta nhắc đến nhiều nhất là Nam Tào, Bắc Đẩu giữ sổ thiên mệnh ghi việc hoạ phúc, sinh tử của con người dưới trần (1). Thiên Lôi (thần sấm sét) cũng được biết đến vì tượng trưng cho oai trời, khi cần Ngọc hoàng sai đi trừng trị những kẻ phạm tội nặng (2).
  • Cõi tiên (tiên giới, tiên cảnh) – là nơi tiên ở. Trong trí tưởng người trần, ta không xác định nơi nào là cõi tiên. Đại khái Thượng giới có chín tầng trời (tầng mây, cửu tiêu) thì tầng cao nhất có Thiên cung, Thiên đình là nơi Ngọc đế ngự, còn các tầng dưới thì các vị tinh quân, tiên, thánh, thần, tuỳ theo cấp bậc cao thấp mà ở. Vẫn theo trí tưởng tượng của người ta thì cũng có cõi tiên không xa cõi trần lắm. Đó có thể là những hòn đảo nổi trôi bồng bềnh ngoài biển khơi xa lắc, hay chính ở ngay cõi trần này, nhưng là nơi núi non kì vĩ cao thăm thẳm mà người trần tục phải là kẻ có duyên tốt lành từ những kiếp trước mới có thể tới được. Cũng chính từ đây lại nẩy sinh thêm ra biết bao truyện thần tiên thoả mãn được trí tưởng tượng và lòng ước ao của con người về một thế giới lí tưởng.
  • Cõi âm (âm ti, âm phủ, âm cung) – là thế giới của hồn người đã chết. Trong tin tưởng của đại chúng thì cõi âm tối tăm lạnh lẽo như ở dưới những tầng hầm sâu dưới mặt đất, không có ánh sáng mặt trời (3), nhưng cũng rộng bao la với rất nhiều địa ngục, có đến mười tầng do mười vị Diêm vương (Thập Điện Diêm vương) cai quản với sự giúp việc của các vị phán quan.

            Sau khi con người chết, xác chôn đi rồi tan rã, nhưng vong hồn phải xuống cõi âm, đến trước Diêm vương và các vị phán quan để được phán xét. Đây là toà án chung thẩm, định công phạt tội rất công minh, không hề sai chạy. Bị cáo đã ra trước toà này thì hết chối cãi, chỉ còn chấp nhận bản án thôi, vì từng hành vi thiện ác, dù nhỏ nhặt tới đâu, có thể che giấu toà án ở cõi trần, chứ dưới âm ti này chúng đã được ghi vào sổ sách chính xác từng chi tiết tỉ mỉ mà chính can phạm cũng không thể nhớ hết (4).

            Tuỳ theo tội nặng nhẹ, vong sẽ phải chịu những hình phạt ghê rợn tương xứng do bọn quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa thi hành: nào là bỏ vào vạc dầu đang đun sôi sục, nào vứt vào bàn chông, nào lấy kìm rút lưỡi, lấy cưa cưa mình, nào bắt leo qua cầu vồng trơn tuột như bôi mỡ, hai đầu cầu có chó ngao cắn xé, giữa cầu té xuống sông giá buốt hoặc hôi thối, đầy rắn rết.

            Đặc biệt là nếu ở trần gian mà bị hình phạt như thế, con người chỉ chịu có một lần vì chỉ có một thân xác bị huỷ hoại rồi (như bỏ vào vạc dầu) là hết; đằng này ở cõi âm, vong hồn không phải là thân xác vật chất, nên cứ phải chịu hình phạt đớn đau hoài. Chịu loại hình phạt đầu tiên xong, cũng vẫn tuỳ theo bản án, vong còn bị dẫn giải đến các địa ngục khác nhau để tiếp tục chịu các hình phạt khác cho đến khi mãn hạn: hoặc địa ngục lửa cháy không tắt, vong như bị nung trong lò, hoặc địa ngục giá buốt như dao cắt thịt xương không lúc nào dứt v.v… Trên tường của một vài ngôi chùa lớn thường vẽ tranh Thập Điện Diêm vương với các hình phạt kể trên để răn đe kẻ ác.

  • Cõi nước (thuỷ phủ) – là thế giới dưới nước. Người xưa tin rằng ở sâu dưới mặt nước bao la của biển cả kia là thế giới của các loài thuỷ tộc được đặt dưới sự cai quản của Long vương (vua Rồng) ngự trong các toà cung điện ở dưới nước (Thuỷ cung, Long cung). Lạc Long quân, tổ tiên của người Việt, tự nhận là giống Rồng, chia với vợ là Âu Cơ năm mươi trong số một trăm người con trai để đi về biển (sau này ta hiểu là các bộ lạc phân cư để đi khai thác vùng đất ven biển). Sau nữa Thuỷ Tinh bị Sơn Tinh nhanh chân phỗng tay trên mất người đẹp Mị nương, nổi giận thống lĩnh đạo quân dưới nước gồm các loài thuỷ tộc dâng nước lên núi Tản Viên đánh Sơn Tinh.

            Tất cả cho thấy người xưa quan niệm thế giới nước rất gần gũi và liên hệ mật thiết với thế giới người chúng ta. Ngoài biển cả ra, các sông lớn nhỏ, khe suối, hồ đầm đều có các vị thuỷ thần dưới quyền Long vương cai quản. Rồi ngoài sự kiện nước vô cùng cần thiết cho đời sống con người (cho nghề nông, nghề chài lưới, cho sự lưu thông), nước cũng có thể gây tai hoạ đắm thuyền, ngập lụt làm chết người; còn các vị thuỷ thần cũng thích ngao du thăm thú cảnh đẹp trên đất liền (5), nhiều khi cũng thích… người đẹp của nhân gian như Thuỷ Tinh lên hỏi Mị nương, con gái của Hùng vương làm vợ như truyện Sơn Tinh – Thuỷ Tinh đã nói ở trên.

  • Cõi Phật (Phật quốc, cõi Niết Bàn, Tịnh thổ hay Tịnh độ, cõi Cực Lạc). Người xưa tin rằng cõi Phật ở về phương Tây là nơi chư Phật trụ trì và là nơi tiếp đón chúng sinh nào lúc sống ở trần gian tu theo chánh pháp bằng cách giữ giới, hành thiện theo giáo lí của đức Phật, trả xong nghiệp cũ, thì lúc lâm chung, trút bỏ xác phàm, được chư Phật tiếp độ, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, dứt hẳn hệ luỵ với cõi trần đầy đau khổ mà lên hẳn cõi Phật.

            Điều đáng chú ý là đại chúng Việt xưa lại nhắc và thờ đức Phật A-di-đà và đức Bồ tát Quán Thế Âm (trong hình tượng nữ và thường được gọi nôm na là đức Phật bà Quan Âm) nhiều hơn là đức Giáo chủ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Lí do là đức Quán Thế Âm Bồ tát được dân gian tin là vị bồ tát chuyên nghe tiếng kêu cầu của chúng sinh để sẵn sàng dùng quyền phép nhiệm màu cứu khổ cứu nạn cho họ bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào họ cần đến. Còn đức Phật A-di-đà thì tiếp độ vong linh các chúng sinh tin và niệm danh hiệu của Ngài, cầu lúc lâm chung được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Ngài. Đó là Tịnh độ tông với phương pháp tu niệm giản dị mà cũng đạt cứu cánh giải thoát nên được đa số tín đồ thuộc giới bình dân hành trì. Phật tử khi đến chùa chào các vị tăng, ni và chào nhau bằng câu niệm “Nam mô A-di-đà Phật” hoặc “A-di-đà Phật” hoặc niệm tắt “Mô Phật”.

B. Sự liên hệ giữa thế giới siêu phàm với nhân gian

            Người xưa nghĩ rằng so với các thế giới siêu phàm thì thế gian này ở khoảng giữa: so với cõi trời, cõi tiên ở trên thì cõi người ở dưới nên gọi là hạ giới. Ta nói lên trời, lên tiên và ở trên đó thì xuống trần (hạ giáng phàm trần, tiên sa hạ giới). Riêng cõi Phật thì một mặt người ta cho là ỡ cũng xa lắm về phương Tây (Tây phương Cực Lạc thế giới), hiển nhiên vì đạo Phật tới Việt Nam và Trung Hoa từ Ấn Độ (tức từ phương Tây). Muốn tới đó, con người phải trải qua một cuộc hành trình lâu dài, tức phải tu hành có khi nhiều kiếp mới tới được (như bà Thị Kính phải tu mười kiếp mới thành chánh quả). Nhưng mặt khác cõi Phật cũng rất gần vì “Phật tại tâm”, “tâm tức Phật, Phật tức tâm” (6).

            Còn cõi nước và cõi âm thì ở gần nhân gian hơn và phía dưới nên ta nói là ở dưới thuỷ phủ, xuống thuỷ cung, xuống âm ti, ở dưới địa ngục; còn ở dưới đó thì nói trên trần, lên cõi trần.

            Nếu các thế giới có cấp bậc cao thấp thì các “nhân vật” (tạm gọi như thế) ở các thế giới ấy cũng có mức độ thanh khiết khác nhau. Riêng con người, so với các nhân vật thượng giới, vì có nhiều tham dục nên u mê, và có thân xác nặng nề ô uế nên không “bay” lên được các cõi trên, còn xuống nước thì chìm; về mặt vật chất thi không bằng loài chim loài cá nữa. Cho nên người ta dùng từ “phàm tục” để chỉ tính chất không được nhẹ nhàng trong sạch của con người: người phàm (tục), phàm phu tục tử, cõi phàm (tục).

            Ở trên trời, Ngọc Hoàng Thượng đế là tối cao. Ngài cai quản tất cả vũ trụ gồm năm cõi ─ trừ cõi Phật là cõi hoàn toàn giải thoát thanh tịnh, nhân vật trên đó đã hết bị lục dục thất tình (7) chi phối ─ các ông vua các cõi khác đều nhận mệnh lệnh và chịu trách nhiệm với Ngọc Hoàng: đức Thái Thượng Lão quân (tức Lão tử huyền thoại hoá) cai quản chư tiên và các cõi tiên; Tứ hải Long vương mỗi ông coi một biển (Đông, Tây, Nam, Bắc) và giữ việc nước nôi như hiện tượng rồng thả vòi xuống biển hút nước làm mưa (trước trận mưa dông lớn) cho dân hạ giới làm mùa, nhưng cũng có thể dâng nước làm ngập lụt (dĩ nhiên theo lệnh của Ngọc Hoàng) như một cảnh cáo, trừng phạt tội lỗi của con người; Thập Điện Diêm vương cai quản âm ti địa ngục, các loài ma quỉ và các vong hồn bị đày xuống đó vì tội lỗi đã phạm khi sống ở thế gian.

            Còn ở cái thế giới loài người này thì có nhiều giống dân, nhiều nước, mỗi dân mỗi nước có một ông vua chịu mệnh trời cai trị dân nước mình như đã trình bày trong chế độ quân chủ. Song còn vô vàn bí mật ở ngay cõi trần này khiến người ta tin rằng phải có nhiều vị thần khác có nhiệm vụ Trời giao cho trong coi những việc ngoài tầm sức quá giới hạn của con người. Do đó, “đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, núi có Sơn Thần”; một khu rừng sâu thằm âm u có thể là nơi ngự trị của một bà chúa Thượng Ngàn, một cảnh hồ đầm đẹp đẽ có thể là lãnh vực cai quản của một đức Mẫu Thoải (Thuỷ).

            Ngoài ra lòng sùng tín của người xưa còn tin rằng những bậc hiền tài lúc sống thì chính trực quang minh, có công lớn với dân với nước như các vị anh hùng cứu quốc, các bậc hiền thần lương tướng trụ cột của triều đình; hoặc những người có công trong phạm vi nhỏ hẹp hơn như mộ dân khai khẩn đất hoang để lập ấp dựng làng, làm cho dân cư một vùng được thịnh vượng, hoặc những người con hiếu, người vợ tiết hạnh, người bạn thuỷ chung v.v… khi chết nêu được gương sáng đạo lí cho đời thì sau đó hồn được hiển linh, vị thì được Thượng đế phong thần, vị thì được dân chúng cảm phục nhớ ơn tự ý lập đền thờ làm thần thành hoàng để cầu sự che chở. Nói chung, đó là các vị phúc thần.

            Ở đây có một trường hợp đặc biệt phản ảnh lòng sùng thượng đạo lí và khuynh hướng hướng thiện của người xưa; đó là tục thờ Táo quân mà người bình dân gọi nôm na là Ông Táo hay Vua Bếp với sự tích “Hai Ông một Bà” tượng trưng bằng ba “ông đầu rau” tức ba hòn đất nung đặt nồi lên trên để đun nấu. Sự tích đó như sau: hai vợ chồng nghèo, gặp năm đói kém, chồng phải bỏ quê đi tha phương cầu thực, dặn vợ nếu quá ba năm không về thì vợ hãy đi lấy chồng khác; người vợ chờ quá thời hạn trên không thấy chồng về, mới lấy chồng khác. Một hôm có một người đàn ông ăn mày đến nhà xin ăn, bà này nhận ra chồng cũ liền đưa vào nhà cho ăn uống tử tế. Đang hàn huyên tâm sự thì ông chồng sau đi săn chợt về, bà vợ giấu chồng cũ vào đống rơm, nhưng người chồng sau ném con mồi săn được vào đống rơm nướng thịt. Người chồng cũ chết cháy, người vợ thương quá nhảy vào đống lửa chết theo, người chồng mới thương vợ cũng nhảy vào lửa tự thiêu chết nốt. Thượng đế thương cái chết vì đạo nghĩa của ba người nên phong cả ba làm thần bếp cho mỗi gia đình. Cứ hàng năm vào ngày 23 tháng chạp (ngày xẩy ra bi kịch trên), các vị thần bếp phải lên trời báo cáo hành vi thiện ác của từng nhà để Thượng đế dựa vào đó mà ban phúc hay giáng hoạ. Từ đó có tục vào ngày trên, nhà nhà cúng Táo quân: ngoài thực phẩm còn món đồ mã gồm áo, mũ, hia để thần mặc lên Thiên đình chầu Thượng đế và một con cá chép để thần cưỡi bay lên trời. Như vậy người trong nhà phải tự khuyên nhau làm điều thiện tránh điều ác vì nhà nào cũng có một vị thần giám sát trong nhà, mà lại ở ngay trong bếp thì chẳng có chuyện gi giấu được.

            Cũng có người lúc sống không có gì đặc biệt, nhưng lúc chết gặp giờ thiêng, muốn được hưởng hương khói của dân cư một vùng bèn báo mộng cho người đứng đầu dân cư vùng ấy phải lập đền thờ thì sẽ ban phúc, nếu không sẽ giáng hoạ. Thí dụ người và gia súc trong một vùng tự nhiên bị bệnh dịch, thuốc thang vô hiệu mà cầu cúng thì khỏi. Người ta tin đó là thần hiển linh, vậy phải lập đền thờ vì “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Đó là các thế lực đứng giữa, có thể là ác, cũng có thể là thiện; dù sao vẫn còn ham muốn hưởng thụ sự cúng cấp của nhân gian, chưa đạt tới mức thanh tịnh “vô cầu” để “phẩm tự cao”.

            Chế độ quân chủ với chủ trương tôn quân còn coi ông vua một nước có địa vị ở trên bách thần. Do đó vua có quyền sắc phong danh hiệu cho một vị thần căn cứ vào đức hạnh, công trạng lúc sống hay công đức đối với dân sau khi đã thành thần và liệt vị ấy vào hạng thượng, trung hay hạ đẳng thần (8). Hai bên: vị thần linh được thờ và dân địa phương thờ vị thần ấy đều muốn được vua sắc phong để việc thờ phụng cúng tế có danh chính ngôn thuận. Trong “Việt Điện U Linh” (VĐUL) và “Lĩnh Nam Chích Quái” (LNCQ) có nhiều truyện các vị thần ứng mộng cho vua đang ngự giá thân chinh, xin đi theo ám trợ lập công để sau đó được vua sắc phong và truyền chỉ cho dân một địa phương lập đền thờ hầu được hưởng sự cúng tế lâu dài (9).

            Thấp hơn cả là các cô hồn, tức là vong của những người lúc chết không có thân nhân mà phải nhờ vào lòng từ thiện của thiên hạ “vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa” (10) rồi sau đó không được thờ phụng cúng cấp vào những ngày giỗ, tết: chẳng hạn những người ăn mày tha phượng cầu thực chẳng may chết ở đầu đường xó chợ, những ngưòi không có con cháu, cũng không có tài sản để lập người thừa tự v.v… Những vong này nếu vì nguyên do nào đó chưa siêu thoát hay chưa đi đầu thai kiếp khác, sẽ trở nên ma đói ma khát, lang thang vất vưởng kiếm ăn bằng cách quấy nhiễu người sống mà yếu bóng vía để đòi cúng cấp. Đó là đối tượng của bài “Chiêu hồn ca” (cũng gọi là “Văn tế thập loại chúng sinh”) do Nguyễn Du sáng tác vào dịp lễ Vu Lan rằm tháng bảy âm lịch.

            Theo tín ngưỡng Phật giáo và điều này đã trở thành tập tục của dân ta thì ngày này là ngày xá tội vong nhân, các địa ngục mở cửa để lũ vong cô hồn kéo đến các chùa dự đại lễ cầu siêu may ra giác ngộ được chân lí nhiệm mầu của đức Phật mà giải thoát, hoặc ít ra cũng được bố thí một bữa no nê, vì ngày ấy ở chùa cũng như ở tư gia, nhất là các nhà giàu, đều bày biện đồ ăn, vàng mã trước là cúng cô hồn, sau là bố thí cho kẻ khó để lấy phước. Đây là ngày hội bố thí cho kẻ khó cả ở dưới âm ti lẫn ở trên dương thế. Xưa kia có nhiều làng lập am chúng sinh, do của công hay do các nhà giàu hảo tâm dựng nên nơi tha ma mộ địa để thờ cúng cô hồn, vừa mong được phước, vừa tránh bị quấy nhiễu.

C. Sự giao tiếp giữa thế giới siêu phàm với nhân gian

  1. Con người hướng tới các thế giới siêu phàm

            Con người luôn luôn ước mơ có khả năng vượt khỏi cái thế giới vật chất hạn hẹp này để đi tới được các thế giới khác mà họ nghĩ là đẹp đẽ hơn (11), hoặc nếu không được ở hẳn trên các cõi đó thì cũng được biết qua để thoả mãn trí tò mò. Nhưng con người cũng tự biết mình có thân xác phàm tục nặng nề ô uế không thể tự mình bay lên được các thế giới thượng đẳng thanh khiết (cõi trời, cõi tiên, cõi Phật); hoặc sợ không dám và cũng chẳng có cách gì xuống được thuỷ phủ, âm ti với tình trạng sống bình thường để mắt thấy tai nghe những điều xẩy ra ở đấy. Bởi vậy người xưa cho rằng con người trần tục chỉ có thể tới được các thế giới khác trong một số trường hợp đặc biệt:

  • Lạc vào cõi tiên: Một người gọi là tình cờ đi lạc vào cõi tiên, nhưng thực ra anh chàng (12) đã tạo được nhân duyên có khi từ nhiều kiếp rồi. Truyện Từ Thức từ quan vì coi nhẹ danh lợi rồi đi ngao du sơn thuỷ, ra cửa bể Thần phù, lên đảo, lạc vào hang núi, tới được cõi tiên và kết duyên với nàng Giáng Hương lại chính là thiếu nữ đánh gẫy cành hoa mẫu đơn quí trong ngày hội hoa dưới trần thuở nọ, bị bắt rồi được chàng cởi áo cừu chuộc ra.
  • Xuống cõi âm: Trường hợp này thì con người phải để xác phàm lại bằng cách nhờ thầy pháp đánh đồng thiếp (làm cho ngủ thiếp đi; một cách thôi miên?), sai âm binh đưa hồn xuống cõi âm thăm vong người thân rồi lại trở về (13),  hoặc người chưa đến ngày tận số, nhưng bị viên chức cõi âm bắt chết lầm vì trùng tên họ (14): người ấy tự nhiên lăn đùng ra như chết, thân nhân thấy tim còn đập, thân thể còn nóng, không dám chôn; một thời gian ngắn sau đó, người ấy tỉnh lại và kể lại mọi chuyện trong giấc mộng đáng sợ nhưng lại rất hiếm người có được ấy.

            Người xưa cũng nghĩ rằng một vài trường hợp hãn hữu người trần trực tiếp tới được các thế giới khác là nhờ phép màu của các bậc siêu phàm, các vị thần tiên cho tháp tùng trên “chuyến bay đạp mây cưỡi gió” (15) hoặc được các vị thuỷ thần rẽ nước dẫn xuống thuỷ cung (16).

            Trong các thế giới siêu phàm mà con người hướng tới thì cõi trời, cõi Phật, quá cao xa, nhất là cõi Phật thì thật là tột cùng của lí tưởng, con người chỉ có thể tới đó bằng con đường tu hành kiên trì khổ hạnh để tự giải thoát vĩnh viễn: từ bỏ hẳn cõi đời ô trọc đầy hệ luỵ khổ não này. Điều này không phải ai cũng theo được, không phải ai cũng mong vì người đời còn quá nhiều kẻ nặng trĩu tham dục.

            Cõi âm là cõi chết, đáng sợ đối với người dương gian vì ở cái thế giới âm u lạnh lẽo đó có Diêm vương, có phán quan hết sức nghiêm khắc, cùng với bọn quỉ sứ hình thù quái dị dữ tợn và các hình phạt ghê rợn chờ sẵn kẻ có tội trên trần xuống, mà ai ở trên trần này dám tự cho mình là không có tội? Thuỷ cung thì ngộp thở với các loài thuỷ quái khổng lồ dị hình dị dạng nuốt người như chơi, cũng chẳng đáng ao ước chút nào!

            Vậy chỉ còn cõi tiên là đáng mơ ước nhất đối với con người. Được lên sống ở đó thì con người sướng như… tiên: không lo đói rét bệnh tật, tai hoạ chết chóc, cũng chẳng phải làm lụng vất vả, không có tranh chấp kình địch, do đó không có chiến tranh tù đày. Trên đó lại có cảnh đẹp tuyệt vời, bốn mùa hoa nở, có đào tiên ăn, rượu tiên uống để sống mãi trẻ hoài, và nhất là có… bầy tiên nữ đẹp lộng lẫy như… tiên(!) quanh năm đàn sáo múa hát và sẵn sàng kết hôn với chàng trai dưới trần nào có diễm phúc, có tiền duyên để đi lạc được vào cõi này.

            Tiên cảnh quả là thế giới đẹp đẽ lí tưởng mà trí tưởng tượng của người xưa đã có thể bay bổng và vẽ ra để mà ước mà mơ mà mộng tới được. Đó đúng là sự biểu hiện bằng hình tượng sinh động và đầy tính nghệ thuật của lòng khao khát tự do tuyệt đối của con người muốn thoát khỏi mọi ràng buộc của luật trần gian (luật thiên nhiên, luật do con người đặt ra), mà lại vẫn được hưởng thụ đầy đủ. Nói gọn lại, tiên cảnh là trạng thái hạnh phúc đầy nhân tính mà con người mong mỏi có được. Thế giới ấy không quá nghiêm mật như Thiên đình, không khô khan như cõi Phật (diệt hết mọi dục tình, hết khổ nhưng cũng không còn sướng nữa). Thế giới tiên trái lại rất “người” ở khía cạnh tốt đẹp mà thôi, mọi xấu xa đã được loại trừ, nhất là “người” ở chỗ còn tình, còn chuyện âm dương chồng vợ.

            Cũng do còn nhiều tình người mà các nàng tiên hay tò mò xuống trần dạo chơi để rồi ngơ ngác vin gẫy cành hoa (Giáng Hương trong truyện Từ Thức), đánh rơi vỡ bình pha lê (Ma Cô Tiên trong truyện Việt tỉnh ở “Lĩnh Nam Chích Quái”) để rồi mang nợ, vấn vương ân tình ân nghĩa với người trần, phải lo trả. Có nàng tiên còn xuống trần trêu ghẹo chàng trai hạ gìới và khi được chàng đáp lại thì tự tìm đến với chàng (Giáng Kiều trong “Bích Câu Kì Ngộ”).

2. Các bậc siêu phàm hướng tới nhân gian

            Con người trần gian hướng tới các thế giới siêu phàm nhiều khi thấy quá cao xa, quá khó nếu không nói là không thể tới được. Vì vậy họ mong các bậc ở trên ấy xuống trần để cứu giúp họ. Theo tin tưởng của người xưa thì các vị ấy có quyền năng màu nhiệm nên đi lại giữa các thế giới rất dễ dàng: hoặc đằng vân giá vũ, cưỡi rồng (17), cưỡi hạc (18), hoặc các ngài tàng hình biến hiện, người trần mắt thịt không thể thấy được. Không gian bao la như biển rộng muôn trùng, núi non cao ngất là cách trở đối với người phàm, nhưng không là gì cả đối với các bậc ấy.

            Song điều quan trọng đối với con người là các ngài dùng quyền phép ấy hạ giáng phàm trần để phù hộ độ trì những kẻ ngay lành thoát khỏi hoạn nạn khổ đau hoặc do bất hạnh, hoặc do các thế lực bất thiện nhiễu hại.

            Thuyết đầu thai đã đem đến cho người xưa cách giải thích khá ổn về nhưng con người phi thường (đẹp phi thường, tài giỏi phi thường) xuất hiện trên cõi đời này. Đó là những bậc siêu phàm có nhiệm vụ xuống trần cứu giúp người đời, nhưng lại không được để lộ cho thấy rõ “thiên cơ huyền nhiệm” nên đầu thai vào bụng một bà mẹ và sinh ra như một người bình thường. Song dù sao vẫn có những dấu hiệu khác thường trong các trường hợp này như trước khi thụ thai, trước khì sinh nở, bà mẹ nằm mơ thấy những điềm tốt lành, kì lạ, hoặc được thần linh báo mộng. Ngay việc chọn cha mẹ cho các bậc siêu phàm trong cuộc đời dưới trần cũng là một cách Trời thưởng cho người nhân đức, có đủ tư cách, xứng đáng được hưởng cái diễm phúc, cái vinh dự lớn lao ấy.

            Từ khi các bậc ấy sinh ra đời tới lúc trưởng thành, cái vẻ đẹp, cái tài năng vượt trội dần dần sẽ phải lộ ra. Rồi khi làm xong nhiệm vụ cứu nhân độ thế, lập được công nghiệp lớn lao nêu gương sáng và để tiếng thơm lại cho muôn đời sau là các ngài “về trời”. Đến đây thì người ta không muốn thấy cái chết của con người bình thường xẩy đến cho các bậc siêu phàm (xác chết xấu xí, ghê rợn, ô uế) nên nghĩ rằng các ngài phải ra đi êm ả: bay lên trời (như Thánh Dóng), hoặc ít nhất cũng biết trước lúc ra đi và sửa soạn cho các xác phàm được thanh khiết: sắc diện vẫn hồng hào như người ngủ, thân thể không thối nát cho đến lúc nhập lăng… (Từ Đạo Hạnh, Trần Nhân Tông ngồi chắp tay mà “hoá”).

            Trong sự liên lạc giữa các thế giới khác với trần gian, ngoài cách báo mộng, còn trường hợp rất thường xẩy ra là nhân vật ở các thế giới kia mượn xác phàm của một con người để nói lên ý muốn của mình và bắt người trần phải thực hiện (19). Đó là các ông hoàng bà chúa, các cô các cậu muốn bắt một số người làm con công đệ tử để hầu hạ, muốn được lập đền, lập phủ, lập miếu hoặc ít ra là bàn thờ tại tư gia để khói hương cúng bái (20). Cũng có khi là vong người chết ở cõi âm thiếu thốn thứ gì nên nhập vào một thân nhân để đòi được cúng cấp thứ ấy (21). Hoặc là hồn oan nhập vào kẻ đã hại mình để đòi mạng, trả thù hay là cô hồn nhập vào những người yếu bóng vía, quấy nhiễu (làm cho ngơ ngẩn, ốm đau) để đòi được cúng cấp thức ăn, quần áo v.v…

D. Tương quan giữa muôn loài ở trần gian

            Ở trên ta đã xét tới mối liên hệ và sự giao tiếp giữa các thế giới khác trong vũ trụ với thế giới con người. Nhìn chung là có sự tương thông vì có thế ta mới biết được sự hiện hữu của các thế giới ấy cũng như của các bậc siêu phàm, dù biết một cách gián tiếp: qua giấc mộng, qua hiệu quả của phép màu. Trong sự tương thông ấy thì quan trọng đối với người xưa là sự hiện diện của các bậc siêu phàm ngay chốn nhân gian này, vì điều đó có ảnh hưởng lớn, tác động mạnh đến đời sống con người.

            Nói chung thì cũng giống như trong đời sống con người với nhau, mọi hiện tượng trong vũ trụ, chủ yếu là trong thế gian này mà con người được chứng kiến là cuộc tranh đấu giữa hai thế lực đối nghịch nhau: thiện với ác, chính với tà mà phần thắng cuối cùng đa số con người luôn luôn mong là nghiêng về phía thiện chính, vì con người là trung tâm, là đối tượng, là thành phần của cuộc tranh đấu đó và trực tiếp lãnh hậu quả của nó.

            Thật thế, cõi nhân thế này được gọi là nhân gian vì con người gần như là được làm chủ mặt đất (khai thác và hưởng thụ tài nguyên trên đó), nhưng không phải con người muốn làm gì thì làm, muốn sống thế nào cũng được, mà phải sống hướng thiện. Cõi đời này quả là một trường học, một trường thử thách ở đó con người phải luôn luôn tự rèn luyện để dần dần leo lên cao hầu được giải thoát; bằng không thì tụt dần và cuối cùng rơi xuống vực thẳm của tội lỗi và đau khổ.

            Sự hiện hữu của bậc thang vô hình ấy mà con người phải leo qua được lập căn trên thuyết luân hồi và nằm trong đó là thuyết đầu thai hoá kiếp. Thuyết này củng cố niềm tin vào lí tưởng thiện chính và thúc đẩy con người sống theo lí tưởng ấy. Đó là sự kiện con người có thể hoá kiếp thành loài vật thấp nhiều hay ít tuỳ theo nghiếp xấu nhiều hay ít (22).

            Như vậy trong các loài hữu tình ở thế gian này thì con người cao hơn cả vì ở ngay bản chất, loài người đã ưu việt hơn loài vật. Thật thế, vì hình thể, con người cũng đẹp đẽ hơn con vật cho nên từ Ngọc hoàng cho đến các vị thần tiên và ngay cả chư Phật, chư vị Bồ tát cũng đều thị hiện bằng hình dáng con người; và chúng sinh cũng từ con người mà leo lên các bậc trên. Sau đó các loài khác dẫu là thành tinh, có pháp thuật hơn hẳn con người, khi xuất hiện ở cõi trần vẫn ưa hiện thành hình người; các loài hữu tình mà đa tình cũng thích kết duyên với người trần, dĩ nhiên trong trường hợp này, bản thân chúng dù là gì đi nữa, chúng vẫn hiện thành hình người.

            Truyện ông Chu An, một danh nho cuối đời Trần, sau khi từ quan về làng mở trường dạy học; trong số học trò có hai người dung mạo đẹp khác thường, không bao giờ ngồi cùng chiếu với các học trò khác. Có người thấy họ từ dưới nước đi lên. Chu An biết là thuỷ thần. Một năm trời làm hạn hán, ông yêu cầu họ làm mưa cứu dân. Vì kính sợ thầy, họ mài mực trong nghiên rồi vẩy mực lên trời, một lúc mây đen phủ kín bầu trời, rồi mưa như trút nước xuống. Nhưng rồi hôm sau không thấy họ đến trường nữa; và người ta thấy xác hai con thuồng luồng nằm chết trên bờ sông. Chu An biết là họ làm trái ý trời nên bị tội chết, bèn sai học trò đem xác họ đi chôn và lập miều thờ.

              (“Tang Thương Ngẫu Lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (hán văn) và “Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện” của Phan Kế Bính (văn quốc ngữ) đều kể truyện Chu An và đều có chi tiết về học trò thuỷ thần này).

            Về sự tinh khôn thì con người cũng hơn hẳn muôn loài dù thân xác và sức lực của các loài đó có thể lớn mạnh hơn hẳn con người hoặc nguy hiểm đối với con người, có khả năng sát hại con người dễ dàng (miệng hùm nọc rắn). Bởi thế con người hầu như khống chế và làm chủ muôn loài. Nhưng cũng với cái trí khôn hơn hẳn muôn loài ấy mà con người lại đi vào đường ác thì nó lại gây tội lỗi nguy hiểm cũng hơn hẳn các loài khác. Vậy con người và nhân gian này đúng là một “địa bàn trung lập” trong đó cả ác lẫn thiện đều có mặt để cho con người được tự do lựa chọn mà đi xuống hoặc đi lên.

            Cũng đặc biệt hơn khác loài hữu tình khác, con người lại đa tình hơn cả, cho nên cũng bị đủ thứ liên hệ tình cảm ràng buộc, khó lên được các thế giới cao siêu. Quả vậy, có cắt đứt được mọi mối liên hệ tình cảm thế tục như thất tình lục dục, trong đó mạnh nhất là lòng ái dục (tình yêu nam nữ và lòng ham muốn dâm dục 23), con người mới mong ra khỏi vòng tục luỵ, thoát được mọi nỗi đau khổ trần gian.

            Truyện cổ kể rất nhiều trường hợp con người đã lên được cõi tiên rồi, chỉ vì nhớ nhà mà đòi về cõi trần thăm gia đình, không nghe lời khuyên của “người tiên”. Đến lúc về tới trần gian, người xưa cảnh cũ không còn (24), muốn quay trở lại cõi tiên thì than ôi!… non Bồng nước Nhược đã trôi vào cõi mờ mịt nào rồi, tìm đâu thấy nữa! Hối tiếc thì đã muộn!

            Trở lại việc con người có thể hoá kiếp thành vật tuỳ theo nghiệp quả báo ứng, ta thấy tính cách quyết định nằm trong hành động biểu hiện cá tính chủ yếu của một cá nhân. Chẳng hạn người gian giảo xảo quyệt chuyên lấy của cải của người ta, kết cục bị người khác lấy hết, mình không những trắng tay mà còn bị đoạ vì lòng tham như sự tích con cá Nược vốn là một mụ đàn bà cả đời làm giàu bằng cách vu cáo những người khách buôn thuyền lấy trộm tài sản của mụ rồi dùng mánh khoé lột hết tài sản của người ta. Đến khi gặp kẻ cao tay hơn, mụ bị lột hết sạch mà còn bị làm nô lệ, phải xuống thuyến với chủ đem theo cả đống của cải đã cướp giật của người khác. Mụ tiếc của, đâm đầu xuống biển chết, rồi hoá kiếp thành con cá nược có vú hay nhô lên khỏi mặt nước khi có thuyền đi qua để tỏ ý tiếc của.

            Hoặc sự tích con muỗi là một người vợ có nhan sắc mắc bệnh nan y mà chết, rồi được một vị thần tiên cứu cho sống lại bằng cách bảo người chồng cắt tay lấy ra ba giọt máu rỏ vào thi thể. Nhưng rồi người vợ ấy phụ bạc chồng, bỏ đi lấy kẻ giàu có hơn để sống xa hoa. Đến khi chồng cũ đòi lại ba giọt máu thì y thị ngã lăn ra chết, rồi hoá kiếp làm loài muỗi chuyên rình hút trộm máu người để mong sống lại làm người, nhưng luôn luôn bị người tìm cách đập chết. (cả hai truyện trên đều được kể trong VNVHTT q. II của Hoàng Trọng Miên).

               Cái nghiệp hoá kiếp cũng tuỳ thuộc vào tâm ý nào mà một con người khư khư giữ mãi trong lòng, có khi đến lúc chết cũng không chịu bỏ, chẳng hạn một mối thù hận không nguôi, hay một ước nguyện chưa thoả (25). Sự tích chim hét thích ăn giun có ý khuyên người ta nên bỏ oán thù để khi chết được nhẹ nhàng giải thoát mà không bị đoạ: một người tên Giun có phận sự canh giữ hoa màu ngoài cánh đồng lỡ tay đánh chết bố một người tên là Hét khi bố Hét ăn trộm lúa; Hét quyết tâm tìm giết Giun để báo thù cha. Giun chạy trốn, sau được Phật hoá kiếp thành con giun chui xuống đất. Khi Hét than khóc vì không rửa được thù cha, phải mang tội bất hiếu thì Phật hoá kiếp cho thành loài chim hét chuyên tìm bắt giun để ăn (26). Hoặc như truyện người thiếu nữ tên là Thị Tơ bị chết rét; trước khi chết nàng được nằm trong đống chỉ mềm ấm áp, nên nàng ước nguyện đem lại sự ấm áp cho những kẻ thiếu quần áo che thân như nàng. Vì vậy Miên).

            Kho truyện cổ dân gian của ta có vô số truyện đầu thai hoá kiếp cho thấy niềm tin rất phổ biến của dân ta vào thuyết luân hồi nghiệp báo, đồng thời cũng biểu hiện quan niệm bình đẳng giữa con người và vạn vật.

            Thật thế, một mặt con người là loài hữu tình cao cấp như đã nói ở trên, nhưng mặt khác con người cũng có thể đoạ xuống thành loài vật đằng cấp thấp nhất (thí dụ loài côn trùng như con muỗi), thậm chí một vài trường hợp còn hoá kiếp thành loài thực vật, đồ vật như ba truyện sau đây (cũng được kể trong VNVHTT q. II của Hoàng Trọng Miên):

  • Truyện “Cây sen, cá hoà thượng và chim cốc” kể về một người đàn bà đang ngoại tình với nhà sư, bị chồng bắt gặp, nhảy xuống nước chết đuối hoá thành cây sen; nhà sư nhảy xuống theo cũng chết đuối, hoá ra con cá hoà thượng, người chồng nhảy theo xuống đuổi bắt cũng chết nốt hoá thành con chim cốc chuyên lặn mò bắt cá hoà thượng.
  • Truyện “Cái bình vôi” kể về một nhà sư còn giữ lòng căm hận và có ác tâm định đẩy một tên trộm chuyên trộm của chùa đã sám hối đến cái chết thê thàm, nhưng nó lại được cứu độ, còn chính nhà sư lại gặp cái chết thảm đó khi nhảy từ một cành đa xuống, bị một cành khác xuyên thủng bụng, hoá kiếp thành cái bình vôi (27). Tương tự như vậy, trong truyện “Cái ống nhổ”, một chú tiểu có ác tâm làm hại đồng đạo cũng bị bất đắc kì tử, hoá kiếp thành cái ống nhổ cho người đời tỏ dấu ghê tờm (nhổ vào).

             Ngoài tính cách ngụ ngôn răn đời, các truyện trên đồng thời biểu lộ quan niệm “thiên địa vạn vật nhất thể”. Lại nữa, giáo lí nhà Phật cũng chủ trương “chúng sinh giai hữu Phật tính”. Vậy một con vật mà sống thiện (không làm hại người hay vật khác), sau khi trả hết nghiệp xấu mà đã khiến nó phải đoạ làm kiếp con vật, tuỳ theo nghiệp tốt tạo được trong lịch trình các kiếp sống, nó lại leo dần lên những bậc thang cao hơn của chúng sinh rồi tu và cuối cùng vẫn có thể giác ngộ thành Phật.

E. Đặc điểm trong tín ngưỡng về tổ chức vũ trụ của dân tộc Việt

  1. Hữu tình hoá thiên nhiên để đạt được sự hoà hợp

            Như đa số các dân tộc Á Đông khác, dân tộc Việt khi xưa sống bằng nông nghiệp thô sơ, họ trông cậy nhiều vào thiên nhiên (khí hậu, thời tiết):

Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm;
Trông cho chân cứng đá mềm,
 Trời trong bể lặng mới yên tấm lòng. (ca dao)

            Sống giữa cảnh trời đất bao la, rừng biển núi sông hùng vĩ kì tú, họ cảm thấy vừa sợ hãi lại vừa yêu mến thiên nhiên, coi đó như những vật có tình (non nước hữu tình), dù mức độ tình cảm có thể khác nhau, tuỳ từng lúc: phù hợp hay trái ngược với tình cảm của con người (tính chủ quan), nhưng nhất định thiên nhiên không hoàn toàn vô tri vô giác. Bởi vậy thái độ của họ đối với thiên nhiên là:

a) Tìm sự thông cảm hoà hợp với thiên nhiên

            Nhiều khi con người lại đi tìm ở thiên nhiên niềm an ủi cho những nỗi đau buồn do cuộc sống với chính đồng loại của mình gây ra. Họ không nhìn thiên nhiên như một đối tượng để chinh phục hầu thoà mãn tham vọng của mình (28). Điều này thấy rõ trong giới nho sĩ học thức, sau thời kì hăng say nhập thế hành đạo, lập công danh sự nghiệp rồi, dù cuối cùng thành công hay thất bại, họ cũng tìm đến thiên nhiên như một lối thoát, hoặc như một nơi nghỉ ngơi cần thiết cho người khách bộ hành sau quãng đường chang chang nắng hạ, tìm đến nơi danh lam thắng cảnh có cây cao bóng mát, có non nước hữu tình, suối chảy róc rách, chim hót véo von, trăm hoa đua nở để ưu du thưởng lãm, di dưỡng tính tình.

            Ở đây tuy có ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang chủ trương sống tự nhiên (kiến tố bão phác, thiểu tư quả dục 29), càng gần gũi với thiên nhiên càng tốt, nhưng đồng thời đó cũng là một đặc tính của tâm hồn người Á Đông mà Lão, Trang chỉ diễn tả thành một chủ thuyết rõ ràng. Chẳng thế mà Tăng Điểm, một học trò của Khổng tử, khi đến lượt được Ngài hỏi về chí hướng riêng, đã bày tỏ như sau: “ Tiết cuối xuân, quần áo mùa xuân may xong, cùng bạn bè đi tắm ở sông Nghi, hóng gió mát ở đền Vũ Vu, cùng nhau ngâm vịnh rồi về!” và thầy Khổng cũng phải tán thưởng cái chí cao thượng ấy. (nguyên văn hán: “Mộ xuân giả, xuân phục kí thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui”, Luận Ngữ, thiên Tiên tiến).

            Muốn đạt được sự thông cảm hoà hợp nói trên, con người, nhất là giới văn nhân nghệ sĩ, phải thấy thiên nhiên có hồn, có liên hệ mật thiết với con người (thiên nhân tương dữ):

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!  (Truyện Kiều)

và có khả năng đem đến cho con người niềm vui bất tận:

Cuộc đời thử ngẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một câu thơ.
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang san phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta…
(Nguyễn Công Trứ – Thoát vòng danh lợi)

b) Tìm ở thiên nhiên nguồn nuôi dưỡng, sự che chở

            Lòng tín ngưỡng, lòng sùng bái các thế lực siêu nhiên phát sinh từ đây. Thật thế, khi gieo hạt thóc xuống đất, nhờ mưa nắng thuận hoà, hạt nẩy mầm thành cây lúa xanh tươi rồi trổ bông chín vàng đem lại nguồn sống cho mình, con người vẫn biết rằng phải đem bát mồ hôi của chính mình đổi lấy bát cơm:

Cầy đồng đương buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cầy.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. (ca dao)

nhưng họ không cho rằng sức lao động của mình là vạn năng, mà tin là cái nguồn năng lực bí mật của thiên nhiên đã âm thầm giúp đỡ con người để họ có thể làm thành kết quả và sống được:

Ơn trời mưa nắng phải thì,
 Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu.
Công lênh chẳng quản lâu lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng. (ca dao)

            Họ tin rằng trời che đất chở con người và muôn vật trên mặt đất này, nuôi dưỡng cho tất cả được sống đầy đủ như trời là cha, đất là mẹ; vậy ta phải biết ơn Trời Đất quỉ thần (30). Cho nên hàng năm vua đại diện cho dân phải tế trời ở đàn Nam Giao (ở kinh đô) đắp hình tròn (tượng trời) vì Trời sinh ra muôn vật, tế Thần Đất và Thần Lúa ở đàn xã tắc đắp hình vuông (tượng đất) vì đất và lúa nuôi sống người. Các quan đứng đầu mỗi địa phương (tỉnh) cũng phải thay mặt vua làm lễ tuy ở qui mô nhỏ hơn.

            Còn dân thì phải thờ phụng tổ tiên và cúng bái quỉ thần. Thờ phụng tổ tiên để tỏ lòng biết ơn tiền nhân đã từng vất vả khai sơn phá thạch gây dựng nên cơ nghiệp để lại cho mình và cũng là để giữ tinh thần liên đới giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và vị lai hầu tiếp nối truyền thống tốt đẹp “cây có gốc, nước có nguồn”, “chim có tổ, người có tông”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” vì:

Cây có gốc mới nẩy ngành sanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu;
Người ta nguồn gốc từ đâu,
Có tổ tiên trước rồi sau mới có mình. (ca dao)

            Còn thờ kính quỉ thần là để cầu sự yểm trợ siêu hình trong những việc lớn vượt khỏi tầm vóc, khả năng bé nhỏ hạn hẹp của con người như đã trình bày ở trên.

2. Nhân gian hoá vũ trụ để có được sự điều hoà

            Thật sự thì chẳng ai chứng minh được sự hiện hữu của các thế giới siêu hình và của các thế lực siêu phàm. Nhưng tuyệt đại đa số người xưa tin có Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần, vong linh, ma quỉ… vì thấy một cách gián tiếp: thấy sự hiệu nghiệm và kết quả của lòng tin ấy, tự nhiên mà thấy, hoặc do cầu đảo mà thấy. Cứ giả thử tất cả đều do trí tưởng tượng của con người vẽ vời ra thì đó cũng là để đáp ứng một nhu cầu thật sự cần thiết của nhân loại lúc nào cũng muốn vươn lên cao và mở rộng cảnh sống của mình ra đến vô tận (31).

            Xét kĩ ra thì tín ngưỡng về tổ chức vũ trụ của người xưa cũng là niềm tin dựa theo tổ chức xã hội của con người thời ấy, chủ yếu là chế độ quân chủ với hệ thống tôn ti trật tự của Nho giáo: Ngọc hoàng Thượng đế là ngôi vị tối cao của vũ trụ, có Thiên đình là chính quyền trung ương của vũ trụ (tương ứng với triều đình ở mỗi nước dưới trần) có các vị tinh quân, thiên quan phò tá và ở các cõi (địa phương) cũng có các vị “quân”, “vương” đứng đầu, thay Ngọc hoàng cai quản “muôn dân” của vũ trụ: Thái thượng Lão quân cai quản chư tiên, Tứ hải Long vương cai quản bốn biển có dân là các loài thuỷ tộc, Thập điện Diêm vương cai quản âm ti địa ngục với lũ vong hồn, yêu ma, quỉ mị. Các vị quân vương này cũng có các quan chức dưới quyền giúp việc.

            Vậy Ngọc hoàng là trời được nhân hoá (ông Trời) để đứng đầu và điều hành “guồng máy vũ trụ” để mọi “sinh hoạt vũ trụ” trong đó có thế giới con người được điều hoà. Chức năng điều hành này được chú trọng hơn là chức năng sáng tạo của Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện (32). Còn quan niệm Trời là nguồn gốc, là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật, là bản thể siêu hình của vũ trụ, tương đương với “lí Vô Cực”, “lí Thái Cực” của Nho giáo, “Chân Như”, “Bản lai Diện Mục”… của Phật giáo, “Đạo”, “Nhất” của Lão giáo, thì không được đại chúng quan tâm tìm hiểu, phân tích, vì điều quan trọng đối với họ là:

            Trời cần phải có như là vị chủ tể sáng suốt, chí công vô tư, cầm cán cân công lí siêu hình cho tuyệt đối công minh chính xác trong sự thưởng thiện phạt ác sau cùng. Điều này con người khao khát nhưng lại không có được trong cõi đời này, nên họ mong và tin rằng phải có ở các thế giới siêu việt cao đẹp hơn, các thế giới mà họ hi vọng tới được nếu họ quyết tâm đi theo con đường (ĐẠO) do các bậc siêu phàm đã đi qua và chỉ dạy lại cho họ. Các bậc siêu phàm ấy là đại biểu cho lí tưởng thiện chính;còn yêu ma quỉ quái là phía tà ác đối nghịch. Trong cuộc đối đầu này thiện chính nhất định mạnh hơn và cuối cùng phải thắng.

            Như thế vũ trụ đối với người xưa là một hệ thống các thế giới từ thấp lên cao trong đó các loài hữu tình cũng vừa đi từ thấp lên cao, vừa phải trả cái nghiệp do chính mình tạo nên theo đúng luật nhân quả. Chúng sinh cũng được tự do lựa chọn hoặc tu thân tức là tự thanh lọc mình để vươn lên các cõi cao hơn hầu được sung sướng, hoặc tự để rơi (sa đoạ, đoạ lạc) xuống các cõi thấp hèn để chịu đau khổ.

            Tới đây thì ta thấy sứ mạng của PHẬT và của cõi Phật là mục đích cứu cánh, là chung kết của cuộc hành trình: hễ tới được là chúng sinh đạt được sự QUÂN BÌNH TUYỆT ĐỐI mà ngày nay ta gọi là chân hạnh phúc. Tìm được sự quân bình này là không còn chao đảo, không còn đau khổ nữa. Đó là đặc sắc của triết lí Đông phương mà dân tộc Việt Nam tỏ ra thấm nhuần trong khuynh hướng dung hoà tổng hợp tam giáo xưa kia, cũng như dung hoà tổng hợp Đông Tây sau này vậy.

Chú thích cuối chương thứ chín

(1)  Cao Bá Quát làm đôi câu đối khi thân phụ ông qua đời: – Thảng nhược bộ túng cửu tiêu, trì trúc trượng dục tiên Bắc Đẩu; Túng sử phi đằng vạn trượng, giải ma y cải tịch Nam Tào. –  Nghĩa: ví bằng bước lên được chín tầng trời, cầm gậy tang muốn đánh sao Bắc Đẩu; giả sử bay cao được muôn trượng, cởi áo sô để chữa sổ Nam Tào. Ý ông muốn trừng phạt hai vị tinh quân kia sao dám để cha ông chết, và quyết sửa sổ sinh tử để cha ông sống lại! Đúng là khẩu khí ngông nghênh, sẵn sàng làm loạn.

(2)  Thành ngữ bình dân “Trời đánh, Thánh vật” chỉ hình phạt dành cho những kẻ phạm tội nặng tày trời như giết hay đánh chửi cha mẹ, đốt phá đình chùa, báng bổ thần thành v.v… Hình phạt đó là bị sét đánh chết (Trời đánh) hoặc tự nhiên ngã lăn đùng ra chết mà có dấu hiệu bất thường như hộc máu mồm máu mũi ra (Thánh vật).

(3)  Âm 隂 có nghĩa là bóng râm (ánh sáng bị che khuất), Thái Âm là mặt trăng tự nó không có ánh sáng, trái với Thái Dương là mặt trời tự phát ra ánh sáng. Cõi trần được mặt trời chiếu sáng nên còn gọi là dương thế, dương gian, dương trần, cõi dương.

(4)  Người ta còn cho rằng dưới âm có tấm gương, chỉ cần cho vong đứng trước tấm gương đó là mọi hành vi trên trần của y sẽ hiện ra như cuộn băng ghi hình thời nay vậy; thế là y hết chối cãi.

(5)  Các vị thuỷ thần có thể có nguyên hình là một loài thuỷ tộc, nhưng khi lên đất liền thường biến thành hình người như truyện hai người học trò thuỷ thần của Chu An cứu hạn cho dân.

(6)  Vua Trần Thái Tông chán ngôi vua, bỏ ngai vàng lên núi Yên Tử để đi tu. Phù Vân quốc sư trong lời khuyên vua trở về kinh đô làm tròn phận sự của vị chủ tể quốc gia trước đã, có câu: “Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm”: trên núi không có Phật, chỉ có (Phật) trong tâm (ta) mà thôi.

(7)  Thất tình: hỉ: mừng, nộ: giận, ai: buồn, lạc: vui (hoặc cụ: sợ), ái: yêu, ố: ghét, dục: ham muốn. – Lục dục: theo Phật giáo là 6 điều ham muốn của 6 căn (giác quan): mắt ham sắc đẹp, tai ham tiếng hay, mũi ham mùi thơm, lưỡi ham vị ngon, thân (xúc giác) ham cảm giác êm ái, ý thức ham muốn sự sung sướng (tổng hợp tất cả lại).

(8)  Trong điện thờ thần ở đình, đền, trên cái bệ cao nhất đặt cái ngai là nơi thần ngự; trên ngai đặt cái thần chủ (bài vị) bằng gỗ sơn son đề danh hiệu thần, trước ngai đặt một cái tráp dài cũng sơn son thếp vàng trong đựng sắc bằng giấy vàng của vua phong cho thần (nên gọi là hòm sắc). Khi sắc vua ban từ kinh đô về đến tỉnh sở tại, dân địa phương thờ thần được thông báo, phải tổ chức đám rước sắc long trọng, đặt hòm sắc lên kiệu có lọng che rồi trống rong cờ mở rước về đình, đền làm lễ tế ăn mừng (tựa như ăn khao) tương tự ngày hội tế thần hàng năm. Trong những đám rước thần, người ta cũng hay rước cả hòm sắc theo: tinh thần tôn quân và lòng sùng bái thần linh được kết hợp thể hiện.

(9)  Hai anh em Trương Hống, Trương Hát ứng mộng cho vua Lê Đại Hành trước khi vua đánh quân Tống (LNCQ). Cũng hai ông này hiện ra với Nam Tấn vương nhà Ngô khi vương đánh giặc Lí Huy (VĐUL). Lí Phục Man ứng mộng với vua Lí Thái Tổ (VĐUL).

(10) Trường hợp Đạm Tiên trong Truyện Kiều.

(11) Như Đường Minh hoàng tiết Trung Thu được một đạo sĩ trải cây cầu bằng vải đi lên cung trăng, được xem bầy tiên nữ múa hát khúc Nghê Thường (mặc áo 7 màu cầu vồng). Khi trở lại cõi trần, nhà vua dạy lại cho cung nữ múa hát khúc ấy.

(12) Điều đáng chú ý là chỉ có người trần phái nam lạc vào động tiên, kết duyên với tiên nữ; không có người nữ cõi trần lạc vào động tiên để “làm dâu” cõi tiên.

(13) Pháp sư phải chọn trong số thân nhân của vong một người khoẻ mạnh, can đảm, lại có niềm tin mạnh nhất, tình nguyện “đi thăm” vong. Thời gian đánh đồng thiếp (làm cho mê đi), chỉ ngắn độ 1, 2 giờ (vì hồn được âm binh dẫn đi nên nhanh hơn xác đi bộ). Pháp sư phải túc trực ở pháp đàn, cẩn thận theo dõi, điều khiển âm binh trong chuyến đi; nếu không, có thể “khê đồng” tức người được đánh đồng thiếp chết luôn vì hồn đi lạc ở cõi âm, không vể được dương thế nữa.

(14) Thí dụ truyện Viếng địa ngục (VNVHTT, q, II, Hoàng Trọng Miên), thư sinh Lê Hiếu Chân người làng Trường Xuân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá bị bắt (chết) lầm vì trùng tên họ với một anh đồ tể người làng Thường Xuân. Cũng trong sdt, truyện “Thủ Huờn” có vợ đã chết, lại hiện nguyên hình đi chợ dương gian rồi gặp và dắt chồng trực tiếp xuống thăm cõi âm; truyện này có lẽ có tính cách ngụ ngôn răn đời nhiều hơn.

(15) Thường thường trên “đường bay”, đương sự được dặn là phải nhắm mắt lại (để khỏi kinh sợ và cũng để khỏi lộ thiên cơ); chẳng kẻ trần tục nào lại dám trái lời thần tiên, vì mở mắt ra là rơi xuống nát xương!

(16) Thí dụ truyện trạng nguyên Giáp Hải lấy vợ là công chúa Thuỷ cung đội lốt rùa, lúc về thăm “quê vợ” được vợ rẽ nước đưa đi (theo Hoàng Trọng Miên, VNVHTT, q. II). Cũng truyện này trong “Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện” do Phan Kế Bính kể, không có chi tiết nêu trên.

(17) Trong LNCQ, truyện Đầm một đêm, Chử Đồng Tử cưỡi rồng hiện xuống cho Triệu Quang Phục một cái vuốt rồng để làm lẫy nỏ đánh thắng quân Tàu xâm lược.

(18) Tiên thường cưỡi hạc vì hạc là giống linh điểu sống hàng ngàn năm như các vị tiên trường sinh bất tử. Trong “Bích Câu Kì Ngộ”, Tú Uyên cùng vợ tiên là Giáng Kiều được đôi chim hạc từ trời xuống đón về.

(19) Các nhân vật của các thế giới khác chỉ có thể hiện vào giấc mộng (ứng mộng) cho một vài người đặc biệt, còn đa số người khác nghe kể lại, có thể không tin. Còn nhập vào một người đang sống sờ sờ để nhiều người cùng thấy thì họ phải tin, sợ và đồng lòng làm theo.

(20) Từ đó nẩy sinh ra nạn đồng bóng sẽ nói ở chương sau.

(21) Đây là một cách giải thích cho tục đốt vàng mã.

(22) Theo giáo lí đạo Phật thì nếu gây nhiều tội lỗi trong kiếp sống này, sau khi chết, con người sẽ phải đoạ vào một trong ba đường dữ (tam ác đạo) là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh (hay bàng sinh).

(23) Theo giáo lí đạo Phật, bản chất ham sống sợ chết của các loài hữu tình biểu lộ ra hai lòng dục chính: thực dục (ham ăn uống để có thể sống được) và dâm dục (ham thích giao hợp phái tính để có thể truyền lại sự sống mãi mãi). Ấy cũng là cái nghiệp khiến các loài ấy phải luân hồi trong vòng sinh tử.

(24) Người xưa tin rằng 1 ngày trên cõi tiên dài bằng 1 năm dưới cõi trần. Một người ở cõi tiên 1 năm, khi về lại cõi trần thì cảnh vật dưới ấy đã tang thương biến đổi, người cùng thế hệ đã qua đi tự bao giờ!

(25) Giáo lí đạo Phật cho rằng cái cận tử nghiệp (ý nghiệp tạo ra và giữ tới lúc sắp chết cũng không chịu bỏ) có sức mạnh quyết định bước đi của kiếp sau của một con người. Vậy lúc lâm chung, ta phải xả hết: không hận thù cũng chẳng lưu luyến ai, mà chỉ nghĩ hướng về Phật để được giải thoát.

(26) Tục ngữ: “Muốn ăn (thịt chim) hét, phải đào giun (làm mồi đánh bẫy)”. Trong “Truyện Cổ Nước Nam”, biên giả Nguyễn Văn Ngọc phê bình vai trò của Phật như sau: “Đã bảo Giun trốn, lại mách Hét chỗ trốn của Giun; rồi sau lại cho Hét bắt Giun. Thật thà lắm là ông Bụt! Ông đã cứu người mà lại không bỏ qua cái lẽ oan oan tương báo.”

(27) Tính cay nồng của vôi tượng trưng lòng căm hận. Ngày xưa, những bình vôi vỡ hay dùng lâu ngày vôi đóng cứng không dùng được nữa, người ta thường đem bỏ ra gốc cây đa là do sự tích này; có người còn gọi là “ông bình vôi” nữa. Nhân người ta cũng tin là những cây đa cổ thụ cành lá sum suê có thần, nên thường tỏ vẻ kính cẩn mỗi khi đi qua; ngày rằm, mồng một người ta thắp hương ở dưới gốc cây; có khi xây một cái bệ thờ dưới gốc cây. – Nhân truyện này, ta liên tưởng tới truyện Trầu cau với hai nhân vật hoá ra cây và một nhân vật hoá ra đá. Còn truyện Hòn vọng phu người hoá đá thì có ở nhiều địa phương.

(28) Đây là nguyên nhân tâm lí khiến các dân tộc Đông phương đi sau các dân tộc Tây phương về khoa học kĩ thuật.

(29) Nghĩa: thấy được chỗ thuần chất, giữ lấy tính tự nhiên (mộc mạc như cây gỗ chưa đẽo, chưa bào nhẵn), ít riêng tư, bớt ham muốn (“Đạo Đức Kinh”, ch. XIX.)

(30) “Quỉ” thoạt tiên chỉ có nghĩa là vong linh người chết, “thần” là tinh hoa của con người do sống cuộc đời thanh cao, làm được nhiều việc tốt cho đồng loại, lúc chết hồn trở nên linh thiêng. “Quỉ” mà có nghĩa xấu ác là nói tắt của quỉ quái, quỉ sứ, quỉ mị, ma quỉ.

(31) Như công cuộc khám phá vũ trụ không gian của con người ngày nay.

(32) Đại chúng Việt không có quan niệm nhất định Trời phải toàn năng, chẳng hạn có lúc ta nói: “đến thế thì Trời cũng thua” hay “nhân định thắng thiên”; và Trời phải toàn thiện: Trời cũng có lúc nổi cơn lôi đình (ra oai sấm sét) và cũng còn bất công như câu ca dao “Trời sao Trời ở chẳng công; kẻ ba bốn vợ, người không vợ nào”, “Trời sao Trời ở chẳng cân, kẻ ăn chẳng hết, người lần không ra”.