Co vay – Nguyen Duy Chinh

Chung Quĩ đánh cờ với tiểu mị
(tranh Phạm Tăng)[1]

Có thể nói gần như người Việt chúng ta ai ai cũng biết ít nhiều về cờ tướng (tượng kỳ) nhưng lại không mấy ai chơi cờ vây (vi kỳ). Môn cờ tướng là một sinh hoạt thường nhật của người mình nên văn chương thơ phú đề cập đến rất nhiều chẳng hạn như bài Ðánh Cờ,[2] một áng văn chương tuyệt tác, vừa linh động, vừa dí dỏm. Trong Lều Chõng, Ngô Tất Tố miêu tả hai nhà nho đánh cờ để tiêu khiển mùa hè còn Nguyễn Tuân trong Vang Bóng Một Thời thì nhắc đến một thầy địa lý và một thanh niên vừa đi cáng vừa đánh cờ bằng miệng. Một truyện ngắn khác của Khái Hưng, Tương Tri, kể một ông lão vượt một quãng đường xa đến đánh cờ với một ông cụ khác, thoạt đến thoạt đi như một ông tiên. Thế nhưng trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, mỗi khi nói đến chơi cờ – môn được liệt vào một trong bốn thú vui tao nhã cầm kỳ thư họa – thì nói về cờ vây chứ không phải cờ tướng.

Cờ vây tiếng Anh gọi là Go Game là một môn giải trí đã có rất lâu ở phương Ðông mặc dù chỉ mới phổ thông ở phương Tây chừng một trăm năm nay, sau khi người Âu Châu có những tiếp cận với Á Châu qua thương mại và chiếm lĩnh thuộc địa. Ngay từ lúc đầu cờ vây được đánh giá rất cao vì chú trọng đến phương pháp lý luận (rationalization). Một kỳ thủ là ông Emanuel Lasker đã nói:

Người viết cũng như đa số độc giả kiếm hiệp không biết môn cờ vây như thế nào. Thiên khảo luận này cũng như nhiều bài khác cũng chỉ là những góp nhặt từ sách vở để thỏa mãn sự tò mò và giúp cho chúng ta có cái nhìn rõ rệt hơn về những chi tiết nơi tiểu thuyết.

Cờ vây tiếng Hán là “vi kỳ” (圍棋) vì chủ yếu của môn chơi này là làm sao bao vây và tiêu diệt bên địch. Cũng như bất cứ bộ môn nào, người ta luôn luôn tìm cho ra một tổ sư. Cho nên cờ vây cũng có một vị tổ mà theo Trương Hoa (張華) trong Bác Vật Chí (博物志) thì:

Thần tích này cũng được lập lại trong nhiều sách vở cận đại nhưng không có gì chắc chắn. Theo Edward Falkener thì ghi nhận sớm nhất về cờ vây vào khoảng 300 trước Tây Lịch, dựa trên khảo cứu của Giles, lãnh sự Anh tại Trung Hoa cuối thế kỷ XIX. Giles cũng gọi cờ vây là cờ chiến tranh (a game of war), một cuộc chiến “không dựa trên vũ khí trang bị cho hai đạo quân mà dựa trên cách bài binh bố trận, phòng ngự và tấn công”. Hai bên không tiêu diệt nhau từng quân một mà có thể tiêu diệt cả một đoàn và người đánh cờ không chỉ tập trung vào một chỗ mà phải thấu triệt toàn bộ mặt trận, những điểm mạnh hay điểm yếu của chính mình và đối phương.[5]

Vi kỳ ngày xưa gọi là “dịch” 弈 (viết với bộ củng). Trong những sách cổ của Trung Hoa như Tả Truyện, Luận Ngữ, Mạnh Tử đã nhắc nhiều đến “dịch” nhưng từ đời Hán trở đi thì cái tên vi kỳ càng ngày càng thông dụng. Hứa Thận trong Thuyết Văn Giải Tự có chép:

弈,圍棋也

Dịch, vi kỳ dã.

Dương Hùng (揚雄) trong Phương Ngôn viết rõ hơn:

圍棋謂之弈。自關東齊魯之間皆謂之弈

Vi kỳ vị chi dịch. Tự Quan Ðông Tề Lỗ chi gian giai vị chi dịch.

Ban Cố (班固) trong Dịch Chỉ (弈旨) cũng xác định là người phương Bắc gọi là dịch trong khi phương nam thì gọi là vi kỳ.

Theo như các nhà nghiên cứu, phương pháp và chiến lược đánh cờ vây trước nay vẫn thế mặc dầu bàn cờ theo thời gian có thay đổi ít nhiều.

Bàn cờ bằng sứ đời Tuỳ
Ðào được trong mộ của Trương Thịnh tại Hà Nam năm 1959
Thiệu Văn Lương: Trung Quốc cổ đại thể dục
Sports in Ancient China tr. 172

Hiện nay bàn cờ gồm ngang dọc mười chín đường, tổng cộng 19 x 19 = 361 nước. Tuy nhiên theo những cổ vật đào được thì bàn cờ nguyên thủy không hẳn như thế. Năm 1977, ở Nội Mông trong một ngôi mộ cổ đời Liêu có một bàn cờ ngang dọc chỉ có 13 vạch (13 x 13 = 169 nước). Năm 1971 bàn cờ đào được ở Hồ Nam, huyện Tương Âm trong một ngôi mộ đời Ðường, bàn cờ có 15 vạch (15 x 15 = 225 nước). Năm 1952, ở Vọng Ðô, Hà Bắc trong một ngôi mộ đời Ðông Hán có bàn cờ bằng đá có 17 đường (17 x 17 = 289 nước) tương tự như bàn cờ trong hình vẽ của nước Thổ Phồn. Bàn cờ bằng sứ đời Tuỳ đào được năm 1959 trong mộ của Trương Thịnh tại An Dương, Hà Nam có 19 đường.[6]Tuy những bàn đó khác nhau về kích thước nhưng tựu trung bao giờ cũng là số lẻ (13, 15, 17, 19).

Ngay từ nguyên thủy, phép đánh cờ chủ yếu là vây và diệt đối phương, lấy đó làm tiêu chuẩn thắng bại. Một bên đặt quân xuống, bên kia liền cố gắng làm cách nào cô lập và loại trừ, đối phương phải đưa ra một kế sách chống lại, và người đặt quân đầu tiên kia không khác gì đưa ra một mục tiêu để tấn công, mang ý nghĩa trung tâm của cuộc diện, được đặt tên là “kỳ nhạc[7](棋鄂). Mã Dung (馬融) trong Vi Kỳ Phú (圍棋賦) có viết:

橫行陣亂

敵心駭惶

迫兼棋鄂

頗棄其裝

Hoành hành trận loạn

Ðịch tâm hãi hoàng

Bách kiêm kỳ nhạc

Phả khí kỳ trang[8]

Bên khách sẽ nhắm vào quân cờ đó đưa ra chiến lược bao vây, tiêu diệt và bên chủ cũng dựa vào đó để kháng cự. Ðời xưa, quân cờ đầu tiên phải đặt ngay chính giữa (giao điểm vạch số 10 trong bàn cờ 19 vạch), và đó là lý do tại sao bàn cờ phải là 13, 15, 17 hay 19 đường ngang dọc.

Nghệ Kinh (藝經) của Hàm Ðan Thuần (邯鄲淳) đời Tào Ngụy có chép:

Sách vở, ca khúc nhiều nơi còn truyền lại cho thấy Nam Bắc triều trở về trước, bàn cờ chỉ có 17 đường. Hiện nay, Tây Tạng, Tích Kim nhiều nơi bàn cờ vẫn chỉ có mười bảy đường mà thôi.

Bàn cờ 19 đường phát hiện sớm nhất vào khoảng đời Tùy. Năm 1959, tại An Dương Hà Nam người ta đào được một bàn cờ bằng sứ có 19 vạch. Thế nhưng theo Tôn Tử Toán Kinh (孫子算經) đời Ðông Hán đã có viết là bàn cờ gồm 19 đường, thành thử rất có thể từ đời Hán người ta dùng cả hai loại bàn cờ 17 và 19 đường.

Theo những chuyên gia về cờ vây, bàn cờ 17 đường hơi nhỏ khó thi triển những nước hay và sự tính toán của các kỳ thủ bị giảm đi nhiều. Ngoài lý do thực tiễn, người ta cũng đưa ra nhiều lý luận, đem cả đạo học và số học vào để nâng nghệ thuật chơi cờ lên một mức cao hơn. Trương Nghĩ (張擬) đời Tống viết trong Kỳ Kinh Thập Tam Thiên (棋經十三篇) như sau:

Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là một cách “tán rộng” chúng ta vẫn thường thấy trong nhiều sách vở, kể cả một số người Việt chúng ta dựa theo sự tưởng tượng phong phú của mình để tìm một lối giải thích những hiện tượng chung quanh cho thêm phần huyền bí.

Ðời xưa, môn cờ vây của Trung Hoa còn một vị trí đặc biệt khác, trước khi hai bên giao đấu thì bàn cờ đã đặt sẵn bốn quân đối xứng nhau, hai đen hai trắng ở bốn góc (cách góc mỗi chiều ba nước) gọi là “thế tử ” 勢子 (quân trấn giữ). Theo suy đoán, nguyên thủy vi kỳ nhằm bao vây và tiêu diệt lẫn nhau, lấy kỳ nhạc làm trung tâm rồi mở rộng ra, làm thế nào giết được quân chính giữa đó là thắng. Ðể ngừa việc một bên tập trung quân lại một chỗ theo kiểu “các cứ nhất phương”, người ta đặt bốn quân bốn góc và dần dần biến thành qui luật để bắt đầu bàn cờ.

Những người đánh cờ cao thường chấp người kém mình hai quân “thế tử” và lối đánh đó gọi là “không hoa giác”, trong kỳ phổ còn ghi lại nhiều bàn cờ như vậy. Bào Ðỉnh (鮑鼎), một danh thủ đời Thanh mạt có viết:

Một điểm khác chúng ta cũng nên nhắc đến là chữ kỳ 碁 (cờ) có thể viết với bộ thạch 石 (đá) vì người xưa nhặt những hòn sỏi làm quân cờ nhưng về sau quân cờ làm bằng gỗ, chính vì thế chuyển sang bộ mộc. Dương Hùng trong Pháp Ngôn viết:

斷木為棋

Ðoạn mộc vi kỳ

Sách Ngọc Lâu Tử chép rằng vua Nghiêu dạy cho Ðan Châu đánh cờ vây rằng:

以文桑為局犀象為子

Dĩ văn tang vi cục, tê tượng vi tử

Càng về sau khi người ta đưa đánh cờ lên một thú tiêu khiển tao nhã, bàn cờ quân cờ càng trở nên tinh vi, vẽ vời nên không hiếm những bộ cờ quí làm bằng sừng, bằng ngà còn lưu lại trong các tàng cổ viện. Tề Kỷ đời Ðường viết trong Tạ Nhân Huệ Kỳ (cảm ơn người cho bộ cờ) là:

海蚌琢成星落落

Hải bạng trác thành tinh lạc lạc

Ðịa Lý Chí trong Tân Ðường Thư thì viết:

蔡州汝南郡, 土貢岷玉棋子

Sái Châu Nhữ Nam quận, thổ cống mân ngọc kỳ tử

Trên một bức thiếp của Bạch Khổng Lục (白孔陸) có ghi:

Tống Sử cũng có chép Tống Thái Tông ban cho Tiền Thục quân cờ bằng thủy tinh, còn Lý Ðông Dương đời Minh thì có bài thơ nhan đề “Vân Nguyệt Dạ Quan Thủy Tinh Kỳ Hí Tác” 雲月夜觀水精棋戲作 (Ðêm trăng có mây ngồi xem đánh cờ bằng quân thủy tinh mà làm ra). Mới đây người ta cũng đào được những quân cờ đời Nguyên làm bằng mã não. Trong Nam Trung Tạp Ký chép về quân cờ làm tại Vân Nam:

Ðời Minh, quân cờ từ Vân Nam dùng làm cống phẩm được khen là “nặng như ngọc”. Minh Nhất Thống Chí (明一統志) có viết là: “Quân cờ Vĩnh Xương thiên hạ không đâu bằng”. Quân cờ nơi đây dùng mã não và đá tử anh tán ra trộn keo rồi nặn thành, là một đặc sản bí truyền của vùng này được gọi dưới cái tên “Vĩnh tử ” (quân cờ đất Vĩnh Xương).[9]

Thế còn bàn cờ thì sao?

Trong lịch sử những bàn cờ được ghi lại rất nhiều. Trong Nam Phương Thảo Mộc Trạng (南方草木狀) của Kê Hàm (嵇含) có viết:

桄榔木性如竹,紫 黑色,有紋理。工人解之,以製弈枰,出九真,交趾

Quang lang mộc tính như trúc, tử hắc sắc, hữu văn lý. Công nhân giải chi, dĩ chế dịch bình, xuất Cửu Chân, Giao Chỉ.

Như vậy người Tàu kể cũng cầu kỳ phải tìm đến tận nước ta ở phương Nam để lấy gỗ làm bàn cờ. Tuy nhiên thông thường người ta dùng gỗ thu[11]vì gỗ này cứng nhưng nhẹ, sớ khít khao “khi quân cờ gõ xuống tiếng nghe như kim ngọc”, nên về sau “thu bình” (楸枰) là một tên gọi khác của bàn cờ. Những bậc đế vương còn cầu kỳ hơn, không hiếm sách vở nhắc đến những bàn cờ, quân cờ bằng ngọc, bằng ngà, bằng sừng tê, sừng linh dương. Lại có cả bàn cờ dệt bằng gấm:

Trong nhiều tác phẩm dã sử, ngoại sử đời Minh Thanh người ta cũng nhắc đến những bộ cờ tìm thấy trong nhà hai quyền thần Nghiêm Tung (嚴嵩) và Hòa Thân (和珅) khi hai người đã bị thất sủng. Những bộ cờ đó được đúc bằng vàng bạc, bích ngọc, bạch ngọc, thủy tinh …

Bàn cờ ngày nay thường làm bằng gỗ phỉ [12], ngân hạnh[13] , quế mộc[14]. Người ta chọn gỗ làm sao để lúc đi quân không nghe tiếng sát phạt, đinh tai và không có sức bật để chơi lâu không bị nhức xương. Bàn cờ cũng thường có chân và nhiều loại rất đắt tiền.[15]

Qua thế ta đủ biết, người Trung Hoa trong nhiều triều đại đã hao phí không biết bao nhiêu công lao hơi sức chỉ để vào những trò giải trí. Chúng ta một mặt vẫn tấm tắc khen ngợi sự tinh xảo và dụng công của họ, một đặc trưng của văn minh Hoa Hạ, mặt khác vẫn nhìn thấy cái khuyết điểm to lớn khi cả một dân tộc chỉ chạy theo những kỹ xảo cỏn con để đến nỗi nhiều lần bị ngoại xâm, mất nước và biết bao thảm họa cho dân tộc.

Ngay từ đời Hán người ta đã nói nhiều đến môn cờ vây. Hán Cao Tổ Lưu Bang đã từng cùng Thích phu nhân uống rượu cúc đánh cờ. Ngoài ra trong sử sách cũng còn ghi đến hàng chục người khác được mệnh danh là hảo thủ, mặc dù cổ nhân cũng khuyến cáo là đánh cờ dễ đưa người ta vào đam mê, khinh suất trong lời ăn tiếng nói. Quá chút nữa, người ta lại còn coi việc đánh cờ như một hình thức bói toán, được là hên (may), thua là xui (rủi). Tam Phụ Hồng Ðồ (三輔黃圖) chép là trong cung nhà Hán khi đánh cờ đầu năm “người thắng cả năm may mắn, người thua cả năm bệnh tật”.[16]

Ði sâu thêm nữa, cờ vây được giới nho sĩ xiển thuật và “tán” rộng. Ban Cố để cả một thiên Dịch Chỉ (弈旨) để viết về phép đánh cờ:

Ông cũng phân biệt “bác” 博 (đánh bạc) với “dịch” 弈 (đánh cờ) cho rằng đánh cờ bao hàm nhiều ý nghĩa, “trên tuân theo luật vận hành của trời đất, rồi tới phương pháp trị nước của thánh nhân, sau đó phân chia quyền lực cho ngũ bá, thích hợp với đường lối trong thời chiến tranh”.[18]

Sau rốt, ông cũng cho rằng việc đánh cờ phù hợp với đường lối của thánh hiền, có tác dụng tu tâm dưỡng tính. Cũng thời này, nhiều văn nhân khác lại cũng đi sâu thêm vào việc ca tụng cái thú nhàn nhã này. Tuyên Ðàm (楦譚) trong Tân Luận (新論) coi việc đánh cờ như hành binh bố trận. Mã Dung (馬融) trong Vi Kỳ Phú (圍棋賦):

Kinh Tịch Chí (經籍志) đời Tùy, người ta xếp sách viết về vi kỳ vào binh pháp loại, chia ra ba bậc. Bậc trên khống chế đại cuộc, không cần đánh mà khuất phục được đối phương. Bậc giữa hai bên tranh thủ từng bước còn bậc dưới chỉ cố thủ một góc cầu hòa.

Ðời Tam Quốc (三國), Tào Tháo (曹操) cũng là một kỳ thủ nổi tiếng. Ngoài ra còn phải kể đến Sơn Tử Ðạo (山子道), Quách Khải (郭凱), Vương Cửu Chân (王九真) rất nổi danh ngang tài với Tào Tháo. Gần đây, khi người ta đào được ở mộ của Tào Ðằng 曹騰 (ông nội Tào Tháo) tại huyện Bạc, tỉnh An Huy một bộ cờ bằng đá thì người ta cho rằng họ Tào là một thế gia về môn cờ vây. Dưới trướng họ Tào cũng có nhiều danh sĩ để lại tác phẩm về cờ vây chẳng hạn Ứng Sướng (應暢) viết tác phẩm Dịch Thế (弈勢), Vương Xán (王粲) viết Vi Kỳ Phú Tự (圍棋賦序). Họ Vương là người nổi tiếng có trí nhớ tốt, xem đánh cờ gặp ván hay có thể đi lại từ đầu chí cuối không sai một quân.

Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, khi viết về Khổng Minh Gia Cát Lượng (諸葛亮), La Quán Trung cũng tô vẽ ông là một người giỏi cờ vây khiến bốn chữ thần cơ diệu toán, vốn dĩ để chỉ việc tính toán nước đi đã biến thành một câu nói chỉ mưu lược. Còn ở Ðông Ngô, hai kỳ thủ Nghiêm Võ (嚴武) và Mã Tuy Minh (馬綏明) được mệnh danh là kỳ thánh và những thế cờ của họ được coi là một trong Ngô Trung Bát Tuyệt (吳中八絕). Kỳ Phổ cổ nhất mà sách vở còn ghi chép cũng từ Ðông Ngô, gọi là Ngô Ðồ (吳圖) đến đời Ðường vẫn còn. Ðỗ Mục (杜牧) trong Trùng Tống tuyệt cú (重送絕句) đã viết:

別後竹窗風雪夜

一燈明暗復吳圖

Biệt hậu trúc song phong tuyết dạ,

Nhất đăng minh ám phục Ngô Ðồ.

Trong Vong Ưu Thanh Lạc Tập (忘憂清樂集) đời Tống còn có chép một ván cờ của Tôn Sách (anh trai Tôn Quyền) đánh với Lã Phạm có tên là Tôn Sách Chiếu Lã Phạm Dịch Kỳ Cục Diện (孫策詔呂範弈棋局面). Trong Nghệ Kinh Hàm Ðan Thuần (邯鄲 淳) chia kỳ nghệ thành chín loại:

Thứ nhất là nhập thần (入神), thứ nhì là tọa chiếu (坐照), thứ ba là cụ thể (具體), thứ tư là thông u (通幽), thứ năm là dụng trí (用智), thứ sáu là tiểu xảo (小巧), thứ bảy là đấu lực (鬥力), thứ tám là nhược ngu (若愚), thứ chín là thủ chuyết (守拙).

Chín thứ bậc này mô phỏng theo lối tuyển người làm quan (cửu phẩm trung chính chế) nhưng không nêu rõ nội dung và tiêu chuẩn nên không biết rõ thế nào chỉ đoán chừng theo tên gọi là người nào đánh cờ tiêu sái, phóng khoáng là bậc cao còn chăm chăm ăn quân, giữ thành là bậc thấp.

Sang đời Tấn, Võ Ðế Tư Mã Viêm (司馬炎) thích đánh cờ khiến cho thời này trở thành một phong trào. Hai gia đình nổi tiếng là họ Vương và họ Tạ rất mê đánh cờ mà đại biểu là Thượng Thư Vương Ðạo (王導), một khai quốc công thần của nhà Tấn, thường đánh cờ với con là Vương Duyệt (王悅). Em Vương Duyệt là Vương Ðiềm (王恬) cũng là một kỳ thủ nổi danh. Còn họ Tạ thì có Tạ An (謝安) nổi danh trong trận Phì Thủy, Tạ Huyền (謝玄) nổi tiếng là tao nhã, trấn tĩnh khi đánh cờ cùng với những danh sĩ khác như Bùi Hà (裴遐), Nguyễn Tịch (阮籍), Vương Thản Chi (王坦之), Nguyễn Giản (阮簡), Viên Khương (袁羌) đều là những người yêu thích cờ vây.

Cũng vào thời kỳ này người ta còn truyền tụng nhiều giai thoại về những kỳ thủ, thái độ vừa khoáng đạt, vừa bình thản, dẫu gặp lúc nguy nan vẫn không biến sắc, nước đi không loạn. Vương Úc (王彧) làm quan dưới triều Tống Minh Ðế. Khi nhà vua[20] bị bệnh nặng sắp chết muốn Vương Úc chết theo mình để khỏi hậu hoạn, nên sai người đem thuốc độc đến ban cho ông. Vương Úc đang đánh cờ, nhận được chiếu chỉ đọc xong, mặt không biến sắc, vẫn tiếp tục đánh nốt bàn cờ dở dang. Khi xong ván cờ, ông nhặt những quân cờ xếp lại ngay ngắn trong hộp, sau đó mới nói cho đối phương biết mình phụng mệnh tự tận rồi cầm chén thuốc độc lên, xin lỗi khách nói rằng:

–    Rượu này rất tiếc không thể mời ai uống được.

Ông nói xong thản nhiên uống. Thái độ trấn tĩnh đó về sau vẫn được coi như một phong thái tiêu biểu cho người quân tử, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng và vì thế người ta xếp việc đánh cờ ngang hàng với cầm, thư, họa.

Người ta cũng ca tụng việc đánh cờ ở hai tư thái khác, ngồi ngay ngắn trước bàn cờ tượng trưng cho sự thẳng thắn, trong sáng (tọa ổn) còn tay cầm quân cờ, đi từng nước cho hay tâm sự, bản tính mình ra sao cũng không khác gì nói chuyện (thủ đàm).

Ðời Tấn cũng còn một danh sĩ khác là Tổ Nạp (祖納), anh của Tổ Ðịch (祖逖) người nổi tiếng vì mỗi sáng sớm khi gà vừa gáy là dậy tập múa kiếm (văn kê khởi vũ – 聞雞起舞) coi việc đánh cờ là để quên sầu (vong ưu) mà sau này vua Tống Huy Tông (宋徽宗) đã coi như một tâm niệm để viết thành câu thơ “vong ưu thanh lạc tại bình kỳ[21] (quên sầu, vui một cách thanh nhã là ở nơi bàn cờ).

Cho tới nay người ta vẫn coi tọa ổn (坐隱), thủ đàm (手談) và vong ưu (忘憂) là ba đặc tính phải có của người thích vi kỳ.

Một trang trongVong Ưu Thanh Lạc Tập
Sports in Ancient China tr. 177

Nam Triều bao gồm một thời gian dài (170 năm) bao gồm nhiều triều đại Tống[22] Tề Lương Trần nên cũng có nhiều người mê đánh cờ. Thời kỳ này đánh cờ cũng được phân chia thứ bậc, có danh hiệu riêng như thời Tam Quốc, lại đặt thêm những tên gọi cho từng loại trong cùng một bậc chẳng hạn như cao phẩm, danh phẩm, thượng phẩm, dật phẩm … Trong kỳ phổ còn ghi tên một số nhân vật thượng đẳng như Vương Ðiềm (王恬), Vương Úc (王彧) đời Ðông Tấn đã được nhắc tới ở trên.

Những quốc thủ đời Tống, Tề đến nay còn ghi lại phải kể đến Vương Kháng (王抗), Hạ Xích Tùng (夏赤松) và Chử Tư Trang (褚思莊). Vương, Hạ, Chử ba người có ba phép đánh riêng, mỗi người có một sở trường, Vương Kháng chuyên về thủ, còn Hạ Xích Tùng lại giỏi về tấn công.[23] Hai người này suy nghĩ nhanh, đi cờ nhậm lẹ, riêng Chử Tư Trang lại đi rất chậm, mỗi lần cầm quân lên suy nghĩ mãi mới đặt xuống, đánh cờ lắm khi kéo dài suốt đêm mới xong một bàn. Người ta kể rằng một lần Vương Kháng đánh cờ với Chử Tư Trang từ trưa đến tối, sang canh năm mới phân hơn thua. Vương Kháng ngồi chờ Chử đi quân, ngủ gật bên cạnh bàn cờ, còn Chử vẫn ngồi suy nghĩ mãi.

Ðời Bắc Nguỵ, quốc thủ phương bắc là Phạm Ninh Nhi (范寧兒) từng đi sứ nước Tề ở Giang Nam, Tề Võ Ðế sai Vương Kháng ra đối trận nhưng Vương Kháng bị thua.

Ðời Ðường là giai đoạn mà văn hoá Trung Hoa lên đến cao điểm, việc đánh cờ cũng được đề cao. Người ta vẫn cho rằng đánh cờ là phản ảnh trình độ trí tuệ, là một môn nghệ thuật thanh nhã. Chính từ đời Ðường mà người ta đặt cầm kỳ thi họa chung với nhau. Chúng ta ai cũng biết thơ Ðường là loại thơ với niêm luật chặt chẽ, cũng thường được ngâm vịnh khi đánh cờ và môn cờ vây đến giai đoạn này đã tiến lên thêm một mức.

Theo điều lệ của Hàn Lâm Viện (翰林院) ghi trong Chức Quan Chí, Cựu Ðường Thư (職官志-舊唐書) có ghi:

Ðãi chiếu (待詔) là chức vụ bên cạnh hoàng đế như một loại cố vấn về những vấn đề chuyên môn, trong đó có cả cố vấn về đánh cờ (thư dịch). Kỳ đãi chiếu nổi tiếng nhất đời Ðường là Vương Tích Tân (王積薪), cố vấn của vua Huyền Tông, tức Ðường Minh Hoàng.

Theo truyền thuyết, sở dĩ Vương Tích Tân kỳ lý giỏi như thế là vì có một con rồng xanh từ thượng giới bay xuống nhả từ trong miệng ra chín quyển Kỳ Kinh (棋經) ban cho. Thực ra, họ Vương là người rất chuyên tâm nghiên cứu cách thức đánh cờ. Mỗi khi đi đâu, ông đem theo một túi quân cờ và một bàn cờ giấy bỏ trong ống tre, treo vào cổ ngựa, gặp bằng hữu liền mở ra đánh, đến cả dân chúng nếu muốn ông cũng chiều. Thành ra đi đến đâu ông cũng được người ta đãi đằng cơm rượu và lâu dần trở thành danh thủ số một của đời Ðường. Ông cũng thường đấu với các danh thủ các nơi và chín ván cờ ông cùng Phùng Uông (馮汪) đấu nơi phủ đệ của Trần Cửu Ngôn (陳九言) được ghi lại thành kỳ phổ tên là Kim Cốc Cửu Cuộc (金谷九局), truyền đến đời Tống thì không còn nữa. Kỳ thế này rất là phức tạp, nhìn vào hoa cả mắt.

Ở đời Ðường, người nổi tiếng chỉ kém Vương Tích Tân là Cố Sư Ngôn (顧師言). Trong Ðỗ Dương tạp biên (杜陽雜編) của Tô Ngạc (蘇鶚) có chép câu chuyện Trấn Thần Ðầu (鎮神頭) về việc Vương tử nước Nhật đến Trung Nguyên được vua Tuyên Tông sai Cố Sư Ngôn đấu cờ. Vương tử này là quán quân về cờ vây của Nhật Bản, Cố Sư Ngôn đấu với y hết sức gay go, toát cả mồ hôi tay. Ðến nước thứ ba mươi ba, Cố Sư Ngôn đi nước Trấn Thần Ðầu giải được thế cờ của vương tử nước Nhật khiến y phải chịu thua. Việc Cố Sư Ngôn đấu cờ với khách còn được ghi lại trong sử sách nhưng thế cờ Trấn Thần Ðầu Nhất Tử Giải Song Chinh mà người ta truyền lại đến ngày nay e rằng chỉ là một thế cờ được sắp đặt vì không hợp với kỳ pháp.

Ngoài Vương Tích Tân và Cố Sư Ngôn, đời Ðường cũng còn nhiều danh thủ khác nổi tiếng như Phác La (朴羅), Hoạt Năng (滑能), Vương Thúc Văn (王叔文) …

Vua Ðường Thái Tông đánh cờ
Tranh đời Tống
Lâm Lê Na: Minh Thanh Cung Đình Hội Họa Nghệ Thuật Giám Thưởng, 2013 tr. 76

Ðời Tống có Lưu Trọng Phủ (劉仲甫) là kỳ thủ nổi tiếng được người tiến cử vào chức kỳ đãi chiếu. Trước khi nhập kinh, ông đến Hàng Châu, khi đó là một nơi phồn hoa đô hội, cao thủ rất đông, ngày ngày ra ngồi xem người ta đánh cờ suốt mười ngày rồi mới trương bảng nơi khách điếm “Kỳ Khách đất Giang Nam là Lưu Trọng Phủ chấp các kỳ thủ đi trước”,[24] rồi đem tiền ra đánh cược.

Bảng trương lên, cao thủ trong thành lập tức ùn ùn kéo đến xin đánh. Ðến nước thứ năm mươi, quân bên Lưu Trọng Phủ trở nên kém thế, đến nước thứ một trăm thì họ Lưu lại càng sa sút, người chung quanh ai nấy cười ông không biết lượng sức mình, to mồm khoác lác.

Ðột nhiên Lưu Trọng Phủ tằng hắng một tiếng, vơ quân cờ trên bàn bỏ cả vào hộp. Người đứng xem ai nấy đều cho rằng ông chịu thua, la ó không cho ông tính nước chạy làng. Lưu Trọng Phủ khi ấy mới từ tốn nói:

–    Tôi đến Hàng Châu xem đánh cờ đã mấy ngày, tài nghệ các vị danh thủ đến mức nào cũng đã thấy. Chẳng hạn như ngày đó ông đó đánh ván cờ đó, đáng lý ra bên trắng thắng to, thế nhưng vì đi nước này nước này thành ra hỏng. Còn hôm này ván cờ này, bên đen thế đang tốt, đi nhầm một quân “kiếp” (劫) thành ra lại thua.

Ông vừa nói vừa bày quân liên tiếp đến mười mấy bàn, người xem ai nấy đều kinh ngạc. Lưu Trọng Phủ nói tiếp:

–    Cứ lấy bàn cờ vừa mới đây mà nói, quí ông chắc hẳn nghĩ rằng tôi thua đến nơi, thế nhưng tôi chỉ đi một quân nữa thì sẽ thắng mười mươi, xin các vị cao thủ nghĩ lại xem có đúng không?

Mọi người hết sức suy tính nhưng không ai tìm ra giải đáp, đành phải xin Lưu Trọng Phủ chỉ vẽ. Lưu Trọng Phủ bày lại ván cờ y như trước, sau đó đặt xuống một quân ở một chỗ không liên quan gì đến thế cờ rồi nói:

–    Quân này sau hai mươi nước nữa mới có tác dụng.

Quả nhiên thêm hơn hai mươi nước cờ, tình hình đúng như lời Lưu Trọng Phủ. Ðến khi buổi cờ kết thúc, Lưu Trọng Phủ thắng cả mười ba bàn khiến nhân sĩ đất Hàng Châu ai nấy đều ra sức hậu đãi, cố giữ ông lại thêm mươi ngày nữa.

Sau đó Lưu Trọng Phủ lên Biện Lương làm đãi chiếu trong Hàn Lâm Viện và là danh thủ vô địch trong suốt hai mươi năm liền. Câu chuyện này cho ta thấy phong khí đánh cờ thời Tống khá thịnh, các nơi thị tứ đều có những cuộc tranh tài và triều Tống đi theo đường lối của đời Ðường đặt chức đãi chiếu trong cung.

Người ta cũng nhận định rằng sang đời Tống, các kỳ thủ không còn chú trọng đến phong độ vong ưu, toạ ổn, thủ đàm nữa mà đi sâu vào các thế cờ hóc hiểm người sau gọi là “kỳ công” (棋工). Ngoài thành thị, các đạo quan, chùa chiền cũng là nơi hay bày ra các cuộc cờ (hội cờ). Không biết ngẫu nhiên hay cố ý, Kim Dung viết Thiên Long Bát Bộ đã cho nhiều ván cờ hóc hiểm được bày ra nơi đạo quan và miêu tả về những ván cờ gay go giữa các nhà sư và đạo sĩ.

Những thế cờ từ đời Tống còn truyền lại khá nhiều và phương pháp suy luận cũng ngày một phát triển. Trong Dịch Kỳ Tự (弈棋序) của Tống Bạch (宋白) đời Bắc Tống có viết:

Ðánh cờ có mấy điều: phẩm, thế, hành, cục. Phẩm là hơn kém, thế là mạnh yếu, hành là kỳ chính, cục là được thua.

Ðạo của phẩm, giản dị mà hiệu quả là bậc thượng, phải đánh mới thắng là bậc trung, nguy cơ mới được là bậc hạ.

Ðạo của thế, rộng rãi thong dong là bậc thượng, trận địa nghiêm nhặt là bậc trung, sít sao gay go là bậc hạ.

Ðạo của hành, an nhiên phản ứng là bậc thượng, nhanh chóng ứng phó là bậc trung, nóng nảy đi quân là bậc hạ.

Ðạo của cục, thư thái mà thắng là bậc thượng, biến hoá mà thắng là bậc trung, sát phạt mà thắng là bậc hạ.

Trần Nguyên Tịnh (陳元靚) trong sách Sự Lâm Quảng Ký (事林廣記) có chép Thập Quyết (十訣) là kinh nghiệm về việc đánh cờ vây:

–    Một là không ham thắng

–    Hai là đánh phải thư thả

–    Ba là công định nhưng không quên củng cố bên mình

–    Bốn là chịu mất quân để tranh tiên

–    Năm là thả cái nhỏ để được cái lớn

–    Sáu là thấy nguy thì bỏ

–    Bảy là cẩn thận không hối hả

–    Tám là ra quân cần tương ứng

–    Chín là nếu địch mạnh thì phải tự bảo vệ mình

–    Mười là thế yếu thì cố thủ hồ

Mười điều trên đây được người sau coi là yếu chỉ để áp dụng trong việc đánh cờ vây nhưng dường như có thể áp dụng trong bất cứ môn chơi nào và là những bài học nhân sinh đầy từng trải. Lưu Trọng Phủ cũng để lại Kỳ Quyết trong đó ghi lại chiến lược, chiến thuật của phép đánh cờ gồm bốn phương diện:

–    Một là bố trí thì cần chặt chẽ, thích đáng cốt sao quân nọ liền quân kia, ràng buộc hỗ trợ lẫn nhau (hô ứng) nhưng cũng đừng gần quá để thành một thế cờ phức tạp, ấy chính là “xa mà không thưa, thưa ắt dễ đứt; gần nhưng không co cụm, co cụm ắt sẽ yếu”.[25]

–    Hai là tấn công, khi vừa ổn định thế cờ là phải lập tức tìm cơ hội tấn công vào trận địa của đối phương để bên mình không bị đối thủ uy hiếp. Nguyên tắc ấy gọi là “làm sao ứng viện tiếp liền nhau, tấn công liên tiếp”, sao cho “bên địch không thể không co rút, không thể không suy yếu”.[26]

–    Ba là dụng chiến, nơi nào không ảnh hưởng đến bên mình, không làm hại cho toàn cục thì hãy đi. Cho nên khéo thủ thì bên mình có thực lực; còn như tạo được thế hoàn toàn thì mình nhàn nhã và tác chiến là làm sao “dĩ thực kích hư, dĩ dật đãi lao”.[27]

–    Bốn là thu xả, đó là chỗ mà Lưu Trọng Phủ gọi là “đại kế của phép đánh cờ”. Phàm bên trong mà đầy đủ thì ắt dự tính được chước lạ, bên ngoài mà đầy đủ thì hình thế được phong long, dẫu có ít cũng có thể thu về để tự bảo. Ấy chính là chỗ mà hậu thế nói là “lao dật du quan thiểu diệc đồ, tinh hoa dĩ kiệt đa kham khí” (勞逸攸關少亦圖,精華已竭多堪棄).

Ðời Tống cũng còn lưu hành một bộ sử về cờ vây của Trung Hoa do Trương Nghĩ (張擬) soạn nhan đề “Kỳ Kinh Thập Tam Thiên” (棋經十三篇) và một bộ Kỳ Phổ do kỳ đãi chiếu Lý Dật Dân (李逸民) biên soạn lại “Vong Ưu Thanh Lạc Tập” (忘憂清樂集) mà thành.

Sách này không những sưu tập lại các cổ phổ và các ván cờ nổi tiếng cùng thời, định lại cách thức mà còn bao gồm luôn cả Kỳ Kinh Thập Tam Thiên của Trương Nghĩ, Kỳ Quyết của Lưu Trọng Phủ, Luận Kỳ Quyết Yếu Tạp Thuyết của Trương Tịnh. 

Khi khảo sát về tình hình trong cung nhà Nguyên, mặc dù việc đánh cờ vẫn còn phổ biến nhưng triều đình không còn chức kỳ đãi chiếu nữa. Tuy nhiên thời này phong khí nho gia vẫn thịnh và nhiều người chuyển sang các thú tiêu khiển để quên đi cái nhục mất nước. Ðến cuối đời Nguyên, loạn lạc liên miên và phải mấy chục năm sau khi Minh triều thành lập thì triều đình mới cho triệu các quốc thủ vào cung để giúp vui cho hoàng gia.

Môät cách tổng quát, hai triều Nguyên Minh cờ vây là sinh hoạt dân gian và là môn giải trí của quần chúng. Chu Mạn Sĩ (周漫士) đời Minh trong Kim Lăng toả sự (金陵瑣事) có viết:

Kỳ thủ trứ danh nhất đầu đời Minh là Tương Lễ (相禮) và Lâu Ðắc Ðạt (樓得達). Tương Lễ cũng tinh thông thi hoạ, nổi tiếng là “thiên hạ kỳ sư”, Vương Phùng có bài thơ Tuý Tặng Tương Tử Tiên (Tử Tiên là ngoại hiệu của Tương Lễ) trong đó ca tụng tài đánh cờ của họ Tương. Tuy nhiên khi ở Nam Kinh, họ Tương lại bị một người ở Ninh Ba là Lâu Ðắc Ðạt đánh bại, về đến Hoa Ðình lại bị một nhà sư khất thực (du tăng) hạ luôn mấy ván khiến cho không còn dám khoe danh hiệu “thầy cờ” nữa.

Từ khi có Lâu Ðắc Ðạt, phong khí đánh cờ lại nổi lên. Sang đời Chính Ðức (1506-1521) cao thủ đánh cờ có Phạm Hồng (范洪), sang đời Long Khánh (1567-1573), Vạn Lịch (1573-1620) thì dần dần hình thành ba kỳ phái:

1.   Phái Vĩnh Gia (永嘉), đứng đầu là Bào Nhất Trung[28] (鮑一中), người được Tể Phụ Dương là bạn của Phạm Hồng ca ngợi, kết làm bạn vong niên và Vương Thế Trinh nhắc đến trong Dịch Chỉ (弈旨) là đánh cờ biến hoá như Hàn Tín cầm quân, vừa linh hoạt, vừa mãnh liệt.

Ngô Thừa Ân (吳承恩), tác giả bộ truyện nổi danh Tây Du Ký trong “Vi Kỳ Ca Tặng Bào Ảnh Viễn” có hai câu:

忽時下子巧成功,

一笑齊聲海嘲哄。

… Hốt thời hạ tử xảo thành công,

Nhất tiếu tề thanh hải trào hống.

Ngoài họ Bào, phái Vĩnh Gia còn những cao thủ như Lý Xung, Chu Nguyên, Từ Hi Thánh …

2.   Phái thứ hai là phái Tân An (新安) mà đại biểu là Trình Nhữ Lượng (程汝亮), thành viên có Uông Thử (汪曙), Phương Tử Khiêm (方子謙) …

3.   Phái thứ ba là phái ở ngay kinh sư có Nhan Luân (顏倫), Lý Phủ (李釜).

Người đương thời bảo là dẫu Gia Cát tái sinh cũng không phá được Trình Nhữ Lượng mà Tôn Ngô kẹp hai bên cũng khó thắng được Nhan Luân. Lý Phủ thì có “áp noãn chi uy” của Võ An Quân cùng với Bào Nhất Trung là hai người số một đời Minh.

Uông Thử so với Bào Nhất Trung hơi kém hơn một chút nhưng đời sau cho rằng Phương Tử Khiêm còn hơn cả hai người. Tương truyền họ Phương được một kỳ nhân dạy cho 48 cách thức biến hoá nên trở thành một cao thủ nhưng chính Phương Tử Khiêm đã cải chính rằng ông từ nhỏ đã mê cờ và những gì ông biết được là do chính mình nghiên cứu.

Các môn phái đời Minh cho thấy việc đánh cờ vào thời này trở thành đa dạng trong đó kỳ thủ trứ danh là Lâm Phù Khanh (林符卿), Quá Bách Linh (過百齡), Chu Lại Dư (周懶予) nổi tiếng cho tới tận Thanh sơ. Trong Ngu Sơ Tân Chí (虞初新志) có một thiên “Quá Bách Linh truyện” chép rằng năm Quá Bách Linh 11 tuổi, đại học sĩ Diệp Hướng Cao đi qua Vô Tích, muốn đánh cờ, người trong hạt đưa họ Quá ra. Diệp Hướng Cao là danh thủ ở kinh sư, nào ngờ thua cậu bé con luôn mấy ván, nên đưa lên đấu với Lâm Phù Khanh, họ Lâm mới đầu khinh thị nhưng sau cùng phải nhường chức “quốc thủ” cho Quá Bách Linh.

Tiền Khiêm Ích (錢謙益) trong bài thơ ca ngợi Quá Bách Linh “Kinh Khẩu Quan Kỳ Lục Tuyệt Cú” có hai câu:

八歲童牙上弈壇

白頭旗纛許誰干?

Bát tuế đồng nha thượng dịch đàn,

Bạch đầu kỳ độc hứa thuỳ can?

Quá Bách Linh có trứ tác “Quan Tử Phổ” (官子譜), “Tam Tử Phổ” (三子譜), “Tứ Tử Phổ” (四子譜) và hiệu đính lại “Tiên Cơ Võ Khố” (仙機武庫), cải tiến lại các chiến thuật trấn thần đầu, kim tỉnh lan, đại thiết võng, tiểu thiết võng … tạo nên một phong khí mới trong nghệ thuật cờ vây.

Chu Lại Dư là người Gia Hưng, Chiết Giang biết đánh cờ từ khi mới 5, 6 tuổi, năm lên mười đã nổi tiếng là có thể phân trí vừa đọc truyện vừa đánh cờ, đến nửa bàn đã đoán được hết các cách đi của đối thủ. Tuy họ Chu nổi tiếng sau Quá Bách Linh nhưng cả hai đều là những danh thủ có nhiều óc sáng tạo. Trong mười ván cờ mà hai người đấu với nhau (Quá Chu Thập Cục – 過周十局), Chu Lại Dư chiếm thượng phong trở thành khắc tinh của họ Quá nhưng ảnh hưởng không qua được vì thời thế đã biến chuyển, triều Minh đổ, triều Thanh lên. Ðặng Nguyên Huệ (鄧元鏸) trong Luận Dịch (論弈) đã viết:

明末清初戰局開,

過周袞袞共登台。

一時風氣趨遵緊,

無復輕裘緩帶來。

Minh mạt Thanh sơ chiến cuộc khai,

Quá Chu cổn cổn cộng đăng đài.

Nhất thời phong khí xu tuân khẩn,

Vô phục khinh cừu hoãn đái lai.

Người ta bảo rằng cái thú đánh cờ vây ở đời Thanh phong thịnh chẳng khác gì thơ ca đời Ðường. Mà không cứ gì cờ, nhiều bộ môn nghệ thuật khác cũng phát triển đến cực thịnh đưa nhà Thanh lên triều đại cao điểm của văn minh Trung Hoa.

Cuối đời Thanh, Ðặng Nguyên Huệ viết Quốc Triều Dịch Gia Tính Danh Lục (國朝弈 家姓名綠) trong đó sưu tầm được 169 người. Người được xưng là Kỳ Thánh đầu đời Thanh là Hoàng Long Sĩ (黃龍士). Long Sĩ tên thực là Cầu (虬),còn tên là Hà (霞) người đất Thái Châu, tỉnh Giang Tô sinh năm 1651 (Thuận Trị thứ 8), mới 18 tuổi đánh cờ với các quốc thủ đã dám chấp quân hay nhường đối thủ đi trước. Nước cờ của ông người sau khen là “như tiên trên trời xuống trần, không vương một chút bụi”,[29] xuất thần nhập hoá. Kinh học gia Diêm Nhược Cừ (閻若璩) đã xếp Hoàng Long Sĩ, Hoàng Tông Hi (黃宗羲), Cố Viêm Võ (顧炎武) vào trong danh sách mười bốn thánh nhân thời Thanh sơ đủ biết tiếng tăm ông vang dội là chừng nào.

Ngô Thanh Nguyên, một nhân vật chuyên nghiên cứu về cờ vây đã cho rằng nước cờ của Hoàng Long Sĩ có thể sánh ngang với danh nhân Nhật Bản Tú Sách (秀策) là người mà trước nay không ai bì kịp. Theo chính lời của Hoàng Long Sĩ thì:

Năm Hoàng Long Sĩ hơn ba mươi tuổi có Từ Tinh Hữu (徐星友) ở kinh sư đến học, kỳ lực đạt đến mức chỉ còn kém thầy hai quân. Thế nhưng Hoàng Long Sĩ lại chấp Từ đến ba quân, hai người đánh mười ván, hai bên đều kiệt lực suy nghĩ, vận hết tâm huyết đến nỗi hộc cả máu ra, thành thử hậu nhân đặt tên cho mười bàn cờ đó là “huyết lệ thiên” (血淚篇). Sau trận cờ này Từ Tinh Hữu trở thành quốc thủ nổi danh.

Từ Tinh Hữu người Hàng Châu, tuổi còn cao hơn Hoàng Long Sĩ, đánh theo lối chính phái với tâm niệm “hư không hơn được thực, khéo không hơn được vụng” làm nguyên tắc. Sau khi đánh xong mười bàn cờ huyết lệ thiên, ông tiềm tâm suy nghĩ, ba năm không xuống dưới lầu. Sau khi Hoàng Long Sĩ qua đời, Từ đứng đầu kỳ đàn trong liên tiếp ba bốn chục năm, thắng cả sứ thần nước Cao Ly là người tự cho rằng không ai đối thủ.

Năm Khang Hy thứ 58 (1719), ông tuyển soạn Kiêm Sơn Ðường Dịch Phổ (兼山堂弈 譜). Hai năm sau, ông ngẫu nhiên gặp hai cậu bé mới 12, 13 có thiên tư đánh cờ bèn chấp 3 quân, lại tặng luôn cho cuốn sách ông mới soạn. Hai đứa trẻ được cuốn Kiêm Sơn Ðường Dịch Phổ bèn cùng nhau nghiên cứu một năm, kỳ nghệ đại tiến, sau này chính là hai người nổi danh đời Thanh, Thi Tương Hạ (施襄夏) và Phạm Tây Bình (范西 屏).

Thi Tương Hạ (1710-1770) có tên là Thiệu Ám (紹闇), hiệu là Ðịnh Am (定庵); Phạm Tây Bình (1709-1776) tên là Thế Huân (世勛) đều là người Chiết Giang, thành quốc thủ từ khi còn nhỏ. Hiện nay sách vở còn truyền lại 10 ván cờ của hai người. Người đời nhận định rằng:

TrongDịch Tiềm Trai Tập Phổ (弈潛齋集譜), Ðặng Nguyên Huệ có viết:

Từ Kha (徐珂) trong Thanh Bại Loại Sao (清稗類鈔) thì cho rằng hai người trong kỳ đàn cũng không khác gì Lý Bạch và Ðỗ Phủ trong làng thơ, mỗi người có một nét độc đáo riêng. Sau khi ông mất, văn học gia Viên Mai (袁枚) đã viết mộ chí cho Phạm Tây Bình, hết sức tán dương.

Thi Tương Hạ để lại Dịch Lý Chỉ Qui (弈理指歸) và Dịch Lý Chỉ Qui Tục Biên (弈理 指歸續編) còn Phạm Tây Bình thì biên soạn Ðào Hoa Tuyền Kỳ Phổ (桃花泉棋譜) tổng hợp những gì hai người đã thu đạt được trong mấy chục năm đánh cờ và cho đến nay vẫn là những kim chỉ nam cho người ưa thích môn cờ vây.

Ngoài Thi, Phạm hai người, trong số quốc thủ đời Thanh cũng còn Lương Nguỵ Kim (梁魏今) và Trình Lan Như (程蘭如) được hợp xưng là Tứ Ðại Gia.

Cuối đời Thanh, người ta cũng thấy có một số quốc thủ khác như Trần Tử Tiên (陳子仙), Chu Tiểu Tùng (周小松). Trần Tử Tiên mất sớm nhưng Chu Tiểu Tùng sống thọ qua nhiều triều đại từ Ðạo Quang đến Quang Tự, tuy không lừng lẫy như Thi Phạm hai người. Ông để lại tác phẩm San Cúc Trai Kỳ Bình (餐菊齋棋評).

Âu Dương Tu đời Tống có viết trong Tân Ngũ Ðại Sử:

Ông cũng đi xa hơn để nhận định rằng trong nghệ thuật đánh cờ lắm khi chỉ thay đổi một quân cũng có thể chuyển bại thành thắng, cũng không khác gì sử dụng con người, nếu biết cách thì nguy sẽ thành an, thua sẽ thành được. Vấn đề dụng nhân như dụng mộc ngay từ xưa đã được đề cao mặc dầu không có những tiêu chuẩn chặt chẽ, nặng phần trực giác nhưng đã ảnh hưởng rất nhiều trong chính trị.

Lục Cửu Uyên (陸九淵), một lý học gia treo một bàn cờ trên tường, trầm tư suy nghĩ trong hai ngày liền rồi buột miệng:

Họ Lục là người chủ trương “vũ trụ là tâm mà tâm cũng là vũ trụ[31] là sáng tổ của phái tâm học trong triết học Trung Hoa. Mã Ngọc (馬鈺), một trong Toàn Chân Thất Tử đời Kim cũng thường hay đánh cờ với đệ tử để truyền dạy đạo pháp. Ông từng nói:

Các bậc cao tăng cũng hay lấy ví dụ từ đánh cờ mà thuyết pháp. Pháp Viễn thiền sư truyền đạo cho Âu Dương Tu lấy cờ vây làm ẩn dụ. Trung Phong thiền sư cho rằng tục đế là quân đen, chân đế là quân trắng … nếu ai nhìn thấu được cái lẽ đó thì bàn cờ biến hoá cũng không khác gì thế gian.

Lý Bí (李泌) đời Ðường, bảy tuổi làm thơ vịnh đánh cờ có câu:

Lục Thụ Thanh (陸樹聲) đời Minh coi đánh cờ là tuyệt nghệ của nhân sinh còn Vưu Ðồng (尤侗) đời Thanh thì bảo rằng “quan sát mười chín đường kia còn hơn cả đọc hai mươi mốt bộ sử”.[33] Người ta lý giải rằng đánh cờ hàm nghĩa hai phương diện:

–    Kỳ lý hay qui luật đánh cờ

–    Nhận thức hay sự tương đồng với xã hội

Chính vì đánh cờ có nhiều điểm tương đồng với cuộc đời, người ta cho rằng từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học nhân sinh, áp dụng vào sinh hoạt thường nhật. Ðiều đó đúng tới mức độ nào thì tuỳ theo sự đánh giá của mỗi người.

Trong lịch sử Trung Hoa, nhiều tác phẩm viết về cờ, kỳ lý cũng như kỳ cuộc, kỳ phổ còn lưu truyền đến ngày nay. Ðời Tống có Vong Ưu Thanh Lạc Tập (忘憂清樂集), đời Nguyên có Huyền Huyền Kỳ Kinh (玄玄棋經), đời Minh có Thích Tình Lục (適情錄), Thu Tiên Di Phổ (秋仙遺譜), Dịch Tẩu (弈藪), Tiên Cơ Võ Khố (仙機武庫), đời Thanh có Quan Tử Phoå (官子譜), Dịch Quát (弈括), Kiêm Sơn Ðường Dịch Phổ (兼山堂弈譜) , Dịch Lý Chỉ Qui (弈理指歸) … Những tác giả ngoài tài đánh cờ bao giờ cũng tìm ra được những cách thức mới vượt ra khỏi bình thường.

Lâm Ứng Long (林應龍) trong Thích Tình Lục đã sưu tầm được bảy trăm bàn cờ, sau đó phân tích bằng thuật ngữ quân sự để chia ra hai mươi loại, rồi dùng hào quẻ trong Dịch Kinh để liên hệ với nhau.

Quốc thủ đời Thanh là Thi Tương Hạ trong Dịch Lý Chỉ Qui thì đem kinh nghiệm đã đưa ra được những qui tắc để giải những nước khó khăn như “nhập phúc tranh chính diện” (入腹爭正面), “hình phương tất thứ, đầu nhuyễn tu bản” (形方必覷,頭軟須扳) …

Phan Thận Tu (潘慎修) đời Tống thì lại đem ngũ thường để luận cờ – “nhân tắc năng toàn, nghĩa tắc năng thủ, lễ tắc năng biến, trí tắc năng kiêm, tín tắc năng khắc. Quân tử tri kỳ ngũ giả, thứ kỷ khả dĩ ngôn kỳ hĩ.” (có thể toàn được ấy là điều nhân, có thể thủ được, ấy là điều nghĩa, có thể biến được, ấy là điều lễ, có thể kiêm được, ấy là điều trí, có thể khắc được, ấy là điều tín. Người quân tử biết cả năm điều, là có thể bàn về đánh cờ được).

Ðời Tống, Trương Nghĩ (張擬) biên soạn Kỳ Kinh Thập Tam Thiên dựa theo Thập Tam Thiên binh pháp của Tôn Tử, tổng kết mọi phương pháp lý luận của các đời, trong đó Luận Cục là thiên đầu tiên có thể dùng làm cơ sở để luận cho mười hai thiên kế tiếp. Sách vở cũng đề cao kỳ đức là phẩm hạnh của người đánh cờ và không hiếm người dù phải tiếp bậc đế vương cũng không vì uy vũ mà mất tư cách.

Lạn Kha tiên khách (爛柯仙客)

Thuật Dị Ký (述異記) của Nhâm Phưởng (任昉) thời Nam Triều có chép:

Hiện nay một bàn cờ còn ghi lại trong Vong Ưu Thanh Lạc Tập đời Nam Tống do Lý Dật Dân biên soạn, truyền là ván cờ mà Vương Chất thấy hai vị tiên trên núi đã đánh. Câu chuyện này cũng được chép trong Phố Ðảo Truyện Ký (浦島傳記) của Nhật tuy có khác hơn đôi chút.[34]

Ở nước ta tại Bắc Ninh cũng có ngọn núi tên là Lạn Kha. Hiệp Biện đại học sĩ Cao Xuân Dục đời Thành Thái đã chép trong Viêm Giao Trưng Cổ Ký như sau:

Núi Lạn Kha

Núi ở phía nam của huyện [Tiên Du], trên núi có thú đá, ao long trì và nhà đá, trên đỉnh có bàn cờ. Tương truyền người tiều phu tên là Vương Chất lên núi gặp hai ông già ngồi đánh cờ ở dưới gốc cây thông, bèn chống rìu ngồi xem, mải mê đến lúc cán rìu mục nát ra. Nhân đó mới có tên Lạn Kha (mục cán rìu). Chân núi có chùa Vạn Phúc, phong cảnh u nhã, tương truyền chùa được dựng từ đời nhà Lí. Cũng theo người xưa kể lại thì đây cũng chính là nơi Triệu Ðà bị An Dương vương đánh cho thua trận. Ðời Trần lập ra thư viện Lạn Kha, cứ đến ngày trùng dương hàng năm vua lại ngự giá đến thăm viếng. Cách vài dặm về phía tây có chùa Vĩnh Phúc, am Nguyệt Thường. Góc mé bắc núi có chùa Kim Ngưu, là nơi Cao Biền nhìn thấy trâu vàng chạy ra. Ðá núi ở đây có sắc như vàng, ban đêm phát ra ánh sáng nên có tên là núi Kim Ngưu.[35]

Lạn Kha đồ lục phổ
Bác Dịch Du Hý Nhân Sinh tr. 140-1

Bàn cờ này tất cả 290 nước, bên đen thắng một quân. Cao Thanh Khâu đã viết hai câu thơ hỏi kháy:

Sau đây là bài thơ “Ðề Vương Chất lạn kha đồ” (題王質爛柯圖) của Từ Vị (徐渭):

閑看數着爛樵柯,

澗草山花一剎那。

五百年來棋一局,

仙家歲月也無多。

Nhàn khan sổ trước lạn tiều kha,

Giản thảo sơn hoa nhất sát na.

Ngũ bách niên lai kỳ nhất cục,

Tiên gia tuế nguyệt dã vô đa.

Những ai thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung đều ít nhiều nhớ đến những bàn cờ vây được Tra tiên sinh đưa vào truyện để thêm khởi sắc, khởi đầu cho nhiều biến cố quan trọng trong võ lâm. Bàn cờ giữa Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Ðạo với Giác Viễn trên núi Thiếu Lâm là biến cố quan trọng nhất trong Ỷ Thiên Ðồ Long Ký trước khi thiên hạ chia ra thành bốn đại môn phái Thiếu Lâm, Võ Ðương, Nga Mi, Côn Lôn. Sau đây là sự xuất hiện của Hà Túc Ðạo trong rừng sâu:

Kim Dung: Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, chương 1 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)

Nếu chúng ta để ý kỹ, bàn cờ đầu tiên của Hà Túc Ðạo đã phần nào hình dung được cuộc thế võ lâm và lời nhắc của Quách Tương “bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực” có thể đem đến cho Hà Túc Ðạo ý niệm hùng cứ nhất phương trên núi Côn Lôn thay vì toan tính ganh đua ở lục địa.

Qua chương 2, Kim Dung miêu tả bàn cờ Hà Túc Ðạo đấu trên chùa Thiếu Lâm là một cuộc tỉ đấu nội lực không tiền khoáng hậu:

Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, chương 2 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)

Thiên Long Bát Bộ thì còn phức tạp hơn với bàn cờ giữa Hồng Mi Tăng và thanh bào quái khách Ðoàn Diên Khánh đánh dấu sự tái xuất của Thiên Hạ Ðệ Nhất Ác Nhân và cuộc tranh chấp trong hoàng gia Ðại Lý. Ở giữa truyện, ván cờ Trân Lung kỳ diệu đưa tới một biến động bất ngờ trong võ lâm:

Ngờ đâu, chính nước cờ tự sát đó đã mở đường cho một cục diện mới để bên trắng chuyển nguy thành an, từ từ lấy lại được phong độ:

Kim Dung: Thiên Long Bát Bộ – chương 31 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ chúng ta lại thấy vì tính mê cờ của Hắc Bạch Tử đã khiến cho Hướng Vấn Thiên có cơ hội lọt vào Mai Trang cứu thoát Nhậm Ngã Hành.

Kim Dung, Tiếu Ngạo Giang Hồ, chương 19 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)

Ẩu Huyết Phổ
Kim Dung: Tiếu Ngạo Giang Hồ, quyển 2, phụ bản 14, 15

Cờ vây là một trò chơi trí óc, cần suy nghĩ và tiềm tâm nghiên cứu, một thú chơi tao nhã cho mặc khách tao nhân, không phải cho giới bình dân. Theo nhận định của lãnh sự Anh Giles thì học đánh cờ là một đòi hỏi một khi người ta bước chân vào một nghề nghiệp văn chương (literary career). Jacques Gernet cũng nói rằng vào đời Tống đánh cờ là một trong ba môn (cờ, thư pháp và thi văn) dành riêng cho giới quí tộc.[39] Muốn thành một cao thủ, người ta phải trau giồi lâu năm và cũng phải đam mê nồng nhiệt.

Nhiều sách vở cũng cho rằng đánh cờ là một cách trau giồi binh pháp và nhân cách lãnh đạo. Khẳng định đó đúng đến đâu thật khó mà có câu trả lời. Tuy nhiên không phải lúc nào đánh cờ cũng được coi là tao nhã. Nhiều nhà nho đã nhìn thấy cái hại của việc đam mê vi kỳ và đả kích tệ nạn này. Ðời Tam Quốc đánh cờ lan rộng trong cung Ðông Ngô đến nỗi Vi Diệu (韋曜) phải dâng một bài biểu nhan đề Bác Dịch Luận (博弈論)[40] để đàn hặc trong đó có những câu:

求之於戰陣, 則非孫吳之倫也。 考之於道藝, 則非孔氏之門也。 以變詐為務, 則非忠信之事也。以劫殺為名, 則非仁者之意也.

Cầu chi ư chiến trận, tắc phi Tôn Ngô chi luân dã. Khảo chi ư đạo nghệ, tắc phi Khổng thị chi môn dã. Dĩ biến trá vi vụ, tắc phi trung tín chi sự dã. Dĩ kiếp sát vi danh, tắc phi nhân giả chi ý dã.

Lịch sử đã chứng minh rằng vào những thời kỳ thịnh vượng nhất của một triều đại, con người có nhiều cơ hội hưởng thụ và xa phí thì cũng lại là thời kỳ báo hiệu cho sự suy vi và tiếp đến sẽ là loạn lạc, bị những quốc gia khác xâm lăng. Dường như định luật đó vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Trong thiên khảo luận này, chúng tôi có đính kèm hai bản kỳ phổ hiếm có, Lạn Kha Phổ và Ẩu Huyết Phổ để chư vị cao nhân tham khảo. Người viết hoàn toàn không biết gì về môn cờ vây nên không dám bình phẩm.

Nguyễn Duy Chính

Tháng 7, 2005

—-

1. Ân, Vĩ (殷偉). Trung Quốc Vi Kỳ Sử Diễn Nghĩa (中國圍棋史演義) Vân Nam: Vân Nam Nhân Dân xuất bản xã, 2003.

2. Cao, Xuân Dục. Viêm Giao Trưng Cổ Ký [bản dịch Nguyễn Văn Nguyên] Hà Nội: Thời Ðại, 2010.

3. Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄): Sơ Học Vi Kỳ Nhập Môn (初學圍棋入門). Ðài Nam: Tín Hoành xb xã, 1990. Nguyên tác tiếng Nhật, bản Hán dịch của Tạ Vĩ Nhân (謝偉仁).

4. Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt. Hà Nội: nxb Văn Hóa Thông Tin, 1998.

5. Dư, Gia Hoa (余嘉華). Vân Nam Phong Vật Chí (雲南風物志). Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982.

6. Gernet, Jacques: Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion 1250-1276. Calif: Stanford University Press, 1962. Bản dịch của George Allen sang tiếng Anh từ nguyên tác La vie quotidienne en Chine à la vielle de l’invasion mongole, 1250-1276 (Paris: Hachette, 1959).

7. Grunfield, Frederic V. (ed.). Games of the World. New York: Holt, Rinehart and Winston, 1975.

8. Kim Dung (金庸): Thiên Long Bát Bộ (天龍八部) (5 cuốn) Hương Cảng: Viễn Ảnh xb sự nghiệp công ty, 1981.

9. Kim Dung (金庸): Tiếu Ngạo Giang Hồ (笑傲江湖) (4 cuốn) Hương Cảng: Minh Hà Xã, 1980

10. Kim Dung (金庸): Ỷ Thiên Ðồ Long Ký (倚天屠龍記) (4 cuốn). Hương Cảng: Minh Hà Xã, 1976.

11. Lâm, Lê Na (林莉娜). Minh Thanh Cung Đình Hội Họa Nghệ Thuật Giám Thưởng (明清宮廷繪畫藝術鑑賞). Đài Bắc : Cố Cung, Dân Quốc 102 (2013)

12. Sử, Lương Chiêu (史良昭). Bác Dịch Du Hí Nhân Sinh (博弈遊戲人生). Hongkong: Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1992.

13. Thiệu, Văn Lương (邵文良). Trung Quốc Cổ Ðại Thể Dục – 中國古代體育(Sports in Ancient China) Bắc Kinh: Nhân Dân thể dục xuất bản xã, 1986.

14. Trần, Ngọc Thuận, Ðào Duy Ðạt, Ðào Phương Chi (dịch). Lịch Sử Văn Hoá Trung Quốc (2 tập). Hà Nội: nxb Văn Hoá – Thông Tin, 1999.


    [1] Phạm Tăng là họa sĩ, thư pháp gia hiện đại, giáo sư đại học Bắc Kinh.

    [2] tương truyền là của Hồ Xuân Hương nhưng nhiều biên khảo gần đây cho thấy nữ sĩ phường Khán Xuân không phải là tác giả những bài thơ dung tục này.

    [3] Chess is confined to the inhabitants of this earth, but Go somehow passes beyond our world. If on any planet there are rational beings, then they know Go. Frederic V. Grunfield (ed.),Games of the World, (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1975) tr. 42

    [4] 堯造圍棋,以教子丹朱 (Nghiêu tạo vi kỳ, dĩ giáo tử Ðan Châu) Ân Vi: Trung Quốc Vi Kỳ Sử Diễn Nghĩa (Vân Nam: Vân Nam nhân dân xb xã, 2003) tr. 1

    [5] Edward Falkener, Games Ancient and Oriental and How to Play Them (New York: Dover Publications, Inc., 1961) (reprinted of 1892 edition) tr. 239 – 240

    [6] Thiệu Văn Lương, Trung Quốc Cổ Ðại Thể Dục (Sports in Ancient China) (Bắc Kinh: Nhân Dân thể dục xuất bản xã, 1986) tr. 170-1

    [7] chữ ngạc này một bên bộ chuy 隹 nhưng chúng tôi không có nên tạm thay bằng bộ ấp 阝

    [8] Từ Hải, Ðài Loan thư cục 1974, Vol. 2 tr. 3104

    [9] Dư Gia Hoa (余嘉華), Vân Nam Phong Vật Chí (雲南風物志) (Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982) tr. 484

    [10] 桄榔 arenga saccharifera, tiếng Việt gọi là cây đoác hay đoát, còn gọi là báng, một loại cây trụ lùn mọc ở vùng trung du nước ta. Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt (Hà Nội: nxb Văn hóa Thông tin, 1998) tr. 99

    [11]Chinese catalpa hay mallotus japonicus, thuộc họ nhà ruối, cao chừng 10 mét, gỗ săn chắc

    [12]Torreya grandis là một loại tùng bách mọc ở đông nam Trung Hoa.

    [13] 銀杏Ginkgo biloba cây bạch quả, có trái ăn được dùng như một vị thuốc.

    [14] 桂木Artocarpus parvus cây thuộc họ mít, trái ăn được mọc ở nam Trung Hoa và Đông Nam Á.

    [15] Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄), Sơ Học Vi Kỳ Nhập Môn (初學圍棋入門)(Ðài Nam: Tín Hoành xb xã, 1990) tr. 29.

    [16] (勝者終年有福,負者終年疾病) thắng giả chung niên hữu phúc, phụ giả chung niên tật bệnh

    [17] Cục tất phương chính, tượng địa tắc dã. Ðạo tất chính trực, thần minh đức dã. Kỳ hữu hắc bạch, âm dương phân dã. Biền la liệt bố, hiệu thiên văn dã. (局必方正, 象地則也.道必正直, 神明德也. 棋有黑白, 陰陽分也. 駢羅列 效天文也)

    [18] Thượng hữu thiên địa chi tượng, thứ hữu đế vương chi trị, trung hữu ngũ bá chi quyền, hạ hữu chiến quốc chi sự (上有天地之象, 次有帝王之治, 中有五霸之權, 下有戰國之事)

    [19] Lược quan vi kỳ, pháp ư dụng binh. Tam xích chi cuộc, vi chiến đấu trường. (略觀圍棋, 法於用兵. 三尺之局, 為戰鬥場)

    [20] có cùng tên (Lưu Úc – 劉彧)

    [21] 忘憂清樂在枰棋

    [22] Tống đây là Lưu Tống (Nam Triều) kéo dài từ 420 đến 479 chứ không phải nhà Tống sau này.

    [23] Kháng thủ thế, Xích Tùng đấu tử (抗取勢赤松鬥子)

    [24] 江南棋客劉仲甫奉饒天下棋先

    [25] Viễn bất khả thái sơ, sơ tắc dị đoạn; cận bất khả thái xúc; xúc tắc thế luy

    (遠不可太疏,疏則易斷; 近不可太促,促則勢羸)

    [26] tất sử ứng viện tương tiếp, câu lạc tương liên; bỉ lộ bất đắc bất xúc, bỉ thế bất đắc bất luy

    (必使應援 相接, 勾落相連; 彼路不得不促,彼勢不得不羸)

    [27] 以實擊虛,以逸待勞

    [28] tự Ảnh Viễn (影遠)

    [29] như thiên tiên hoá nhân, tuyệt vô trần tưởng (如天仙化人,絕無塵想)

    [30] trị quốc dự chi ư dịch, tri kỳ dụng nhi trí kỳ xứ giả thắng, bất tri kỳ dụng nhi trí phi kỳ xứ giả bại.

    (治國譽之於弈,知其用而置得其處者勝。不知其用而置非其處者敗)

    [31] vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tức thị vũ trụ

    (宇宙便是吳心,吳心即是宇宙)

    [32] Phương như hành nghĩa, viên như đụng trí, động như sính tài, tĩnh như toại ý

    (方如行義,圓如用智,動如逞才,靜如遂意)

    [33] thí quan nhất thập cửu hàng, thắng độc nhị thập nhất sử (Kỳ Phú)

    (試觀一十九行,勝讀二十一史) (棋賦)

    [34] Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄) sđd. tr. 127

    [35] Cao Xuân Dục, Viêm Giao Trưng Cổ Ký [bản dịch Nguyễn Văn Nguyên] (Hà Nội: Thời Ðại, 2010) tr. 134

    [36] Như hà nhất cục thành thiên tải? Ứng thị tiên ông hạ tử trì.

    (如何一局成千載? 應是仙翁下子遲)

    [37] Phủ trường kiếm, nhất dương mi

    Thanh thủy bạch thạch hà ly ly

    撫長劍,一揚眉

    清水白石何離離

     (Lý Bạch – Phú phong hào sĩ ca)

    [38] 嘔血譜

    [39] Jacques Gernet: Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion 1250-1276 (Calif: Stanford University Press, 1962) tr. 152

    [40] luận về cờ bạc