Cái tình văn nghệ!

Đoàn Xuân Thu

10 nam van nho Son Nam 01

Nhà văn Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11, tháng Chạp, năm 1926, tại làng Đông Thái, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá.

Nhưng tay chánh lục bộ ở làng thuở đó, chắc chữ Quốc ngữ chỉ học lem nhem, nên viết chánh tả trật bấy, trật bá hè. Tài hay vì ‘’’ ngắn, Tía chơi vô chữ ‘y’ dài mới chết!

Em tên là Nguyễn thị Lan; (xác thân còn đó hồn tan lâu rồi) thì Tía, chánh lục bộ, tiện tay phang luôn chữ ‘g’ vào. Lan một loài hoa rất đẹp dưới nét chữ như cua bò của ‘Tía’ bỗng ngang xương trở thành Lang, là con chó sói! Thiệt là hết nói.

Đang học trung học tại Collège de Cantho năm 1945 cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, trò Tài chưa kịp thi bằng Diplôme đành dở dang việc học.

(Trường Collège de Cantho, chánh thức lấy tên là Trung học Phan Thanh Giản từ tháng Tám, năm 1945. Học trò thi bằng Diplôme, thi viết tại Cần Thơ nhưng thi vấn đáp vẫn phải khăn gói lên tận Sài Gòn.)

Học cùng thời, cùng lớp với Sơn Nam, là nhà văn Lê Xuyên, người Ô Môn, Cần Thơ nhỏ hơn Sơn Nam một tuổi, sanh năm 1927.

Những nhà văn miền Nam như Sơn Nam, Lê Xuyên, Xuân Vũ nhà vốn ở ruộng, có một điểm chung là thôi học năm 1945, vì thời cuộc đều tham gia 9 năm ‘kháng chiến’.

Nhà văn Xuân Vũ, người Mỏ Cày, Bến Tre từng học Collège de Mytho, năm 54 tập kết ra Bắc rồi theo đường mòn Trường Sơn trở lại miền Nam. Mãi tới năm 1968 mới ra ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Nhưng có người theo ‘kháng chiến’ nhưng nhạy bén ‘khiến chán’ trước… như Lê Xuyên, Sơn Nam bỏ về thành, lên Sài Gòn viết văn, viết báo Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…như là một cái nghề để kiếm sống sau hiệp định Genève 1954  chia đôi đất nước qua vĩ tuyến 17.

 (Bút hiệu Sơn Nam là để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu. Sơn là một họ lớn của người Khmer, Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam).

Man van 04

Sơn Nam mất ngày 13, tháng Tám, năm 2008 tại Sài Gòn. Nhà văn Bình Nguyên Lộc nhận xét về bạn văn của mình như vầy: “Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc twist. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp biết bao nhiêu. Cái đẹp của Sơn Nam bất hủ…”

Bạn văn ca tụng nhau như vậy quả cũng là bất hủ! Thực vậy, suốt cả đời người chỉ viết văn, viết báo, biên khảo để kiếm sống một cách vất vả của kiếp nhà văn. Nhưng những trang viết của Sơn Nam không phải để giải trí, đọc qua rồi bỏ, mà là những khám phá cực kỳ thú vị về vùng đất phương Nam.

Là người Nam Bộ rặt ri, nhà văn Sơn Nam, qua lời văn giản dị, mộc mạc nhưng rất thâm trầm, am hiểu quá trình hình thành vùng đất Lục tỉnh Nam Kỳ nên đọc Sơn Nam, mình càng yêu đất nước mình hơn.

 ***

Năm 56, một truyện ngắn gởi báo Tiếng Dội được ông Trần Tấn Quốc, chủ báo, nồng nhiệt đón nhận. “Xin giới thiệu cùng quý độc giả thân mến: tân truyện Đường về Đồng Tháp của Đoàn Hùng Việt”.

Đoàn Hùng Việt là bút hiệu của ba tôi. Từ đó, ba tôi viết cho nhiều báo khác… kể cả các tuần báo như: Nhân Loại, Bông Lúa.

Lúc ấy, Sơn Nam mỗi tuần một truyện ngắn trên Nhân Loại như: Hương rừng Cà Mau, Tình nghĩa giáo khoa thư, Hát bội giữa rừng, Mùa “len” trâu… mà sau này gom lại thành tuyển tập “Hương rừng Cà Mau’ do nhà Phù Sa của Ngọc Linh cũng là bạn văn, phát hành năm 62.

Sau nầy trong tạp chí Hương quê của Phòng thông tin Hoa Kỳ, chuyên về nông nghiệp, mỗi tháng, còn có đăng truyện ngắn của Sơn Nam hoặc Bình Nguyên Lộc, đọc rất là khoái chí!

Hình ảnh cái tình văn nghệ của phụ thân tôi và Sơn Nam từ độ ấy. Bác Sơn Nam hơn ba tôi hai tuổi nhưng hai người gọi nhau là anh. Ba tôi gọi anh Sơn Nam; còn bác Sơn Nam gọi ba tôi là anh Việt.

Ngoài Sơn Nam ra, ba còn có các bạn văn khác như: Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên, Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà, An Khê, Dương Hà…

Nhà văn Ngọc Linh chuyên viết truyện dài với tựa rất thơ như: “Buổi chiều lá rụng… Mưa trong bình minh” gởi tặng ba hình một người đẹp với dòng chữ: “Thân tặng anh Đoàn Hùng Việt” và ký tên. Hình người đẹp đó là Kiều Chinh đang là diễn viên điện ảnh.

Nhà văn Ngọc Linh ăn mặc bảnh bao, chải chuốt, quần áo láng cón, đầu bi-ăng- tin bóng lưỡng, chạy Vespa. Còn Sơn Nam tóc chải xước, (kiểu Út Trà Ôn), không có rẽ đường ngôi bảy ba như sau nầy; mặt như lưỡi cày, môi dầy, răng hơi hô, mắt kèm nhèm dưới đôi kính cận. Áo trắng xắn tay, bỏ vô thùng đàng hoàng nhưng mang dép lè phè… đi bộ. Tay trái đeo đồng hồ ‘ô-ma -lắc’…(lắc mới chạy)… Nhưng cả hai đều tài hoa và đào hoa… như nhau. Cho nên Sơn Nam đặt tên con gái là: Đào Thúy Hằng và Đào Thúy Nga thì cũng chẳng làm ai ngạc nhiên…

(Hằng là tên trong giấy tờ, còn tên ở nhà là Mỹ Linh. Nga là Ngọc Ánh. Thúy Hằng là tên Thẩm Thuý Hằng; còn Thúy Nga là tên ca sĩ, vợ Hoàng Thi Thơ. Sau này Sơn Nam có thêm một người con gái nữa là Đào Thúy Liễu, tên ngoài là Trinh.)

“Lúc đó, Sơn Nam có người bạn viết báo tên Đoàn Hùng Việt, làm việc ở Bưu điện Mỹ Tho. Sát vách nhà chú Việt có căn nhà bỏ trống nên chú đề nghị Sơn Nam đưa vợ con về thuê ở.” Lời của Mỹ Linh.

Tôi là láng giềng, sát vách với con nhà văn nổi tiếng nầy được hai năm, thường ra ruộng mò cua, bắt ốc hay chạy qua nhà nghe say mê bác Sơn Nam gái kể chuyện xưa tích cũ.

Man van 01Năm 59, ba tôi đổi đi Bưu Điện Cái Bè, tôi xa Mỹ Tho, không còn đi bắt ốc, hái rau với Mỹ Linh và Ngọc Ánh ngoài ruộng nữa. Không còn qua nhà nghe bác Sơn Nam gái kể chuyện xưa tích cũ hay ngồi trước cửa nhà nhìn xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho, súp lê, chạy xịt khói nữa…

Bưu Điện Cái Bè, làng Đông Hòa Hiệp, là biệt thự kiểu Tây, 13 phòng, rộng minh mông, chánh phủ mướn của ông Hội đồng Đôn. Không điện, không nước. Không điện thì đèn măng sông. Nước thì nước sông, gạo chợ.

Sơn Nam một, hai tháng mới về thăm vợ con một lần ở Mỹ Tho, rồi nhơn tiện ghé Cái Bè ở chơi với ba tôi năm, bảy bữa… Nói là ghé chơi chứ thực là ông về để viết.

Sáng hai ông ăn sáng với hột gà ‘ốp-la’, muối tiêu… bánh mì bán dạo, nóng dòn. Uống cà phê phin kiểu Pháp. Bột cà phê bỏ vô phin, rót chút nước lạnh cho cà phê nở ra rồi rót nước thiệt sôi vào. Cà phê đen rất đậm, ít đường. Buổi sáng hương cà phê thơm ngát… Tôi hưởng nước nhì…

Cả hai đều ghiền thuốc lá và ghiền nặng. Ba hút ngày một gói Melia vàng, hai chục điếu, Sơn Nam cũng không chịu thua, một gói Bastos xanh.

Tới giờ ba tôi đi làm việc, chỉ cần mở cửa là tới văn phòng, thì Sơn Nam rút vô phòng, lấy sổ đầy chi chít những chữ ra xem… rồi viết… Trưa ăn cơm chung, chiều uống chút đỉnh rượu, rồi ngủ.

Má tôi một người phụ nữ đảm đang, một người vợ yêu chồng hết mực (má ai hổng vậy?) lo nấu ăn, đãi bạn văn của chồng mà không một tiếng than van.

Tụi nhỏ được ăn ngon hơn một chút… thường là canh chua cá lóc với cá sặc rằn kho tộ.

Sau đó là Rạch Giá và Sài Gòn, những nơi ba tôi đổi đi, ông Sơn Nam đều có đến thăm.

***

danh-may-muon-4Năm bảy lăm, mất nước, ba tôi bị bắt đi cải tạo hết sáu tháng, dù suốt đời chỉ làm Bưu Đìện, liếm tem, cò, phát thơ chứ “làm cái chó gì đâu” mà có nợ máu với nhân dân… vậy mà cũng bị ở tù.

Ba tôi ra tù về lại Sài Gòn, đường Lý Thái Tổ kiếm sống bằng nghề đánh máy mướn. Người ta làm đơn xin thăm nuôi chồng, con ở tù vì đủ mọi lý do… (mà lúc đó ai mà hỏng ở tù… mới là lạ).

Bây giờ, quê người, viết bài nầy bằng computer, khỏ nhẹ nhàng lên “keyboard” là chữ hiện lên, tôi lại nhớ và thương ba tôi nhiều hơn nữa.

Thương vô cùng những ngón tay cong vòng của Ba; vì phải gõ lọc cọc suốt ngày trên cái máy đánh chữ “Olympia” cổ lỗ sỉ để kiếm gạo nuôi một bầy con, thân gà trống… vì má tôi đã mất lâu rồi!

***

Có lần, khoảng năm 80, cả nước đang đói tợn, từ Cần Thơ đi gạo lậu về Sài Gòn, ghé thăm ba, tôi lại được dịp gặp nhà văn Sơn Nam.

Sáu giờ chiều, dẹp bàn máy, hai ông già, bạn văn, dắt nhau ra Ngã bảy Lý Thái Tổ và Petrus Ký, ăn cơm bụi.

Bây giờ không còn canh chua cá lóc, cá sặc rằn kho khô hay cá lóc nướng trui, uống rượu “con cọp” nữa rồi! Mà là một khúc hũ qua hầm trong canh toàn quốc, uống rượu bọt đường…

Tôi cứ tưởng nhà văn Sơn Nam ở tù hơn một năm rưỡi hồi Việt Nam Cộng Hoà giờ còn được tiếp tục cầm bút thì chắc ổng phải làm quan… ngon rồi chớ… dè đâu cũng vậy… thì sao nhờ vả được hỡi trời!

Tôi hỏi ba tôi hay là bác Sơn Nam giấu, vì sợ cha con mình mượn tiền, chứ con đọc báo thấy bài của ổng nghe “mùi cách mạng” lắm mà ba?

“Hỏng có đâu con, bác Sơn Nam nói mấy thằng biên tập nó chen vô, hỏng cho, nó hỏng đăng, đói.”

“Người viết phải giao thiệp với chủ báo để biết họ cần gì, đặng mình viết mà không sợ phải “lạc đề”, nếu bài “lạc đề” thì dù có hay mấy họ cũng ném sọt rác. Khi đưa bài báo đến tòa soạn báo, họ muốn biên tập, xử lý ra sao cũng mặc kệ, miễn là họ… trả tiền sòng phẳng. Những gì họ biên tập, cắt xén thì khi in thành sách, ta cứ việc “phục hồi” lại nếu thích”. (Lời Sơn Nam).

Huong rung Ca mau 02(Sau nầy, trong Hồi ký của Sơn Nam, nếu tinh ý, độc giả cũng thấy, cái mạch văn, cái từ ngữ rặt ri của vùng U Minh, Trèm Trẹm, lại chen vào những phương ngữ gốc Bắc. Như ‘nghĩa quân’ của ông Nguyễn Trung Trực đánh chiếm Tòa Bố Rạch Giá lại thành ‘du kích’ (?!)

Cái tình văn nghệ giữa ba tôi và Sơn Nam dễ chừng hơn mấy chục năm nhưng thời gian có hề gì. Cái tình nghĩa giáo khoa thư giữa thầy phái viên báo ‘Chim Trời’ và độc giả Tư Có của cái xứ Cà Bây Ngọp, chỉ một đêm… Hai ông ăn cá lóc nướng trui, uống rượu “ông cọp”… rồi sau đó cùng chui vô mùng… nói chuyện: “Quốc văn giáo khoa thư”.

Cái tình văn nghệ giữa các ông với nhau là một chút “Hương Rừng Cà Mau” thoang thoảng nhưng lại thơm tới ngàn sau.

đoàn xuân thu.

melbourne