Chuyến dã ngoại cuối cùng của cô sinh viên

*Truyện ngắn Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)

chuyen da ngoai cuoi cung 01

1.

Sau một cái Tết vui vẻ bình thường, M. bỏ nhà ra đi. Một lá thư bốn trang giốy vở học trò để lại trong ngăn kéo bàn học. Vẫn nét chữ mộc mạc của cô sinh viên ngoan ngoãn, hiền lành, nhưng lần này, sau lời “Kính thưa ba me”, M. lại đột khởi thông báo về một hành vi không hiếu thảo, ngoan hiền chút nào. Ba mẹ M. đau khổ gần như điên dại. Dò hỏi bạn bè thân, sơ trong lớp tại trường học của M.; bắn tin cho bạn bè, bà con thân thuộc – kể cả bà con ở ngoài Sài Gòn hay tận dưới quê; lục tìm danh sách bệnh nhân trong các bệnh viện, trung tâm cấp cứu và cả nhà xác của những nơi này; đem ảnh của M. đến báo công an phường, đồng thời đăng lời rao trên mấy tờ báo và ti-vi; ra bưu điện đăng ký dịch vụ “hiển thị số máy vừa gọi đến”.v.v…

Chỉ trong vòng vài ngày, ba mẹ, các em của M., thêm sự giúp sức của thân-bằng-quyến-thuộc, đã vận dụng tất cả mọi phương cách có-thể để truy tìm tin tức, hành tung của cô bé. M. vẫn biệt tăm biệt tích.

Không mơ hồ gì nữa, M. đã thành công cho ý định bỏ nhà ra đi, đi mãi không về của mình.

Vào thập niên 60, Albert Camus, nhà văn Pháp, một trong những nhà tiên phong của nền văn học hiện sinh đang lên ngôi thời đó, cũng đã để cho một nhân vật trong truyện của mình ra đi. Một buổi tối, một người đàn ông bảo với vợ rằng ông ra phố mua gói thuốc lá. Ông đóng cửa ra đi rồi không bao giờ ông trở về nhà nữa. Thì ra, từ lâu người đàn ông nhân cách rất bình thường này đã âm thầm chịu đựng nỗi nhàm chán kéo dài trong mọi sinh hoạt đời sống. Ngày ngày đến sở làm, vẫn những câu chào hỏi, bông lơn giả tạo, hờ hững, vẫn cái cà-vạt màu mè không-thay-đổi của anh đồng nghiệp. Rồi về nhà, vẫn những buổi tối lạnh lẽo ngồi đọc báo, xem ti-vi cùng người vợ “quá đỗi trung bình”, vẫn những câu gợi chuyện, hỏi han lập đi lập lại trong cuộc hôn nhân “quá đỗi bình thường” theo năm tháng… Sự đơn điệu, nhàm nản đến mức phi lý của cuộc đời đã đẩy ông đến chỗ phải quyết định đào thoát ra khỏi chính cuộc sống của mình…

Hồi đó, tuy chỉ là an ổn ngồi đọc Camus, nhưng mấy tên sinh viên mới lớn như tôi đã ít nhiều không thoát khỏi nỗi ám ảnh âm ỉ, nặng nề của ý niệm Hư Vô tiềm tàng trong tư tưởng của triết gia Pháp, nhất là khi hiểu ra rằng cuộc ra đi không bởi một lý do tiền bạc, hay ái tình, nợ nần… nào cả thì phải gọi là bởi cảm nhận chán đời, một cảm nhận triết lý – một nhân sinh quan vô vọng – của người đàn ông trong truyện của ông, kỳ cùng chính là tính chất phi lý dày đặc, lạnh lùng bao trùm toàn bộ hiện hữu của con người trên cõi đới này…

Rồi  đến sau tháng 4 – 75, tôi những tưởng rằng đã ‘đổi đời’ theo nghĩa sinh hoạt xã hội trong nước trở đầy ắp khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt thì làm gì còn chỗ cho triết lý, triết học gì nữa, tôi lại bị biết lại có một vụ bỏ nhà ra đi không rõ duyên cớ. Đó là chuyện về người vợ của một anh phóng viên một tờ báo Công giáo ở Sàigòn, chị cũng là nhân viên coi sóc thư quán ở tòa soạn báo này. Cả hai vợ chồng đều là tín đồ sùng đạo và phải nói là đầy đức hạnh. Rồi một hôm, chị lặng lẽ bỏ đi, biệt tăm biệt tích. Không một lời giải thích để lại. Người chồng đau khổ và đáng kính – cả chục năm sau đó, anh vẫn gà trống nuôi con và nuôi hy vọng…- cho biết bản tính vợ mình rất trầm lặng, rõ hơn là có bị bệnh trầm cảm, lại thích Thiền. Rồi ngẫu nhiên chị lại kết bạn thân thiết với một ni cô đến thư quán mua sách. Cho nên, anh chồng cố gắng tìm cách lý giải, như rất có thể vợ anh đã bỏ nhà ra đi vì một “lý do tâm linh” u uẫn nào đó.

Còn cô sinh viên M. vừa ra đi thì bởi lý do gì, nếu không phải là lý do tâm linh hay triết lý?

M. vốn là nữ sinh giỏi của trường trung học vốn là trường Pétrus Ký cũ, nghĩa là một là trường phổ thông danh giá nhất thành phố, và M. đã từng đoạt giải nhất, nhì nhiều cuộc thi tiếng Nga cấp thành phố. Cô bé nhà chỉ-đủ-ăn này rõ ràng học trội hơn những bạn cùng lớp nhưng thuộc gia đình cán bộ cao cấp, giàu có (cũng học giỏi tương đối mới được tuyển vào trường) khi được quĩ bảo trợ Vì Ngày mai Phát triển của một tờ báo ở Sài Gòn cấp học bổng nhiều năm liền. Ở tuổi 22, M. sắp tốt nghiệp đại học khoa ngữ văn Nga, lại còn cặm cụi, chịu khó rèn thêm Anh ngữ. Cô bé sống thiên về nội tâm, hơi khép kín với người xung quanh và chưa có bạn trai theo nghĩa bồ bịch, yêu đương.

Nhân thân “lý lịch” là thế, sao M. đột ngột bỏ nhà ra đi? Tuy giữ khư khư chứng tích cuối cùng của con gái mình, nhưng mẹ M. cũng đã cho vài bạn bè thân nghiên cứu lá thư M. để lại. Khó có thể khẳng định lập tức đây là thư tuyệt mạng vì trong thư không hề có các từ như “chết”, “vĩnh biệt cõi đời”, “rời bỏ kiếp nhân sinh”… hay đại loại như thế. Phần lớn lá thư chỉ là sự bày tỏ lòng biết ơn công đức sinh thành “chưa báo đáp mà đã phạm tội bất hiếu”, cùng tình thương yêu dành hết cho cha mẹ và các em, cùng lời nhắn nhủ các em phải chăm học và vâng lời cha mẹ… Nhưng đáng chú ý là sau khi tự cho là việc ăn học của mình đã chất chồng thêm lên gánh nặng kiếm sống khổ cực của ba mẹ, khiến cha phải quanh năm vất vả, khiến em trai kế phải bỏ học, đi làm…, M. đã lập lại hai lần trong thư mình viết về ước mơ thiết tha được sớm đi làm để giúp gia đình. Để rồi M. tự nhận xét: “Con đã thấy mình là người không thể nào thành đạt, bước vào đời thì con chỉ là thứ lục bình trôi dạt”.

Một người bạn nêu nghi vấn: “Có thể cháu M. thiếu sức khoẻ, thậm chí có thể đang bị một bệnh nan y, nên mới bi quan về tương lai mình?” Cha M. đã đáp là tuy con gái mình có dáng gầy ốm nhưng lâu nay cháu không mắc một trọng bịnh nào, kết quả khám sức khoẻ tổng quát gần đây cũng bình thường. Mẹ M. cho biết là mẹ con chị rất gần gũi nhau, không có gì ngăn cản M. tâm sự, thố lộ về một bệnh nặng nào đó, ung thư chẳng hạn, nếu như cháu nó vừa biết là mình mắc phải. Loại trừ được lý do bệnh kín khiến con bỏ nhà ra đi nhưng bà mẹ cứ khóc mà nhắc mãi một câu chí tử trong thư “Ba mẹ đừng đi tìm con, vô ích”.

 

2.

Bai tho cuoi cung 03Riêng tôi lại thấy điểm chí tử, căn nguyên của thảm cảnh, rất có thể nằm ở cái dòng thật ngắn trong lá thư: “không thể nào thành đạt”. Cô bé đã tuyệt vọng đến nỗi không hề cho biết khi bỏ nhà ra đi thì sẽ đi đâu, làm việc gì để thay đổi, khắc chế nỗi ám ảnh “không thể thành đạt!”, do đó rất cần tìm hiểu lý do tại sao một cô sinh viên nết na, học giỏi lại hoàn toàn bi quan về năng lực của mình khi bước vào đời.

Theo lời anh chị bạn thì nếp sống khép kín của con mình chỉ vài lúc xao động nhẹ nhàng, đó là khi M. bước thử vào đời. Trong hai tháng sau Tết, M. có đi làm một công việc bán thời gian cho một công ty du lịch, rồi do bị chuyển sang làm ban đêm nên cô bé phải nghỉ, bỏ qua cơ hội lần đầu tiên đi làm ra tiền, dù khá ít ỏi. Sau đó, đã rảnh rang nên M. tham dự một chuyến cắm trại dã ngoại của sinh viên tổ chức ba ngày ở vùng biển Phan Thiết. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời, hai đêm liền cô sinh viên hiền lành, gia giáo đã không ngủ ở nhà mình…

Có lẽ, từ khá lâu M. đã bắt đầu thầm lặng đau khổ, nhận ra những hạn chế nơi con người mình. Tốt nghiệp đại học về ngữ văn tiếng Nga thì chỉ có thể đi dạy học hay làm việc ở các viện nghiên cứu, toàn những nơi thu nhập kém. Đằng này, mong đi làm có lương bổng khá để mang về giúp ba mẹ, M. đã nhắm vào các chỗ ‘ngon’ như ngành du lịch hay xuất nhập khẩu, nên đã nỗ lực học Anh ngữ. Và chính nhờ chút vốn liếng Anh ngữ, M. mới được nhận vào làm “một buổi” ở công ty du lịch kia. Nhưng khi đã có mặt ở môi trường hoạt động của ngành du lịch, cô bé không tránh được tủi buồn, hụt hẫng khi thấy quá rõ giá trị của phần ngoại hình – lợi thế trời cho của nhân viên nữ và cũng là một điều kiện “ưu tiên” ghi trong những bảng thông báo tuyển dụng. Tuy trông cũng dễ mến nhưng đặt trong thang điểm dung mạo, vóc dáng thì tiếc là M. chỉ đạt mức “trung bình yếu”. Làm sao mau tiến thân, lên chức, lên lương? Nhất là như trong ngành du lịch, phải đẹp mới được làm hướng dẫn viên để được nhận khoản bồi dưỡng trực tiếp từ các đoàn khách đi tours, còn không được đẹp thì chỉ được làm ở bàn giấy. Nhưng ông giám đốc, ông trưởng phòng nào chẳng ưu ái một cô thư ký, một cô đồng nghiệp xinh đẹp, hấp dẫn?

Hơn nữa, dù có thể châm chước cho sự “thiếu ngoại hình” thì những hoạt động nghề nghiệp làm ra nhiều tiền như M. nhắm đến bao giờ cũng tất bật, náo nhiệt, thậm chí chụp giựt, đãi bôi, “mồm mép đỡ chân tay”, làm sao phù hợp với bản tính nhút nhát, thiếu năng động nơi một thiếu nữ kém nhan sắc, chỉ quen sống trầm lặng, khép kín, hướng nội.

Cảm nhận ảm đạm về sự bế tắc trong ước vọng đầu đời còn được cô sinh viên nghiền ngẫm, nghĩ suy trong những đêm ngủ ngoài trời, vào dịp đi dã ngoại ở miền biển. Đâu cần tới sức ma mị của những ca khúc sầu đời của Trịnh Công Sơn mà M. rất yêu thích như Phôi phai, Bên đời hiu quạnh, Cõi tạm…, mà chỉ cần gặp phải hoàn cảnh xa cách gia đình như chuyến dã ngoại này, tức thiếu vắng không khí ấm cúng, quen thuộc của gia đình, một mình đối diện với bóng đêm câm nín, cô sinh viên mảnh khảnh đã sụp đổ tinh thần!

Đôi khi…, ngậm ngùi như Trịnh Công Sơn, ta thấy mình chỉ là “một thứ lục bình trôi dạt” trong tháng ngày vô định. Bước vào đời, chọn một nghề nghiệp là chỉ mong giúp đỡ gia đình. Nhưng tương lai, sự nghiệp ta lại không có triển vọng, dù cho có nỗ lực trí tuệ đến đâu đi nữa. Có thúc thủ ở những nghề nghiệp không sáng sủa phúc lợi, thu nhập kém, như nghề dạy học, nghiên cứu văn học… chẳng hạn, thì cũng chỉ là kiểu lục bình bèo bọt, không làm chủ được sự thăng tiến công danh. Thôi thì từ bỏ tất cả, để làm chuyến dã ngoại cuối cùng của đời mình. Chuyến dã ngoại xuôi về chốn Hư vô!

3.

ca phe la me bay 04“Không công danh nát với cỏ cây!”, thật sắt đá và khô khốc cái tư tưởng của ông nhà nho Nguyễn Công Trứ thế kỷ 19. Nhưng ở thế kỷ 20 và 21, không phải chỉ có bọn trẻ như M. phải học thuộc lòng mà cả người lớn cũng sống lấy cái tư tưởng khắc nghiệt ấy. Từ lâu rồi, thầm lặng dựng nên một nền văn hoá sính bằng cấp, đại đa số các gia đình cứ xua con cái vào lối đi rốt hạn hẹp là vào đại học. Phải tốt nghiệp đại học để vào đời kiếm công danh!

Như đang diễn ra vào cái tháng mưa lũ này, kỳ tuyển sinh đại học  2018 có quy mô nhỏ hơn nhiều so với trong những kỳ tuyển sinh ĐH các năm trước, nhưng sâu xa thì mọi kỳ tuyển sinh ĐH luôn luôn gây tổn hao không biết bao nhiêu là công sức, tiền bạc… của người dân trong cả nuớc, chưa nói cách tổ chức luộm thuộm, còn kết quả thì kém trung thực. Vào mùa tuyển sinh một năm nọ, trong một diễn đàn về đề tài “Đại học có phải là con đường duy nhất?”, có tới trên 600 ý kiến tham gia. Giới học sinh thi rớt đành thôi học mà đi làm thì rên xiết, bị stress nặng nề khi chỗ làm nào cũng đòi tiêu chuẩn tốt nghiệp đại học, trong khi, như một nhà giáo nhận xét “ví dụ cần nhân viên quản trị mạng thì kỹ thuật viên về mạng cũng đủ, tại sao phải cần tới đại học?”. Nhưng giới chủ công ty, doanh nghiệp thú nhận là cứ tuyển người dư điều kiện cho chắc ăn. Hậu quả là nhiều sinh viên, cán bộ xài bằng cấp giả bị vạch mặt… Và thảm kịch đã từng xảy ra, như vụ một học sinh trường NTH. tự tử vì thi rớt. Một phụ huynh viết: “Nghe tin này tôi kinh hoảng, không dám rầy thằng con tôi vừa rớt vài đại học nữa và nói với nó rằng, thôi, ba không cần con học đại học, ba không cần sĩ diện với thiên hạ nữa, ba chỉ cần có con là đủ!”.

Tiếp theo gánh nặng học hành là gánh nặng thành đạt lại nặng trĩu trên vai bọn trẻ. Sắp tốt nghiệp đàng hoàng như cô sinh viên M. cũng nào có an ổn một khi những gia đình nghèo hay chỉ đủ ăn như ba mẹ M. chỉ biết kỳ vọng vào sự thành đạt của con cái để có cơ hội thoát nghèo, thoát khổ. Thảm kịch lại tiếp diễn…

Trong cuộc sống, lúc nào cũng có những sự việc đã xảy ra rồi thì không thể sửa chữa. Sau một năm không biết con mình sống chết thế nào, ba mẹ M. đã lập bàn thờ, ngày giỗ là ngày cô bé bỏ nhà ra đi. Tôi muốn nghĩ rằng sự ra đi ấy không có “lý do triết lý”, “lý do tâm linh” gì sốt mà chỉ vì “lý do xã hội”, là thời thế này, xã hội này sính bằng cấp và thành đạt!

Hồi còn học lớp 12, cô bé M. giỏi văn đã được đăng báo một truyện ngắn đầy cảm xúc, tựa là “Chú chim nhỏ”, còn được in lại trong một tuyển tập truyện học trò. M. viết từ một chuyện có thật – chỉ hư cấu đoạn kết truyện. Một chú chim bị mưa bão phải dạt vào mái hiên nhà cô bé, được chăm sóc, cứu chữa xong thì chim bay đi, nhưng thật dễ thương, vài hôm sau chú chim bỗng nhiên quay về, đậu hót ngoài hiên… Nay chính cô bé tác giả, với tất cả mường tường tuyệt vọng về chính mình, đã chọn thân phận mình gần giống chú chim lạc loài trong truyện. Chỉ khác là, trong truyện thì chú chim bay đi, tưởng mất rồi nhưng thật hân hoan là chim lại bay về, còn trong cuộc sống thực, cô sinh viên bỏ nhà đi thì thật đau xót là không thấy cô bé quay về nữa…

(Dựa theo một câu chuyện có thật)

Phạm Việt Hùng (bút hiệu Phạm Nga)

*Trích (có biên tập lại) từ tuyển tập ký&truyện THỨ NHỤC DỤC TỦI NHỤC @PhamNga 2007