Một buổi chiều vào tháng cuối cùng của năm 1973 trong khuôn viên Hội Việt Mỹ Sài Gòn. Gió thoảng nhẹ. Một đứa học trò trong đồng phục áo trắng quần xanh, tay xách cặp, đang đi về hướng lớp học của mình. Trên băng ghế đá, một thanh niên tuổi vừa ngoài hai mươi đang ngồi nghỉ. Chợt thấy cái phù hiệu P. Trương Vĩnh Ký trên ngực áo đứa học trò nhỏ, người thanh niên gọi lớn:

Em ơi, em học trường Petrus Ký hả? Em học lớp mấy?

Đứa nhỏ đứng lại lễ phép trả lời:

Dạ em đang học lớp 11 và cũng đang học lớp 11 ở Hội Việt Mỹ này.

Người thanh niên nói:

Anh cũng là học sinh Petrus Ký trước đây, đang du học ở Tân Tây Lan, đang về thăm nhà trong kỳ nghỉ hè.

Sau vài câu trao đổi, hai người chia tay, không một lần gặp lại sau đó.

Thời gian qua mau, có lẽ là hơn bốn mươi năm.

………

Tôi không nhớ rõ, nhưng có lẽ là vào khoảng tháng 6 năm 2014, một hôm tôi nhận được điện thoại từ một người không quen. Đầu dây bên kia tiếng một người lạ:

Xin hỏi có phải là anh Trần Thạnh không? Tôi có được số điện thoại của anh từ anh Trương Minh Công ở Petrus Ký College ở Bankstown.

Anh biết tên tôi qua các bài viết đăng trên trang nhà Hội Ái Hữu Petrus Ký Úc Châu nên đến Petrus Ký College tìm. Từ đó tôi quen anh Lý Hồng Giang, cựu học sinh Petrus Ký từ 1963 đến 1970. Sau khi thi đậu Tú Tài II, anh được học bổng Colombo Plan sang du học tại Tân Tây Lan (New Zealand).

Chúng tôi gặp mặt lần đầu tại nhà tôi ở Sydney, vào tháng 6 năm 2014. Gặp anh lần thứ hai sau đó không lâu anh nói với tôi:

Sau khi gặp anh lần rồi, tôi về suy nghĩ hoài không biết đã gặp anh ở đâu, vì trông anh rất quen. Có phải cuối năm 1973 anh đang học lớp 11 ở Petrus Ký và ở Hội Việt Mỹ Sài Gòn không?

Anh luôn gọi tôi bằng anh dù tôi nhỏ hơn anh sáu tuổi và tôi đã từng nhiều lần nhắc anh đừng gọi như vậy. Tôi trả lời anh:

Em học lớp 11 ở Petrus Ký niên khóa 1973–1974. Nhưng ở Hội Việt Mỹ thì em không chắc, vì một lớp ở Hội Việt Mỹ chỉ kéo dài vài tháng nên không thể nhớ được năm nào mình học lớp nào. Nhà em ở Chợ Quán, em thường học ở Hội Việt Mỹ Chợ Lớn hơn là ở Sài Gòn. Nhưng em nhớ có lúc em phải ra Sài Gòn học vì trường ở Chợ Lớn hết lớp. Không nhớ là lúc nào.

Rồi anh kể câu chuyện mà anh gặp đứa học trò nhỏ vào cuối năm 1973 tại Hội Việt Mỹ Sài Gòn như đã kể bên trên. Anh nói anh tin chắc đứa nhỏ đó là tôi. Tôi nói với anh:

Em có cách kiểm chứng, tuy không hoàn toàn chính xác. Em còn giữ Thẻ Học Sinh của cả hai trường Hội Việt Mỹ Chợ Lớn và Sài Gòn. Sau biến cố 1975, Mẹ em vì sợ đã dùng bút đen xóa đi hình hai lá cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Mỹ phía trước. Nhưng em biết ơn vì Bà đã không xé nó đi. Em sẽ về coi lại coi cuối năm 1973 em học ở đâu. Nếu lúc đó em học ở Chợ Lớn thì coi như anh nhớ sai. Nếu lúc đó em học ở Sài Gòn thì … có thể là anh nhớ đúng.

Khi về đến nhà, tìm lại hai phiếu học sinh đó, tôi bàng hoàng khi thấy đúng là cuối năm 1973 tôi đang học lớp 11 ở Hội Việt Mỹ Sài Gòn. Nhưng trong tôi vẫn một thoáng nghi ngờ “biết đâu chỉ là sự trùng hợp?”

Anh và tôi thường nói chuyện tâm đắc với nhau về lịch sử: lịch sử đất nước, lịch sử con người (nhất là về cụ Trương Vĩnh Ký), và lịch sử về ngôi trường chung của chúng tôi. Qua tiếp xúc tôi vô cùng ngạc nhiên về trí nhớ phi thường của anh. Anh có thể nhớ từng chi tiết nhỏ mà anh đã được đọc ở đâu đó, với dẫn chứng rõ ràng. Anh đọc rất nhiều và nhớ rất nhiều. Anh có thể nói vanh vách về một chi tiết nào đó trong nghiên cứu của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh. Anh nghe rất nhiều và nhớ rất nhiều. Anh có thể kể lại rành mạch là đã nghe từ ai đó (có trích dẫn tên) đã nói về một vấn đề gì đó. Chính anh là người cho tôi biết Giáo Sư Lê Thành Ý (trường Albert Sarraut Hà Nội) là thân phụ của Giáo Sư Lê Thành Khôi, một học giả có tiếng tại Pháp quốc. Từ đó tôi càng tin điều anh nói về đứa học trò nhỏ lớp 11 là đúng.

Sau đó chúng tôi gặp nhau mỗi lần anh sang thăm Sydney. Khi sang Sydney, anh ở nhà người cháu họ ở McBurney Street, Cabramatta. Mỗi lần như vậy, anh gọi cho tôi. Vậy là hai anh em lại đi ăn tối chung, uống với nhau một lon bia (vì cả hai đều không uống được nhiều, hay anh thấy tôi không uống được nhiều nên không ép?). Anh thường mang cho tôi bản sao những tài liệu lịch sử mà anh có, và cũng thường nhờ tôi tìm giúp một số tài liệu trong thư viện, vì tôi làm việc ở trường đại học nên dễ dàng sao chép những tài liệu này hơn anh.

Thầy Bùi Vĩnh Lập (trái) và anh Lý Hồng Giang tại Đại hội PKUC 31/10/2015

Anh thường xuyên theo dõi những bài viết của tôi trên trang nhà của Petrus Ký Úc Châu và trang Bauxite Việt Nam nên chúng tôi có nhiều đề tài để trao đổi. Nhiều lần tôi ngạc nhiên hỏi anh tại sao anh có kiến thức rộng như vậy mà không viết ra. Anh cười xòa nói “Tui viết ai mà thèm đọc”. Tánh anh rất bình dân, ăn mặc rất giản dị. Hình như tôi chưa bao giờ thấy anh mang giầy. Luôn luôn là đôi xăng đan, trời lạnh thì thêm đôi vớ.

Tháng 10 năm 2015 anh sang Sydney đúng lúc Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu tổ chức đại hội và vinh danh quý thầy cô. Anh nhắc cho tôi nhớ Thầy Bùi Vĩnh Lập, cựu Hiệu Trưởng, ngoài công lao thành lập Hội còn có công lớn là đã đưa ra sáng kiến làm quyển Kỷ Yếu của trường năm 1973 (niên khóa 1972–1973, lúc Thầy còn làm Hiệu Trưởng, trước khi sang tu nghiệp tại Úc). Nhờ quyển Kỷ Yếu này mà ngày nay chúng ta còn lưu giữ được nhiều hình ảnh của trường cũ, quý thầy cô, và học sinh. Tôi đã mời anh tham dự buổi họp mặt Petrus Ký đó, và tất nhiên là anh vui vẻ nhận lời.

Cũng nhờ buổi họp mặt này, tôi được một sư huynh khác, Luật Sư Lưu Tường Quang, cựu Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Đa Sắc Tộc (SBS: Special Broadcasting Service) của Chính phủ Úc, tiết lộ một chi tiết về anh Lý Hồng Giang. Anh Giang trước đây là cộng tác viên từ Tân Tây Lan của Ban Việt Ngữ đài SBS, với bút danh là Thứ Dân. Ít người làm việc tại SBS (kể cả Luật Sư Lưu Tường Quang lúc còn tại nhiệm) biết anh là cựu học sinh Petrus Ký, và ít cựu học sinh Petrus Ký biết anh từng cộng tác với SBS.

Từ lúc cơn đại dịch COVID19 xảy ra, tôi không gặp lại anh. Nhiều lần nhắc anh sang Sydney chơi, nhưng có lẽ anh thường xuyên về Việt Nam hơn. Tôi còn giữ quyển Kỷ Yếu Triển Lãm và Hội Thảo Trương Vĩnh Ký (xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2019) mà tôi dự định sẽ tặng anh khi gặp lại. Bây giờ không cần nữa.

VĨNH BIỆT ANH!

Trần Thạnh

(PK1968–1975)