Âm Phò + Dương Trợ = Thành Công
Giáo sư Lâm Vĩnh-Thế, M.L.S.
Cựu Học Sinh Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, 1953-1960
Cựu Giáo Sư Trưởng Ban – Ban Thư Viện Học, Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn
Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1974-1975
Librarian Emeritus
Đại Học Saskatchewan
CANADA
Năm 1963, tôi lập gia đình với người em gái duy nhứt của Võ Văn Minh, một trong nhóm 9 người bạn thân của tôi [1] lúc học ở bậc Đệ Nhứt Cấp, Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký (1953-1957). Nhạc phụ của tôi, một người đã sống trọn một cuộc đời hết sức đạo đức, theo đúng phương châm “Học Phật Tu Nhơn,” đã dạy anh em chúng tôi cái câu nói của người xưa mình mà Cụ đã suốt đời tin tưởng: “Âm Phò + Dương Trợ = Thành Công.” Bài viết này là một cố gắng ghi lại những suy nghĩ của bản thân tôi về cái công thức mang tính định đề đó.
Âm Phò Là Gì?
Đây là cách nói của người Miền Nam. Người Miền Nam dùng chữ Phò thay cho chữ chữ Phù, và, vì vậy họ không nói là Âm Phù, mà nói là Âm Phò. Tất cả các tự điển Hán-Việt hiện nay đều ghi là Âm Phù. Vậy Âm Phù có nghĩa là gì?
Âm Phù 陰 扶 là hai chữ Hán có nghĩa là sự giúp đỡ từ cõi Âm. Con người sống trong cõi Dương, không thể nhìn thấy được những gì xảy ra trong cõi Âm, và, vì vậy, không thể thấy được cái gọi là Âm Phù. Chính vì vậy trong lúc Âm Phùdiễn ra, con người hoàn toàn không có một hành động nào hết. Do cái tính chất đó của Âm Phù, mà nói theo người Anh-Mỹ là No Action, nhiều người cũng sử dụng cụm từ Vô Vi để nói về khía cạnh siêu hình của sự giúp đỡ từ cõi âm.
Chúng ta có hai câu hỏi rất cần được trả lời: 1) Sự giúp đở từ cõi âm này do đâu mà có?, và, 2) Sự giúp đỡ từ cõi âm này do ai làm?
Sự giúp đỡ từ cõi âm này có thể do một trong hai nguyên do chính sau đây:
1. Do chính sự cầu nguyện, cầu xin của người cần được giúp đỡ. Tác giả bài viết này đã từng có một trải nghiệm hết sức huyền diêu về việc cầu nguyện như sau:
“Câu chuyện xảy ra vào một buổi chiều, vào khoảng tháng 6 hay tháng 7 năm 1980 tại Saigon. Chiều hôm đó, vào khoảng 4 giờ, T., đứa con trai nhỏ của tôi, lúc đó khoảng 4 tuổi, thức dậy sau khi ngủ trưa. Nó là một đứa trẻ tương đối hiếu động, nhưng chiều hôm đó nó có vẻ hơi bất bình thường. Nó cũng tự động tụt xuống khỏi võng, đi ra nhà sau và ngồi xuống cái bô để tiểu. Mẹ cháu ngồi giặt quần áo gần đó, nhìn nó cười và hỏi “con tỉnh ngủ chưa?” nhưng nó không trả lời gì cả. Một chập sau, mẹ nó nhìn lên thì thấy nó vẫn ngồi đó nhưng cái đầu ngả quẹo sang một bên. Biết là không bình thường rồi, mẹ cháu vội bỏ thau quần áo đang giặt dở dang và chạy lại ôm nó và hỏi “con có sao không?” nhưng nó vẩn không trả lời gì cả. Lo sợ quá, mẹ nó bồng nó lên nhà trên. Lúc đó tôi cũng vừa về tới. Hai vợ chồng tôi vội thắp nhang ở bàn thờ và thầm vái cầu xin Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho bé T. tai qua nạn khỏi. Sau đó tôi kêu một chiếc xích lô đạp để chở hai mẹ con bé T. sang nhà ông bà ngoại cháu, phần tôi thì đạp xe đạp chạy kèm theo. Sau khi nghe vợ tôi kể lại nội vụ, ông bà ngoại cháu lại cũng thắp nhang và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, và khuyên chúng tôi đưa cháu đi bác sĩ. Cho tới lúc đó T. vẫn mở mắt nhưng không nói một lời nào. Chúng tôi lại nhờ bác xích lô đưa hai mẹ con sang phòng mạch của một nữ bác sĩ ở đường Ðinh Công Tráng. Phòng mạch lúc đó đang vắng nên tôi bồng cháu vào ngay. Vừa đặt nó nằm xuống và bác sĩ vừa bắt đầu khám thì bé T. bị lên kinh, tay chân co giật làm vợ chồng tôi càng lo sợ hơn. Ðộ hơn một phút sau cơn động kinh đã qua, vị bác sĩ không dám chích thuốc gì cho cháu cả mà chỉ bảo tôi ra chợ trời kiếm mua thuốc an thần Valium loại 2 mg về cho cháu uống. Sau khi đưa mẹ con bé T. về nhà, tôi đạp xe ra chợ trời Tân Ðịnh. Vào khoảng thời gian đó, nguyên cả con đường Trần Văn Thạch đã bị chặn kín hai đầu và tổ chức thành chợ trời với các sạp gỗ đủ cỡ, đủ loại. Tôi đi từ phía đường Trần Quang Khải hướng về phía đường Hai Bà Trưng. Gặp sạp bán thuốc Tây nào tôi cũng hỏi mua Valium 2mg. Lúc đó đã gần 6 giờ, nhiều chủ sạp đã bắt đầu dọn dẹp, xếp hàng vào thùng để chuẩn bị ra về. Phần đông họ không muốn bán nữa nên trả lời là không có và tiếp tục dọn dẹp. Một vài người cũng chịu khó lôi hàng ra, tìm thuốc để bán nhưng không có. Tôi đi ra tới khoảng ngang hông chợ Tân Ðịnh thì lại gặp một sạp thuốc Tây nữa. Một chú bé khoảng 12, 13 tuổi cũng đang dẹp hàng. Nghe tôi hỏi Valium 2mg, chú nói có và lục hàng ra tìm. Ngay lúc đó, một người đàn bà trung niên, thân hình cao lớn, phốp pháp, chạy một chiếc xe Honda đàn ông SS 50, rề vào sạp hàng và hỏi chú bé: “con kiếm thuốc gì đó?” Chú bé nói “ông này kiếm mua Valium 2 mg”. Quay sang tôi, bà hỏi tôi mua Valium 2 mg làm gì. Tôi kể lại câu chuyên của bé T. Bà bảo tôi ngay: “thầy về nhà đi, nhà thầy ở đâu, tôi tới chửa cho cháu nó ngay.” Tự nhiên, tôi tin ngay lời nói này, cho bà biết địa chỉ nhà chúng tôi, và đạp xe về nhà. Tôi vừa về tới nhà thì bà đó cũng tới, vẩn là chiếc xe Honda đàn ông SS 50 đó. Lúc đó bé T. đang nằm trên giường với mẹ và bà ngoại ngồi hai bên. Bây giờ thì nó không còn mở mắt nữa và nằm hoàn toàn bất động. Tôi vội giới thiệu mọi người với nhau. Bà ấy bảo vợ tôi lật cho bé T. nằm sấp và bắt đầu đánh gió trên lưng cháu. Sau đó, bà cắt lưng cháu mấy chỗ và nặn máu. Sau chừng đâu 3, 4 vết cắt thì bé T. khóc ré lên và tỉnh dậy. Ðây là lần đầu tiên tôi và mẹ cháu nghe lại tiếng nói của nó kể từ lúc 4 giờ chiều. Chỉ chừng 5 phút sau đó bé T. trở lại hoàn toàn bình thường, kêu đói và đòi mẹ cho ăn. Sự vui mừng của vợ chồng tôi và bà ngoại T. thật không bút nào tả cho xiết. Câu chuyện vừa kể thật ra cũng tầm thường, đâu có gì thật đặc biệt đáng kể, nếu không có chi tiết sau đây. Ngay sau khi bắt tay vào đánh gió cho bé T., người đàn bà đó, tự nhiên và bất ngờ, nói lên một câu. Ðây là nguyên văn, không dư không thiếu một chữ của câu nói đó, mà tôi nghĩ rằng suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên được. Bà ấy nói như sau: “TÔI LÀ ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ĐÂY!”. Có thể nói rằng lúc đó mẹ vợ tôi, vợ tôi và tôi đều mọc ốc, điển xuống rần rần cả người chúng tôi. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, lặng thinh không nói một lời nào. Bà đó, sau khi nói xong câu đó, lại tiếp tục công việc của mình, và không nói gì nữa hết, mà cũng hoàn toàn thản nhiên, coi như đó là một chuyện gì bình thường, không có gì đặc biệt đáng quan tâm. Nhưng đối với ba người chúng tôi, thì quả đó là một phép lạ, nhiệm mầu. Tại sao chúng tôi có cảm nghĩ như vậy? Bởi vì, từ lúc 4 giờ chiều cho tới khi bà ấy nói lên câu đó, cả ba người chúng tôi, lúc thì nguyện thầm trong tâm, lúc thì thốt ra lời, nhưng lúc nào câu khấn nguyện cũng chỉ là: “NAM MÔ CỨU KHỔ, CỨU NẠN, QUẢNG ÐẠI, LINH CẢM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.” Và đây, ngay trước mắt chúng tôi, một con người bằng xương bằng thịt, hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, đang cứu con, cháu chúng tôi và người đó, không ai hỏi, tự nhiên xưng mình là đệ tử của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Rõ ràng là ÐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ÐÃ NGHE ÐƯỢC LỜI CẦU NGUYỆN CỦA GIA ÐÌNH CHÚNG TÔI VÀ ÐÃ ÐƯA ÐỆ TỬ CỦA NGƯỜI ÐẾN CỨU CON, CHÁU CHÚNG TÔI. Nếu bác sĩ không bảo tôi tìm mua Valium thì tôi đâu có ra chợ trời làm gì. Mà tôi ra đó, nếu sớm hay trễ một chút, có chắc gì gặp được người đàn bà đó. Và người đàn bà đó, tại sao, không ai hỏi gì cả, lại nói ra câu đó. Tại sao bà ta không là đệ tử của một vị nào khác, mà lại đúng là đệ tử của ÐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Không còn nghi ngờ gì nữa cả, dứt khoát đây không phải là một sự tình cờ, ngẫu nhiên, mà rõ ràng đây là một lời cầu nguyện đã được đáp ứng một cách trực tiếp, mau lẹ: MỘT PHÉP LẠ.” [2]
• Do chính âm đức mà người được giúp đỡ đã được hưởng từ những việc làm tốt lành của những đời trước trong gia đình như Ông Bà, Cha Mẹ
Từ hai nguyên nhân chinh vừa nêu trên, chúng ta có thể suy ra rằng sự giúp đỡ đó chỉ có thể được thực hiện bởi:
• Hoặc do chính Vị ở Cõi Trên mà ta cầu xin (Thánh, Thần, Tiên, Phật đối với phần đông mọi người; Đức Chúa, Đức Mẹ, Các Vị Thánh, Á Thánh… đối với các tín đồ Thiên Chúa Giáo).
• Hoặc do chính các vị tiền bối trong gia đình có âm đức của người được giúp đỡ.
Mặc dù thuộc lãnh vực Vô Vi, người trần chúng ta không nhìn thấy được, Âm Phò giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc thành công hay thất bại của công việc mà chúng ta muốn làm.
Tác giả bài viết này xin kể một câu chuyện có thật đã xảy ra cho chính bản thân người viết để minh họa Âm Phù như sau trong chuyến đi công tác tại Hà Nội lần đầu tiên vào năm 1980:
“Nhạc phu tôi, một đệ tử thuần thành của Đạo Mẫu, đã giao cho tôi nhiệm vụ phải tìm cho được ngôi đền Sùng tại Hà Nội để đến chiêm bái Đức Đệ Nhứt Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ông cụ tìm trong tủ sách báo xưa và đưa cho tôi đọc một bài báo mà cụ đã cắt dán vào một cuốn tập. Bài báo này được xuất bản từ những năm trước chiến tranh Việt-Pháp (1946-1954), và vì vậy giấy in nay đã vàng ố. Bài báo cho biết tại Hà Nội có một ngôi đền thờ Đức Bà Liễu Hạnh, tại số 35 đường Hàng Bột, gọi là Đền Sùng (còn ngôi đền chánh thờ Đức Bà là ở trong Thanh Hóa được gọi là Đền Sòng). Tôi hứa với nhạc phụ là tôi sẽ tìm đến ngôi Đền Sùng này để lạy Đức Bà….Chúng tôi bắt đầu từ Văn Miếu, đi đường Hàng Bột về phía Ô Chợ Dừa. Anh H. đạp xe chầm chậm, tôi ngồi sau bọt-ba-ga, luôn luôn nhìn sang bên trái đường để tìm số nhà 35. Đọc đường, chúng tôi thỉng thoảng ngừng xe lại để hỏi thăm các người đi đường, phần nhiều là những người lớn tuổi, vì chúng tôi nghĩ là những người trẻ tuổi trẻ chắc không biết về ngôi Đền. Không một người nào biết cả. Lúc đó chúng tôi đã đi khá xa trên đường Hàng Bột, gần đến Ô Chợ Dừa rồi. Tôi vái thầm trong bụng như sau: “Đệ tử cầu xin Đức Bà linh thiêng phù hộ cho đệ tử tìm được ngôi Đền để đệ tử có thể vào lạy Đức Bà.” Tôi vừa vái xong thì ngay lúc đó anh H. dừng xe đạp lại một lần nữa. Bên vệ đường là một ông cụ đang ngồi với đồ nghề vá xe đạp. Cũng như những lần trước, anh H. hỏi thăm cụ già về ngôi Đền. Lần nầy, thật là linh diệu, ông cụ nói ngay như sau: “các cậu đi quá rồi, vòng lại đi, ngôi Đền ở ngay phía sau cái nhà trẻ đấy, lối đi vào Đền là ở bên cạnh nhà trẻ đấy.” Chúng tôi cám ơn ông cụ và vòng xe lại, đi trở ngược lại hướng Văn Miếu. Khi đến trước nhà trẻ, tôi nhìn kỹ hai cây cột gổ phía trên có bảng hiệu của nhà trẻ thì mới nhận ra là cái cột bên phía tay mặt được đặt lên trên một cái cột đá cũ kỷ. Nhìn kỷ cái cột đá đó thì rõ ràng có một vài khắc chữ Hán theo chiều dọc. Vậy đây rõ ràng là một trong hai cái cột bằng đá của một cái cổng của một kiến trúc cổ nào đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là địa điểm của Đền Sùng ngày xưa như bài báo đã mô tả. Theo lời chỉ dẫn của ông cụ lúc nảy, tôi và anh H. dẫn xe đạp theo lối đi bên cạnh phía tay mặt của nhà trẻ để vào bên trong. Sau độ hơn 20 mét, nhìn sang bên tay trái chúng ta thấy ngay cái sân nhỏ và ngắn ở trước một ngôi nhà nhỏ. Bước vào bên trong nhà, tôi và anh H. thật sửng sốt khi nhìn thấy cảnh tượng bên trong. Trước mắt chúng tôi là một khoảng dùng làm nơi lễ bái, rộng 6 x 3 mét, lót gạch bông đã được lau chùi bóng loáng, bên trong là ba gian điện thờ sơn son thếp vàng thật nguy nga. Trong đền lúc đó có sự hiện diện của ba cụ, hai bà một ông, tóc bạc phơ, chắc đã trên dưới 70. Các cụ đang ngồi ăn trầu, nói chuyện trên một cái sạp gụ bóng loáng. Thấy chúng tôi vào, các cụ đứng dậy, đi ra tiếp chúng tôi. Khi được anh H. nói cho biết tôi là một người từ Miền Nam ra và nhờ anh đưa đi tìm ngôi Đền để đến lễ bái Đức Bà, các cụ vô cùng ngạc nhiên và vui mừng. Ông cụ vội vã đến các gian điện thờ bật đèn lên, đốt ba cây nhang và đưa cho tôi. Anh H. bước sang một bên, không tham gia vào việc lễ bái. Sau đó ông cụ đi đến gian điện thờ chính giữa, nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh, và đánh mấy tiếng chuông. Tôi lễ đủ tất cả ba bàn thờ, và, xin phép các cụ, tôi gởi một ít tiền góp vào việc mua nhang đèn.”[3]
Dương Trợ là Gì?
Dương Trợ 陽 助 là hai chữ Hán có nghĩa là sự giúp đỡ từ cõi Dương. Con người sống trong cõi Dương nên, dĩ nhiên, con người có thể nhìn thấy được cái được gọi là Dương Trợ. Sự giúp đỡ thuộc loại này có thể diễn ra dưới nhiếu hình thức cụ thể, tất cả đều có thể nhìn thấy, sờ mó được, và, vì vậy đều có thể xếp vào loại Hữu Vi.
Dương Trợ, do bản chất thuộc Hữu Vi, nên con người, trong một giới han nào đó, có thể kiểm soát, hay, ít ra, chi phối được.
Hiểu rộng ra, hai chữ Dương Trợ chỉ tất cả: con người, hành động, lời nói, tài liệu có liên quan đến sự trợ giúp.
Con Người
Những con người cụ thể đứng ra giúp chúng ta bao gồm: người thân trong gia đình, bạn bè thân hữu, hàng xóm láng giềng, và tất cả nhũng người có quan hệ tốt với chúng ta như thầy cô, bạn học, đồng nghiệp.
Trang trường hợp của bản thân tôi, thầy và cũng là Giáo Sư Hướng Dẫn (Academic Advisor) của tôi lúc tôi học 2 năm (Từ tháng 9-1971 cho đến tháng 5-1973) tại Trường Thư Viện Học, Viện Đại Học Syracuse (School of Library Science, Syracuse University), Ân Sư Pauline A. Cochrane là một trường hợp hết sức đặc biệt. Mối quan hệ thầy-trò giữa Ân Sư và tôi đã không chấm dứt vào cuối tháng 5-1973 mà còn tiếp diễn mãi cho đến hơn nửa thế kỷ sau, cho đến khi Bà mãn phần vào ngày 29-7-2024. Bà luôn luôn tìm mọi cách giữ mối liên lạc với tôi và gíup đỡ tôi, ngay cả khi tôi còn kẹt lại ở Việt Nam sau ngày 30-4-1975.
Ảnh chân dung của Ân Sư Pauline A. Cochrane
Lần cuối cùng chúng tôi cùng làm việc chung là trong thời gian Đại Hội Thường Niên năm 1999 của Hội Thông Tin Hoa Kỳ (Annual Meeting, American Society for Information Society):
. “Năm 1999, bà được đúng 70 tuổi, Hội Thông Tin Hoa Kỳ (ASIS) quyết định vinh danh bà. Ngoài quyết định cấp cho bà thẻ hội viên vàng (Gold Membership Card) miễn đóng niên liễm trọn đời, ASIS còn dành cho bà một vinh dự lớn là để cho bà được toàn quyền sử dụng trọn một buổi (4 giờ) trong chương trình của đại hội. Bà quyết định dùng trọn buổi đó cho một buổi thuyết trình mà bà đặt tên là “Knowledge Organization and Use Viewed by Caregivers (Aka Librarians).” Bà chỉ đóng vai trò điều hợp (co-ordinator) và những thuyết trình viên sẽ là 4 môn sinh đại diện cho 4 thế hệ học trò trong cuộc đời dạy học của bà: 1) Người đại diện cho thế hệ thứ nhứt là tôi, Lâm Vĩnh-Thế, Trưởng Ban Biên Mục, Thư Viện Đại Học Saskatchewan; 2) Người đại diện cho thế hệ thứ nhì là : Tiến sỉ William J. Wheeler, Quản Thủ Thư Viện, Đại Học Yale; 3) Người đại diện cho thế hệ thứ ba là: Cô Sandra K. Roe, Quản Thủ Thư Viện, Đại Học Nam Dakota; và 4) Người đại diện cho thế hệ thứ tư là: Cô Vivian Bliss, Quản Thủ Thư Viện, Công Ty Microsoft.”
Đại Hội Thường 1999 của ASIS – Tư phải qua, GS Cochrane, TS Wheeler, Cô Roe, tôi, và Cô Bliss
Hành Động
Hành động là cách thể hiện cụ thể nhứt của Dương Trợ. Dương Trợ diễn ra hàng ngày chung quanh ta vào mọi lúc mọi nơi. Chúng ta đi ngoài đường, lỡ trợt chân, ngã xuống, một người đi đường đến đỡ chúng ta dậy, đó là Dương Trợ. Nhà chúng ta bị cháy, hàng xóm láng giềng xúm nhau lai giúp dâp tắt ngọn lửa, đó là Dương Trợ. Một thanh niên giúp cho một cụ già chân yếu băng qua con đường đầy xe cộ một cách an toàn, đó là Dương Trợ
Lời Nói
Một tai nạn xe cộ xảy ra ngoài đường phố giữa hai đượng sự hoàn toàn xa lạ, một người đi đường tình cờ chứng kiến đầu đuôi cậu chuỵện, thấy rõ ai phải ai trái, đã tự nguyện đứng ra làm chứng nhân cho Cảnh Sát làm biên bản. Lời nói của người này chính là một hình thức cụ thể của Dương Trợ.
Tài Liệu
Các lá thư giới thiệu mà chúng ta sử dụng lúc đi xin việc làm là tài liệu cụ thể nhứt của Dương Trợ. Khi tôi nhận được công việc làm chuyên môn thư viện đầu tiên tại Canada thì phần lớn là do lá thư giới thiệu đầy ấn tượng của Ân Sư Pauline A. Cochrane, trong đó có một câu như sau:
“… He was, without doubt, one of the top ten or twenty students I have had in twenty-five years of teaching… There is no doubt in my mind that Lam Vinh The could hold any professional library position for which he applied. With a little in-service training and reading he should be able to bring himself up to speed. I have every confidence of that.”
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Không nghi ngờ gì cả, anh ấy đã từng là một trong mười hay hai mươi sinh viên giỏi nhứt trong hai mươi lăm năm dạy học của tôi… Không có một chút nghi ngờ nào trong suy nghĩ của tôi là Lâm Vĩnh Thế có thể đảm nhận bất cứ công việc chuyên môn nào về thư viện mà anh ấy nộp đơn. Chỉ cần một ít huấn luyện tại chỗ và đọc thêm tài liệu thì anh ấy sẽ nhanh chóng nắm được công tác. Tôi hoàn toàn tin tưởng như vậy.”
Âm Phò và Dương Trợ Tác Động Hỗ Tương
Hai yếu tố Âm Phò và Dương Trợ là hai yếu tố luôn luôn tác động hỗ tương trong việc trợ giúp cho con người đạt đến thành công tromg mọi việc.
Cả hai yếu tố đều là điều kiện cần và bổ sung cho nhau, không thể thiếu một trong hai yếu tố được. Vì yếu tố Âm Phò thuộc phần Vô Vi, con người không làm chủ được, nên con người phải đặt trọng tâm vào yếu tố Hữu Vi là Dương Trợ. Điều này có nghĩa là con người phải cố gắng hết sức mình trong công việc mình muốn thực hiện, nhưng đồng thời cũng phải luôn luôn cầu nguyện, cầu xin Ơn Trên phù trợ. Ông Bà ta ngày xưa cũng thường dạy con cháu cái câu: “Tận nhân lực, tri thiên mạng.”[4] Chính người Pháp cũng có một câu châm ngôn tượng tự: “Aide-toi, le ciel t’aidera = Ráng làm đi rồi trời sẽ giúp cho bạn.”
Phải Làm Gì Để Phát Huy Tối Đa “Dương Trợ”?
Đến đây chúng ta đã thấy rõ là con người chỉ có thể chi phối được yếu tố Hữu Vi là Dương Trợ, và, vì vậy mọi người đều phải hết sức cố gắng làm mọi cách để có được yếu tố Dương Trợ ở mức cao nhứt. Vậy thì làm mọi cách như thế nào?
Việc đầu tiên cần phải làm là phải có sự tin tưởng tuyệt đối vào việc mình muốn làm hay đang làm là một việc đúng, cần phải làm, đáng làm, nhứt là nếu việc làm đó có thể giúp ích cho người khác, cho xã hội. Khi đã có được sự tin tưởng tuyệt đối như thế, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh tinh thần cần có để khộng e ngại, chùng bước trước những khó khăn, chướng ngại cần phải vượt qua.
Việc thứ hai cần phải làm là phải biết nắm lấy cơ hội vì cơ hội chỉ đến một lần.[5] Kế tiếp là phải có kế hoạch để thực hiện thành công việc mình muốn làm một cách trọn vẹn và với hiệu quả cao nhứt. Trong khi làm kế hoạch thì không được quên các yếu tố quan trọng như sau: lý do, mục tiêu, hoàn cảnh (không gian và thời gian), phương tiện, và người cùng làm với mình.
Khi đã bắt tay vào làm thì phải luôn luôn hết sức cố gắng, làm hết sức mình, tận dụng khả năng của mình theo đúng câu “Tận Nhân Lực, Tri Thiên Mạng,” đồng thời khai thác tối đa các phương tiện có được cũng như khuyến khích và sử dụng thật tốt, với hiệu quả cao, công tác của những người cùng làm việc với mình.
THAY LỜI KẾT
Khi làm bất cứ công việc gì, dù nhỏ hay lớn, chúng ta đều muốn thành công, không ai muốn thất bại. Đó là một điều tất nhiên. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng trong quá trình thục hiên công tác luôn luôn có những sự việc không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta, nhiều khi ngay cả chúng ta cũng không thể thấy được. Phần Vô Vi này hoàn toàn do Âm Phò kiểm soát và quyết định. Chúng ta chỉ có thể làm tốt trong việc sử dụng, và phát huy phần Hữu Vi là Dương Trợ mà thôi.
GHI CHÚ:
1. Lâm Vĩnh-Thế. Nhớ về nhóm bạn thân các năm Đệ Nhứt Cấp tại Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/nho-ve-nhom-ban-than-cac-nam-de-nhut-cap-tai-truong-trung-hoc-petrus-truong-vinh-ky-lam-vinh-the/
2. Lâm Vĩnh-Thế, pháp danh: Viên Lộc. Cầu nguyện và phép lạ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/cau-nguyen-va-phep-la-lam-vinh-the/
3. Lâm Vĩnh-Thế. Chuyến đi Hà Nội lần đầu tiên vào năm 1980, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/chuyen-di-ha-noi-dau-tien-vao-nam-1980-lam-vinh-the/
4. Lâm Vĩnh-Thế. Trải nghiệm bản thân về tận nhân lục tri thiên mạng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/trai-nghiem-ban-than-ve-tan-nhan-luc-tri-thien-menh-lam-vinh-the/
5. Lâm Vĩnh-Thế. Cơ hội chỉ đến một lần, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/co-hoi-chi-den-mot-lan-lam-vinh-the/

