Thanh niên Việt Nam bắt đầu du học từ thời đất nước còn bị thực dân Pháp cai trị. Trước khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, số sinh viên Việt Nam du học ở đại học tại Âu châu, Mỹ châu và châu Đại dương tương đối ít nhưng đáng chú ý vì bối cảnh lịch sử và cơ hội đi học ở nước ngoài tương đối hạn chế trong giai đoạn đó.

Dàn bài

A. Lịch sử du học

B. Học bổng quốc gia và sinh viên du học tự túc trong những năm 1964-1969

C. Kế hoạch Colombo và Sinh viên Việt Nam Cộng hoà tại Đại học Montréal (1950–1959)

 “Những lời nói và điều răn không đúng chỗ”
Tóm tắt
Giới thiệu
Kế hoạch Colombo
Cố vấn
Chọn lộ trình của họ
Cuộc nổi dậy của sinh viên Việt Nam
Bước ngoặt của thập niên 1960
Phần kết luận

D. Một vài câu hỏi

Lập trường chính trị của sinh viên du học
Sinh viên Học bổng lãnh đạo AID
Số sinh viên du học thiên cộng, phản chiến

E. Kết quả của chính sách gởi và nhận sinh viên du học


Thanh niên Việt Nam bắt đầu du học từ thời đất nước còn bị thực dân Pháp cai trị. Trước khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, số sinh viên Việt Nam du học ở đại học tại Âu châu, Mỹ châu và châu Đại dương tương đối ít nhưng đáng chú ý vì bối cảnh lịch sử và cơ hội đi học ở nước ngoài tương đối hạn chế trong giai đoạn đó.

Âu Châu (Phần lớn là Pháp)

Pháp là nơi có nhiều sinh viên Việt Nam tại châu Âu do mối quan hệ thuộc địa với Việt Nam. Đến đầu thế kỷ 20, một số sinh viên Việt Nam, thường xuất thân từ các gia đình giầu có hoặc có ảnh hưởng chính trị, đã được gởi sang Pháp để học lên cao hơn. Khuynh hướng này tiếp tục cho đến giữa thế kỷ 20.

Theo cuốn “Leftward Journey: Education of Vietnamese Students in France” (1989) của Scott McConnell, chính quyền thực dân Pháp quan tâm đến việc đào tạo dân thuộc địa vì một số lý do. Đầu tiên, họ cần những người trung gian nói tiếng Pháp, cho họ du học tại Pháp để sau này “giao tiếp” với dân thuộc địa. Thứ hai, họ cần phải lấy lòng giới tinh hoa thuộc địa và cho con cái họ theo học tại những trường học của Pháp hoặc tốt hơn nữa là gởi chúng sang Pháp du học là một phần của chiến lược này. (Những thanh thiếu niên đó có thể trở thành con tin nếu tình hình ở thuộc địa trở nên tồi tệ: cuối thế kỷ 19 ở Phi Châu, những trường học đầu tiên trong thời kỳ thuộc địa được gọi là “trường học của con tin”!) Thứ ba, đó là một minh chứng rõ ràng về “sứ mạng khai hóa” có lợi cho cả thực dân và nước thuộc địa.

Vào cuối thế kỷ 19, một nhóm sinh viên Đông Dương được chọn gởi đi du học ở Pháp; họ thường là con trai của những nhân vật đang hợp tác với Pháp hoặc thuộc giới quyền lực truyền thống. Những sinh viên này, kể cả họa sĩ Lê Văn Miến, Thân Trọng Huề (ông ngoại Trần Lệ Xuân), và nhà nông học Bùi Quang Chiêu, v.v., đã được gởi đến Paris để học tại École coloniale trong những năm 1890.

Tổng đốc thân Pháp Đỗ Hữu Phương đã gởi những con trai của ông đến Paris; người con út, Đỗ Hữu Vị từng học ở Trung học La San Taberd (Sài Gòn), trước khi anh em ông được gởi sang Pháp theo học tại trường Lycée Janson-de-Sailly (Paris, Pháp); sau đó ông vào Học viện Lục quân Saint-Cyr năm 1904 và chiến đấu cho Pháp trong Thế chiến thứ nhất. Trung uý Đỗ Hữu Vị viết, “Tôi vừa là người Pháp vừa là người Anam cùng một lúc. Tôi phải thi hành nhiệm vụ của mình gấp đôi.” (Đỗ Hữu Vị, The Association for the Memory of Đỗ Hữu Vị (AMDHV), p. 13)

Hoàng Trọng Phu từng là sinh viên tại École Alsacienne ở Paris. Năm 1896, Thống chế tương lai Hubert Lyautey đã gặp Phu ở Bắc Kỳ khi ông đang làm thông ngôn cho Vua Thành Thái; Lyautey thuật lại chuyện Phu nói với ông: “bất chấp sở thích, sự đồng cảm và thói quen của tôi, chủng tộc của tôi khiến tôi trở nên người hạ đẳng ở nước của ông; ở đất nước của tôi, tôi cảm thấy mình thậm chí còn là người xa lạ hơn nữa.”

Trong luận án tiến sĩ năm 2013, Nguyễn Thụy Phương dẫn số liệu của Đại sứ Pháp tại Việt Nam, năm 1959, Lalouette cho biết có 4300 sinh viên ở Pháp trong tổng số 4900 hay 87% sinh viên du học nước ngoài (Roger Lalouette, Étudiants et stagiaires vietnamiens en France, N°1270/ACT, Ambassade de France au Vietnam, 4 septembre 1959, p. 2‑3).


Biểu đồ 1 : Số du học sinh Việt Nam ở nước ngoài (Phạm Trọng Chánh, “L’impérialisme culturel des Etats-Unis au Sud-Vietnam et son impact sur la jeunesse sud-vietnamienne 1954-1975”, Education. Université René Descartes – Paris V, 1980, p. 184, source: Annuaires statistiques de l’Unesco

Tác giả luận án cũng đưa hai con số của tờ New York Times: 5000 sinh viên ở Pháp, trong đó có 500 sinh viên mới sang năm 1964 (Max Clos, “5000 Vietnamese students study in Paris”, December 6, 1964) và 3000 sinh viên ở Paris năm 1966 (Gloria Emerson, “Vietnamese Trained in Paris Refuse to Go Home”, March 13, 1966: “có 3.000 sinh viên Việt Nam ở Pháp, và những nỗ lực vận động hầu hết những sinh viên này trở về nước sau khi học xong đã thất bại. Họ không thể bị buộc phải về nước.”)

Bên cạnh những số liệu vừa kể, tác giả luận án cũng đưa ra nhận xét cho rằng số liệu của UNESCO mà Phạm Trọng Chánh đã dùng trong luận án “L’impérialisme culturel des Etats-Unis au Sud-Vietnam et son impact sur la jeunesse sud-vietnamienne 1954-1975” bảo vệ vào tháng 1, năm 1980 đưa ra những con số thấp hơn. (Thụy Phương Nguyen Nguyễn. L’école française au Vietnam de 1945 à 1975 : de la mission civilisatrice à la diplomatie culturelle. Education. Université René Descartes – Paris V, 2013. Français. NNT : 2013PA05H009. tel-00932439, p. 421).

Dữ liệu của UNESCO cho thấy có hơn 2500 sinh viên năm 1964, hơn 1500 sinh viên năm 1966 ở Pháp đều thấp hơn số liệu của tòa Đại sứ Pháp ở Sài Gòn và của tờ New York Times. Một điểm rất khó xẩy ra là trong vòng 2 năm 1964-1966 có khoảng 1000 sinh viên Việt Nam từ Pháp hồi hương trong khi trong thực tế , như Emerson đã viết, “…và những nỗ lực vận động hầu hết những sinh viên này trở về nước sau khi học xong đã thất bại. Họ không thể bị buộc phải về nước.”

Vào tháng 9 năm 1964, chính quyền Nguyễn Khánh cho phép học sinh đã đậu tú tài II du học. Quyết định này ngay lập tức dẫn đến một làn sóng di cư ồ ạt mà bản tin của AP đăng trên tờ New York Times ngày 3 tháng 10, 1964 mô tả là “cuộc di cư lớn nhất của thanh niên miền Nam Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp sụp đổ năm 1954 đang diễn ra.” Trong những tuần cuối tháng 9, đầu tháng 10, tuy không có số liệu chính thức, nhưng ít nhất 400 sinh viên đã rời Sài Gòn đi nước ngoài, đa số sang Pháp (AP, “Youths Leaving South Vietnam; Exodus to Europe Is Biggest Since Freedom Was Won”, The New York Times, October, 3, 1964). Năm 1964, không dưới 4.000 thanh niên Việt Nam xin sang Pháp du học và 800 người đã được Pháp chấp nhận (Pierre Journoud, “Les relations franco-américaines à l’épreuve du Vietnam entre 1954 et 1975, de la défiance dans la guerre à la coopération pour la paix”, Thèse d’histoire, Université Paris I Panthéon Sorbonne, 2007, p. 350). Những sinh viên này tiếp tục khiến chính phủ VNCH lo lắng và luôn muốn thuyết phục sinh viên ở Paris hồi hương, và từ bỏ ý định đóng cửa Lãnh sự quán Pháp ở Sài Gòn để tránh việc lãnh sự quán Việt Nam Cộng hòa ở Paris bị đóng cửa và có nguy cơ đẩy sinh viên vào hàng ngũ cộng sản. (Pierre Journoud, tài liệu đã dẫn, trang 58). [Thụy Phương Nguyen Nguyễn, tài liệu đã dẫn, trang 424-425]. Số sinh viên Việt Nam tại Pháp tăng lên vào những năm 1950 và 1960, đặc biệt là những người theo học luật, y khoa, kỹ thuật và nhân văn. Nhiều sinh viên trong số này cũng hoạt động chính trị, tham gia vào những phong trào chống thực dân và phản chiến.

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa – Bộ Giáo dục: CHƯƠNG V – GIÁO-DỤC VÀ VĂN-HÓA / CHAPTER V – EDUCATION AND CULTURE, tháng 7, 1970

Theo tài liệu song ngữ “CHƯƠNG V – GIÁO-DỤC VÀ VĂN-HÓA / CHAPTER V – EDUCATION AND CULTURE” của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, tháng 12, 1970, trang 109-150 hay “Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970”, trong khoảng 1964 đến 1969, chính phủ VNCH đã cấp 89 học bổng quốc gia cho sinh viên du học tại Pháp.

Á châu

Mặt khác, Cụ Phan Bội Châu đã lãnh đạo phong trào thanh niên Việt Nam sang Nhật du học trong những năm đầu thế kỷ XX. Có khoảng hơn 200 thanh niên Việt Nam đã đã đông du trong những năm 1905-1908 để học tập, không phải về phục vụ cho chính quyền thực dân mà để đồng thời hoạt động cách mạng chống lại sự đô hộ của Pháp. (Nguyen V.K., “External support for internal issue: Phan Boi Chau and the Vietnamese “Dong Du” movement in the early 20th century”, Russian Journal of Vietnamese Studies, Issue: Vol 2, No 4 (2018), Pages: 54-65).

Chính phủ VNCH đã gửi sinh viên du học với học bổng quốc gia tại một số quốc gia ở Á châu như Ấn Độ, Mã Lai, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan và Tân Tây Lan thuộc Châu Đại Dương trong những năm từ 1964-1969 (“Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970”)

Mỹ châu (Mỹ và Canada)

Mỹ: Số sinh viên Việt Nam ở Mỹ tăng từ 200 vào những năm 1950 lên khoảng 3.000 người vào những năm 1960 (Danathan Nguyen, Reports, Recollection, and Refugees: The Early Vietnamese American Experience through Periodicals and Oral Histories, Master of Art in History Thesis, University of California, Irvine, 2020, p. 2-3) sau khi viện trợ của Mỹ giúp thành lập Chương trình Giáo dục Việt Nam. Chương trình này nhằm mục đích đào tạo chuyên gia Việt Nam để yểm trợ những dự án phát triển của Việt Nam Cộng hoà. Sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ, phần lớn được học bổng của tư nhân hoặc du học tự túc hay học bổng quốc gia hoặc của chính phủ Mỹ như Học bổng Leadership của USAID trong những năm 1967-1970 đã đưa vài trăm sinh viên Việt Nam sang du học tại những đại học ở Mỹ. “Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970” cho biết Bộ giáo dục và những Bộ khác cấp học bổng quốc gia cho 334 sinh viên và 95 công chức cùng lúc cho phép 127 sinh viên du học tự túc ở Mỹ trong khoảng 1964 đến 1969.

Chương trình Học bổng Lãnh đạo (“Leadership Scholarship Program”) của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) chính thức bắt đầu vào năm 1967 và tiếp tục cho đến năm 1970, tiếp nối những dự án trao đổi giáo dục trước đó giữa Mỹ và Việt Nam Cộng hoà. Đến năm 1967, Mỹ đã đào tạo hơn 3.703 sinh viên Việt nam du học với chi phí ước tính khoảng 18 triệu USD kể từ năm 1957. Đến năm 1968, khoảng 2.000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại Mỹ. Đưa hơn bốn nhóm sinh viên nhận Học bổng Lãnh đạo (USAID) đến học tại những đại học ở California đã ký hợp đồng, USAID trả tiền vé máy bay, học phí và những chi phí khác cho sinh viên lên tới 6.000 USD một năm. (Ly Thúy Nguyễn, “Thái Bình Means Peace”: (Re)positioning South Vietnamese Exchange Students’ Activism in the Asian American Movement, Augsburg University, USA, International Journal of Communication 16(2022), 4602–4618.)

Canada: Số sinh viên Việt Nam du học Canada từ những năm 1950 đến khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975) tương đối ít hơn nhiều vì Canada có quan hệ ngoại giao hạn chế với Việt Nam trong thời chiến vì Canada là một nước trung lập trong cuộc xung đột

Từ thập niên 1950 – đến đầu thập niên 1960, sinh viên Việt Nam tại Canada là con số rất nhỏ. Việt Nam vẫn nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp (cho đến năm 1954) và sau đó bị chia đôi thành Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) và Việt Nam Cộng hoà (VNCH). Đến cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, Canada bắt đầu mở cửa cho sinh viên ngoại quốc theo chính sách nhập cư và giáo dục cởi mở hơn trước. Kế hoạch Colombo là một phần của chính sách này. Tuy nhiên, số sinh viên Việt Nam nhận học bổng Colombo tại đây cho đến khi chương trình này chấm dứt vào năm 1967 có thể chỉ khoảng dưới 300 người, đa số tập trung ở tỉnh bang Quebec nói tiếng Pháp. Kế hoạch Colombo chọn sinh viên Nam đại đa số đến Quebec vì họ coi Việt Nam là một nước thuộc địa cũ của Pháp nằm trong Cộng đồng Pháp ngữ. Học bổng Colombo của Canada dành cho sinh viên Việt Nam đã chấm dứt vào khoảng năm 1967. Một số lý do chính cho việc chấm dứt là do Chiến tranh Việt Nam leo thang và chi phí gia tăng. Khi chiến tranh Việt Nam leo thang, ngân sách viện trợ nước ngoài của Canada bị căng thẳng, dẫn đến sự chuyển hướng tập trung sang những nỗ lực viện trợ trực tiếp và ngay lập tức nhằm ứng phó với ảnh hưởng nhân đạo trong chiến tranh.

Mặt khác, một phát ngôn viên của chính phủ Canada cho biết có khoảng 150 cựu sinh viên đại học đang trốn quân dịch và về một số tương đương sinh viên hiện đang theo học, khi tốt nghiệp có thể quyết định sẽ không trở lại quê nhà. Cho đến nay, Canada đã khá khoan nhượng với những người này, cũng như đã đối xử tương tự với với người Mỹ trốn quân dịch. Tuy nhiên, người phát ngôn của chính phủ Canada nói,

“Tỉ lệ của sinh viên miền Nam Việt Nam không muốn về nước đã tăng nhanh, điều đó làm cho chúng tôi cắt giảm chương trình học bổng dành cho sinh viên miền Nam Việt Nam.”

(John G. Rogers, Canada – New Santuary for the South Vietnamse, PARADE, Washington Post và Independent Press-Telegram (Long Beach, California) ngày 14 tháng 6, năm 1970).

Ngày 24 tháng 6-1965, Ngoại trưởng VNCH Trần Văn Đỗ đọc Quyết định đoạn giao với Pháp. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Cộng hòa tạm thời gián đoạn vì Pháp chỉ trích sự tham gia của quân đội Mỹ ở Việt Nam và việc Pháp công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời (PRG) của Nam Việt Nam, đại diện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng do cộng sản lãnh đạo. Pháp và Việt Nam Cộng hòa chính thức tái lập quan hệ ngoại giao vào năm 1968. Do đó sinh viên Việt Nam muốn du học tại những đại học nói tiến Pháp trong những năm 1965-1968 thường chọn Bỉ, Thuỵ Sĩ, Canada (Quebec).

Tuy nhiên, số sinh viên du học Canada chỉ tăng từ khoảng 250 (1965) đến 300 (1966) và giảm xuống 250 (1967). Đến khi quan hệ ngoại giao VNCH-Pháp tái lập (1968) thì số sinh viên VN du học Canada tăng dần đều, lên đến khoảng 750 người vào năm 1973. (Phạm Trọng Chánh, biểu đồ trong tài liệu đã dẫn, trang 184.) Tuy nhiên theo “Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970” thì trong khoảng 1964 đến 1969, chính phủ VNCH chỉ cấp 25 học bổng quốc gia và cấp phép cho 16 sinh viên du học tự túc tại đây.

Châu Đại dương (Úc)

Dù là đồng minh thân cận với Việt Nam nhưng Úc châu trở thành nơi sinh viên Việt Nam du học trễ hơn Pháp hoặc Mỹ, vì mối quan hệ giáo dục với Việt Nam chưa được thiết lập chặt chẽ ở giữa thế kỷ 20.

Từ cuối thập niên 1950 cho đến 1974, có hàng trăm sinh viên Việt Nam tại Úc, phần lớn là sinh viên nhận học bổng của chính phủ Úc theo Kế hoạch Colombo. Theo tài liệu thu thập từ cựu sinh viên học bổng Colombo Úc châu (năm 2015), số sinh viên Việt Nam du học trong 18 năm đó là khoảng 500 người. (Đàm Trung Phán, “Du học sinh Colombo”, 6 February 2012.) Ngoài ra khoảng gần 80 sinh viên và công chức có học bổng quốc gia cũng du học tại đây trong những năm 1964-1969 (Tài liệu VNCH 12-1970 đã dẫn)

Sau đây là một số dữ liệu trích từ tài liệu song ngữ “CHƯƠNG V – GIÁO-DỤC VÀ VĂN-HÓA / CHAPTER V – EDUCATION AND CULTURE” của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, tháng 12, 1970, trang 109-150 hay “Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970” cho thấy ngân sách quốc gia dành cho Bộ Giáo dục cấp học bổng cho sinh viên, công chức và số sinh viên được cấp phép du học tự túc từ 1964 đến 1969.

Quốc gia1963-641964-651965-661966-671967-681968-69Tổng cộng
Anh3600004100061000610000199000
Bỉ001650003640004250001700001124000
Tây Đức36000180003720001031000212300019860005566000
Gia Nã Đại144000360003720005460008490008500002797000
Mỹ360005400037200066700060600014440003179000
Nhật54000360000610002420009350001328000
Pháp2430000243000047830007035000630800051000023496000
Thụy Sĩ002060004240005460005950001771000
Ý36000360000121000121000170000484000
Úc00000340000340000
Tổng cộng2772000261000063110001031000011281000700000040284000

Bảng 1 : Học bổng Quốc gia (VN $) do Bộ Giáo-Dục cấp cho sinh viên Việt Nam, trong 6 niên khóa, từ 1963-1964 đến 1968-1969 (Bảng 110, trang 118, không kể trợ cấp du học và học bổng trong nước, Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970)

Học bổng quốc gia cấp cho sinh viên du học tại Pháp cao nhất, 58.33%, kế đó là Tây Đức, 13.82%, Mỹ, 7.89% và Canada, 6.94% ngân sách học bổng của Bộ Giáo dục.

 Sinh viên có học bổngSinh viên tự túcCông chức có học bổng
Quốc giaNamNữTổng sốNamNữTổng sốNamNữTổng số
Bỉ831110041141000
Tây Đức00026638304000
Gia Nã Đại1151618725000
Mỹ31915334784912787895
Nhật258331182914710212
Pháp81889000000
Thụy Sĩ8614425193000
Úc32275900015419
Tổng số4847255625613683711214126

Bảng 2: Số ứng viên xuất ngoại có học bổng quốc gia, sinh viên tự túc, và công chức có học bổng quốc gia theo loại, tính và quốc gia theo học, 1964-1969 (Bảng 112, trang 120, Tài liệu Bộ Giáo DụcVNCH 12-1970)

Quốc giaSV học bổngSV tự túcCông chứcTổng số SV
Mỹ33412795461
Tây Đức03040304
Nhật3314712180
Bỉ111410152
Thụy Sĩ14930107
Pháp890089
Úc5901959
Gia Nã Đại1625041
Tổng số5568371261393

Bảng 3: Số ứng viên xuất ngoại có học bổng quốc gia, sinh viên tự túc, và công chức có học bổng quốc gia theo loại, tính và quốc gia theo học, 1964-1969 (Tổng hợp Bảng 111 và 112, trang 119 và 120, Tài liệu Bộ Giáo DụcVNCH 12-1970)

Biểu đồ 2: Ứng viên xuất ngoại du học 1964-1989

Không kể một số du học sinh ở những quốc gia Á châu khác như Ấn Độ, Đại Hàn Dân Quốc, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Trung Hoa Dân Quốc, và Tân Tây Lan thuộc Châu Đại Dương hay Hòa Lan và Ý ở Âu châu, trong 6 năm, 1964-1969, chính phủ VNCH đã cấp học bổng quốc gia cho 556 sinh viên và 126 công chức đi du học đồng thời cấp phép cho 837 sinh viên du học tự túc, tổng cộng 1393 sinh viên và 126 công chức.

Trong 6 năm đó con số ứng viên du học có học bổng quốc gia lớn nhất là 334 sinh viên và 95 công chức tại Mỹ, sau đó là 89 sinh viên du học Pháp, 59 người ở Úc, 33 người ở Nhật, 16 người ở Canada, 14 người ở Thụy Sĩ, và 11 người ở Bỉ. Không có sinh viên học bổng quốc gia tại Tây Đức trong giai đoạn này.

Số sinh viên du học tự túc trong khoảng 1964-1969 cao nhất là 304 người đi học ở Tây Đức, 147 người đi Nhật, 141 người sang Bỉ, 127 người ở Mỹ, 93 ở Thụy Sĩ, 25 người ở Canada, tại Pháp và Úc không có sinh viên du học tự túc trong những năm 1964-1969.

Thư Hiệu trưởng giới thiệu học sinh xin giấy nhập học để du học tự túc

Những yếu tố ảnh hưởng đến số sinh viên Việt Nam du học trên thế giới

• Mối quan hệ thuộc địa và địa chính trị: Pháp thu hút sinh viên do lịch sử thuộc địa, trong khi Mỹ nổi bật vì là đồng minh tham chiến ở Việt Nam trong thời Chiến tranh Lạnh.

• Rào cản kinh tế: Chỉ có sinh viên hội đủ điều kiện về học vấn, tuổi (cho nam sinh viên) và tài chánh, có học bổng mới có thể đi du học.

• Tình hình chính trị: Một số sinh viên du học tham gia vào những hoạt động phản chiến và chống chính phủ, đã góp phần hạn chế cơ hội cho những học sinh khác đi du học.

• Tình trạng chiến tranh: Ngân sách ngoại tệ của quốc gia eo hẹp và ưu tiên cho chi dụng quốc phòng. Những điều kiện để du học ngày càng gay gắt hơn nhiều trong những năm cuối của chiến tranh, sau mùa hè đỏ lửa 1972.

Tóm lại, trước năm 1975, có thể có hàng ngàn sinh viên Việt Nam ở Pháp, 3.000 ở Mỹ, trên dưới 1000 ở Canada và khoảng 500 người ở Úc. Những con số này phản ảnh cả nguyện vọng giáo dục của giới tinh hoa Việt Nam và động lực địa chính trị của giai đoạn đó.

Tuy nhiên, dù có học bổng hay du học tự túc, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài đều phải đối phó với một số thử thách và áp lực rõ ràng trong thời gian đi học xa nhà:

1. Rào cản ngôn ngữ: Nhiều sinh viên gặp khó khăn khi phải dùng tiếng Pháp và tiếng Anh, khiến họ khó có thể hiểu rõ bài giảng ở trường và/hay ở phòng thí nghiệm cũng như giao tiếp một cách hiệu quả.

2. Điều chỉnh văn hóa: Phải thích ứng với văn hóa nước ngoài tạo ra những thách thức, kể cả những khác biệt về chuẩn mực xã hội, phong tục và cuộc sống hàng ngày.

3. Cô lập và cô đơn: Xa nhà và ở môi trường mới dẫn đến cảm giác bị cô lập vì họ thường thiếu hệ thống hỗ trợ (gia đình, bàn bè, làng xóm).

4. Sự khác biệt trong hệ thống giáo dục: Những đòi hỏi của trường lớp và phương pháp giảng dậy ở ngoại quốc khác với những gì họ quen thuộc, tạo thêm những trở ngại trong tiến trình học tập.

5. Áp lực tài chính: Một số sinh viên gặp khó khăn về tài chính, điều này gây thêm căng thẳng cho việc học tập và cuộc sống hàng ngày của họ.

Dù với học bổng Colombo, học bổng AID, học bổng quốc gia hay tự túc, những thách thức này đều gây ảnh hưởng đáng kể đến việc học và sự phát triển cá nhân của sinh viên du học trong thời gian ở nước ngoài. Riêng thách thức số 5 đặc biệt là một áp lực lớn cho đa số sinh viên du học tự túc, vì ngoại tệ quốc gia giới hạn nhất là ở giai đoạn chiến tranh ở Việt Nam leo thang, ảnh hưởng lớn đến việc học và đời sống của họ trong lúc đi học xa nhà.


Sau đây người viết xin giới thiệu luận văn tựa đề “Des mots et des commandements déplacé” và tiểu tựa là La prise en charge des étudiants vietnamiens du Plan Colombo à l’Université de Montréal (1950–1959) của Daniel Poitras. Nghiên cứu này tìm hiểu về những kinh nghiệm của sinh viên Việt Nam nhận học bổng của Kế hoạch Colombo tại Đại học Montréal từ năm 1950 đến năm 1959. Kế hoạch Colombo là một sáng kiến ​​nhằm khuyến khích phát triển kinh tế và xã hội ở Á Châu, và Kế hoạc này cấp học bổng cho sinh viên của những nước thành viên.

DOI: https://doi.org/10.32316/hse-rhe.2023.5179. Published December 21, 2023

Luận văn của Poitras tập trung vào cách sinh viên Việt Nam dò dẫm tìm hiểu môi trường mới ở Canada, nhấn mạnh đến cả những thách thức mà họ phải đối phó cũng như những hậu thuẫn mà họ nhận được. Nó đi sâu vào những điều chỉnh về mặt văn hóa, rào cản ngôn ngữ và hệ thống giáo dục mới và lạ mà sinh viên du học gặp phải. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm sinh viên Việt Nam trong việc định hình bản sắc và tương lai của họ, cũng như những ảnh hưởng rộng hơn đối với việc giáo dục và hợp tác quốc tế trong thời kỳ thay đổi địa chính trị trên thế giới.

Tóm lại, biên khảo này rọi sáng điểm giao thoa giữa giáo dục, văn hóa và di cư, minh họa ảnh hưởng của Kế hoạch Colombo đến cuộc sống của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh giáo dục nước ngoài như thế nào.

Đáng để ý là việc tác giả đề cập đến một sự việc xẩy ra vào năm 1959, sự bất đồng giữa giới hữu trách quản lý Kế hoạch Colombo và 11 sinh viên Việt Nam, tuyệt đại đa số là sinh viên trường Kỹ sư Polytechnique. Poitras đặc biệt nêu rõ trường hợp của hai sinh viên Alice Hồ Văn Hạp (khoa Canh Nông) và sinh viên Quản Tú Anh (ban Kỹ sư Điện, trường Polytechnique). [Nguyễn Phát Quang, tài liệu đã dẫn, trang 14.]

Sở dĩ có sự bất đồng này do giới hữu trách của Đại học Montreal và Kế hoạch Colombo áp dụng khái niệm gia trưởng (in loco parentis) với sinh viên Việt Nam một cách tuỳ tiện vì hai lẽ. Một là định kiến Đông phương của xã hội Quebec thời đó; hai là thành kiến về sắc tộc của người da trắng, nhìn thanh niên thiếu nữ người Á Đông, cứ tưởng họ là trẻ con.

Nguyên tắc in loco parentis, quyền của giáo chức và ban giám đốc khiển trách học sinh (dưới tuổi vị thành niên) vi phạm kỷ luật, từ lâu đã được coi là sự uỷ quyền của phụ huynh. Nguyên tắc in loco parentis được công nhận trong cả Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự của Quebec [Roger Magnuson, McGill University, “Pupil Care, Pupil Control and the Quebec Teacher”, McGill Journal of Education, Vol. 23 No. 3 (Fall 19~8) , p.259.] Tuy nhiên, mười một sinh viên Việt Nam học ở đại học Montreal năm 1959 là những thanh niên nam nữ ưu tú đã ở tuổi trưởng thành, trên đường học tập để về xây dựng và phát triển quê hương.

Sau đây là phần lược dịch luận văn “Des mots et des commandements déplacé”. La prise en charge des étudiants vietnamiens du Plan Colombo à l’Université de Montréal (1950–1959) của Daniel Poitras.
https://doi.org/10.32316/hse–rhe.2023.5179, Historical Studies in Education / Revue d’histoire de l’éducation 35, 2, Fall / automne 2023

“Những lời nói và điều răn không đúng chỗ”

Tóm tắt

Trong thời gian dài sau Thế chiến thứ hai, Canada tham gia nhiều hơn vào chương trình viện trợ quốc tế, xuyên qua Kế hoạch Colombo, khuyến khích sinh viên nước ngoài du học tại những trường đại học Tây phương. Phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt tước đi phần lớn quyền tự do của họ, những sinh viên này vừa trở thành công cụ vừa là tác nhân tương lai cho sự phát triển quê hương vừa là tài nguyên để giới thiệu Canada trên trường quốc tế. Xem qua trường hợp của những sinh viên Việt Nam tại Đại học Montréal vào những năm 1950, người ta thấy rằng rằng sự xuất hiện của họ đã cập nhật và đôi khi trầm trọng hoá định kiến của giới Đông ​​phương học trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, nơi nền giáo dục tại những quốc gia và sinh viên từ Nam Bán cầu có vẻ rất quan trọng trong cuộc chiến chống cộng sản. Là một phần của cam kết này, những trường đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những mục tiêu của Kế hoạch Colombo bằng cách dựa vào những mối quan hệ quyền lực gia trưởng đang thịnh hành trong khuôn viên đại học vào thời điểm đó. Tuy nhiên, thay vì thụ động, những sinh viên này đã khéo léo ứng xử với giới hữu trách và tạo ra không gian đoàn kết, bất chấp những rủi ro đối với việc học của họ, cho phép họ thách thức độ cứng nhắc của những khuôn khổ hành chính và ý thức hệ mà họ phải tuân theo. Bằng cách riêng, họ đã định hình trước phong trào phản kháng của giới trẻ và phong trào giải phóng thuộc địa trong những năm 1960.

Giới thiệu

Năm 1959, 11 sinh viên Việt Nam tại Đại học Montréal (UdeM) đã công khai thách thức những viên chức chính phủ Canada chịu trách nhiệm quản lý Kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội hợp tác của những nước Á châu và Thái Bình Dương (Kế hoạch Colombo), đưa ra gần mười năm trước đó với mục đích hỗ trợ sự phát triển của những nước Đông Nam Á, đặc biệt bằng việc gửi sinh viên đến những trường đại học Tây phương. Mười một sinh viên Việt Nam phản đối việc lạm dụng quyền lực và phân biệt chủng tộc mà họ là nạn nhân và từ chối tuân theo những hướng dẫn áp đặt cho họ một cách mù quáng. Chưa từng có tiền lệ, sự phản đối của họ có thể dẫn đến việc mất học bổng và phải hồi hương ngay lập tức. Việc gì đã khiến họ có hành động đáng ngạc nhiên này đối với sinh viên nước ngoài, những người thường kín đáo trong khuôn viên đại học? Để giải thích lý do cho cuộc nổi dậy của họ, tác giả đã nghiệm xét những cấu trúc, cách thực hiện và những mối quan hệ của sự khác biệt hệ quả của chương trình học bổng Kế hoạch Colombo tại Đại học Montreal, đồng thời tính đến những vấn đề địa chính trị trong đó có cả viện trợ quốc tế của Canada trong thời gian đó[1].

Từ đầu những năm 1950, sự xuất hiện của một số lớn sinh viên nước ngoài có học bổng theo học ở Canada đã tạo thành một thách thức đối với những cơ quan liên đới — những người thuộc Kế hoạch Colombo, chính phủ Canada và những trường đại học — họ phải ứng biến cơ cấu và quy tắc để quản lý sinh viên mới đến.

Trong nghiên cứu của mình về những nữ sinh viên được nhận học bổng y tế, Jill Campbell–Miller kết luận rằng Kế hoạch Colombo đã thấm nhuần tinh thần trách nhiệm—thậm chí là một sứ mạng—ở những trường đại học Canada đối với những quốc gia thụ hưởng xuyên qua Kế hoạch này, đồng thời bộc lộ “những thách thức và căng thẳng vốn có trong việc thực hiện sứ mạng này trong bối cảnh có sự khác biệt giữa mục tiêu của những viên chức chính phủ Canada và mục tiêu của chính những sinh viên”[2]. Để giám sát những sinh viên này, những người có trách nhiệm trong Kế hoạch Colombo áp dụng một cách hiệu quả một loạt biện pháp và hạn chế cho thấy mong muốn của Canada, cùng với Anh và Mỹ, trở thành một đối tác đáng tin cậy để hỗ trợ những chương trình viện trợ quốc tế và ngăn chặn tiến độ của chủ nghĩa cộng sản. Để làm được điều này, Canada hy vọng sẽ thấm nhuần cái gọi là phương pháp làm việc “Tây phương” vào những sinh viên nhận học bổng nhằm đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa những nước Á châu.

Sự khắc sâu này có một hình thức cụ thể ở Quebec, do vai trò của tỉnh bang trong Cộng đồng Pháp ngữ trên thế giới, đặc biệt là sau Chiến tranh Đông Dương (1946–1954), làm giảm ảnh hưởng của Pháp trong khu vực và tăng số sinh viên từ khu vực này ở Quebec, đặc biệt là tại Université de Montréal và Université Laval, coi đây là cơ hội để tăng cường ảnh hưởng của họ[3]. Sự xuất hiện của sinh viên từ Việt Nam, Campuchia và Lào được tạo điều kiện thuận lợi nhờ mạng lưới truyền giáo người Canada gốc Pháp đã thiết lập vững chắc ở Á châu[4], cũng như những sáng kiến ​​ngoại giao văn hóa do chính phủ Canada[5] dẫn đầu, nhằm tăng cường quan hệ và trao đổi với những quốc gia thụ hưởng trong Kế hoạch Colombo. Sự lựa chọn của UdeM[6] ở một mức độ nào đó sẽ dẫn đến kết luận mà chúng ta sẽ thấy: tất nhiên nó ảnh hưởng đến quốc tịch của những người mới đến và tạo ra những định kiến ​​​​chủng tộc nhất định, nhưng sai lầm nếu nói rằng sinh viên nhận học bổng bị phân biệt đối xử ở Quebec và những tỉnh bang khác của Canada. Trong cả hai trường hợp, và mặc dù coi Quebec là một tỉnh bang kém phát triển và là nạn nhân của một di sản thuộc địa không thuận lợi, Canada mong muốn truyền đạt cho những sinh viên được học bổng cái gọi là những giá trị “Tây phương”, đồng thời tạo ra ở Quebec một không gian văn hóa địa phương cho những sinh viên đó—vào thời điểm đó, chúng ta nói về nền văn minh Canada tiếng Pháp[7].

Nhưng việc gì sẽ xẩy ra khi mục tiêu của những sinh viên không còn phù hợp với mục tiêu của giới hữu trách quản lý Kế hoạch Colombo, hoặc khi chính những sinh viên này thách thức những ràng buộc — và đôi khi là bạo lực mang tính biểu tượng — mà họ phải gánh chịu? Để trả lời câu hỏi này, việc lựa chọn một môi trường đại học cụ thể – thay vì phân tích vấn đề những sinh viên nhận học bổng nói chung – giúp xác định chính xác hơn những chủ thể nào tham gia vào việc thực hiện Kế hoạch nhằm liên kết lịch sử địa phương (trường đại học) với khuôn khổ địa chính trị nổi lên trong Chiến tranh Lạnh[8]. Cách phân tích này cũng cho phép chúng ta hiểu được sự phát triển của những mối quan hệ giữa những khác biệt [nằm ngoài truyền thống hoặc quy ước] qua lăng kính lịch sử xuyên quốc gia.

Tại Đại học Montréal, cũng như ở một số môi trường đại học ở Canada, nguyên tắc “thay mặt cho bậc cha mẹ” (in loco parentis), cho phép những quản trị viên và giáo sư tự thể hiện quyền gia trưởng đối với sinh viên, là trọng tâm của việc giám sát sinh viên nước ngoài. Cách ứng xử này được củng cố bằng những thành kiến ​​về chủng tộc có khuynh hướng trẻ hóa họ gấp đôi. Bất chấp sự tái cấu trúc những mối quan hệ quốc tế trong thời kỳ hậu chiến kéo dài, những mối quan hệ quyền lực giữa Canada và những quốc gia mới độc lập — và giữa chính quyền Canada hoặc trường đại học và sinh viên từ những quốc gia này — vẫn không bình đẳng, cho thấy thái độ trái chiều đối với miền Nam toàn cầu và sinh viên nước ngoài đến từ khu vực đó. Người viết lập luận rằng cuộc nổi loạn của 11 sinh viên Việt Nam đã bộc lộ mối liên hệ giữa định kiến ​​Đông phương ở Canada và ý thức hệ quản lý viện trợ phát triển quốc tế được thể hiện trong Kế hoạch Colombo. Chính xác hơn, người viết chứng minh rằng Kế hoạch Colombo đã cập nhật và củng cố những định kiến ​​này trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, nơi nền giáo dục “Tây phương” của những nước cấp học bổng và sinh viên Á châu tỏ ra rất quan trọng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản và trong việc thể hiện khả năng của Canada để lại dấu ấn về những sinh viên này.

Nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ thấy rằng những phản ứng do sinh viên nước ngoài gây ra, chắc chắn là do tình trạng không rõ ràng của họ, đã lọt ra ngoài tầm ngắm của giới sử học Canada và Quebec[9], cho phép chúng ta làm sáng tỏ những mặt khác của lịch sử: lịch sử giáo dục trong môi trường đại học, với việc sinh viên nước ngoài thúc đẩy giới quản lý điều chỉnh một số chương trình giảng dậy nhất định và tiết lộ những nhận thức mà họ đã có ​​về giáo dục ở những nơi khác trên thế giới; lịch sử di cư, với sinh viên nước ngoài tạo thành một phạm trù trôi nổi đẩy lùi những giới hạn của thời gian lưu tạm trú tạm thời[10]; lịch sử quốc tế, với việc sinh viên nước ngoài là đại sứ không chính thức tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ và trao đổi giữa những quốc gia[11]; cũng như lịch sử của những cuộc gặp gỡ văn hóa và phân biệt chủng tộc, với việc sinh viên nước ngoài đã biến những trường học thành nơi có tính liên văn hóa cao, trước khi có sự xuất hiện của những nhóm lớn người di cư từ ngoài châu Âu đến trong những năm 1970.

Người viết phần chính dùng kho lưu trữ của đại học Université de Montréal (thống kê, thư từ, biên bản, báo chí), và đặc biệt là những lá thư trao đổi giữa đại học và chính phủ, cho thấy rõ mối quan hệ quyền lực diễn ra xung quanh sinh viên nước ngoài. Đầu tiên, người viết sẽ trình bày Kế hoạch Colombo trước khi xác định những cơ chế giám sát sinh viên nhận học bổng du học tại Canada và tại Université de Montréal. Mặc dù bị giám sát, sinh viên học bổng vẫn được hưởng sự hỗ trợ của những cố vấn; sau đó người viết sẽ phác thảo và trình bầy hồ sơ của họ trong hai trường hợp: trường hợp một sinh viên nhận học bổng bất chấp chính phủ Việt Nam để thay đổi học trình của mình và trường hợp cuộc nổi loạn của mười một sinh viên Việt Nam mà người viết đã đề cập. Cuối cùng, người viết sẽ khai triển năm hướng giải thích cho cuộc nổi loạn này bằng cách xác định và tham chiếu chéo những chuyển đổi diễn ra trong môi trường đại học, trong chính sách nhập cư của Canada, trong tính xã hội liên văn hóa đang nổi lên trong nhữnh khuôn viên đại học và trong lãnh vực địa chính trị vào đầu những năm 1960.

Kế hoạch Colombo

Vào đầu những năm 1950, Léon Lortie, giám đốc dịch vụ khuyến nông giáo dục hoàn toàn mới tại Đại học Montréal, nhận được lời mời của Ủy ban Dịch vụ Dân sự Canada, muốn bổ nhiệm ông làm thành viên ủy ban cố vấn chịu trách nhiệm tuyển chọn những ứng viên đến và đi học tại Canada như một phần của Kế hoạch Colombo. Ra mắt vào năm 1950 tại Tích Lan (tên Anh ngữ lúc đó là Ceylon, nay là Sri Lanka) tại một hội nghị gồm có Ấn Độ, Pakistan, Ceylon, Úc, New Zealand, Anh và Canada – những quốc gia khác không lâu sau sẽ tham gia nhóm này, kể cả những quốc gia Đông Dương—, Kế hoạch Colombo nhằm mục đích giúp đỡ sự phát triển của những quốc gia thụ hưởng. Canada đầu tư vào hai chương trình. Một là hỗ trợ vốn để tạo thuận lợi cho việc mua hàng hóa và dịch vụ của Canada, ví dụ như lúa mì và đầu máy xe lửa, để vận chuyển chúng ra nước ngoài; hai là hợp tác kỹ thuật, khiêm tốn hơn (không vượt quá 5% ngân sách), liên quan đến việc du học của sinh viên và nghiên cứu sinh. Chương trình thứ hai là vấn đề người viết quan tâm. Trong số những tổ chức khác cấp học bổng cho sinh viên nước ngoài, có cả UNESCO và Học bổng Khối thịnh vượng chung, nhưng Kế hoạch Colombo quan trọng nhất về cả mặt biểu tượng và số lượng. Từ năm 1951 đến năm 1969, 6.801 sinh viên nhận học bổng Colombo – còn gọi là thực tập sinh – đã được Canada tiếp nhận, trong khi 791 chuyên gia Canada đã được cử ra nước ngoài[12]. Không giống như những tổ chức khác, Kế hoạch Colombo đặc biệt nhắm tới mục tiêu đào tạo chuyên môn và kỹ thuật. Trên thực tế, y tế, kỹ thuật, nông nghiệp và giáo dục chiếm ưu thế trong nhu cầu đào tạo chuyên viên do những quốc gia hưởng lợi đặt ra, từ đó ảnh hưởng đến những kỳ vọng – và những hạn chế mà – sinh viên nhận học bổng phải chấp thuận.

Kế hoạch này là một phần của phong trào viện trợ quốc tế, theo sau Chiến tranh thế giới thứ hai và theo tinh thần tái thiết thời đó, đã dựa vào một số động lực để phát triển, gồm việc đưa ra những chính sách nội bộ theo học thuyết kinh tế của Keynes (Lý thuyết tổng quát của John Maynard Keynes) trên phạm vi quốc tế, cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản – chủ nghĩa vừa mới chiếm Hoa lục vào năm 1949 – và một số kinh nghiệm nhất định về thời gian mang lại sự tin tưởng vào khả năng của những người đương thời trong việc làm chủ hiện tại và tương lai với tầm nhìn hướng đến thế giới tốt đẹp nhất có thể có được – những hy vọng đặt vào những kế hoạch trong những năm 1950 và 1960 là đặc điểm của kinh nghiệm này[13]. Như David Webster đã viết, “hỗ trợ kỹ thuật nổi lên theo làn sóng lạc quan sau chiến tranh rằng “bí quyết” của Tây phương […] có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.”[14] Chính quyền của những quốc gia “tài trợ” cho Kế hoạch, chẳng hạn như Canada, tất nhiên hy vọng chứng minh được tính ưu việt của những nền dân chủ tự do so với chế độ cộng sản. Sinh viên nước ngoài, được coi là tầng lớp tinh hoa trong tương lai của xã hội, là trung tâm của dự án này. Được đào tạo ở Tây phương – và người ta hy vọng, bị Tây phương làm cho choáng váng – họ sẽ càng tin tưởng, biết ơn và cởi mở hơn trong việc xây dựng những mối quan hệ chính trị, văn hóa và kinh tế với Canada trong tương lai.

Thành công của chương trình hợp tác kỹ thuật của Kế hoạch Colombo dựa trên sự tham gia của những trường đại học Canada: đó là những cơ sở hướng dẫn sinh viên nhận học bổng, bảo đảm để họ có đủ tài nguyên cần thiết và được đào tạo phù hợp. Vì một số trường đại học không có tất cả những chương trình cần thiết cho những khóa học này nên sinh viên nhận học bổng sẽ được chuyển thẳng đến những trường phù hợp – Đại học Toronto và Đại học McGill tiếp nhận phần lớn những chương trình này. Đại học Montréal, mới chuyển từ trung tâm thành phố đến sườn núi Royal vào năm 1942, đã dần dần tăng cường sự tham gia: trường đã tiếp nhận 50 sinh viên được học bổng vào cuối những năm 1950 và 125 sinh viên vào cuối những năm 1960[15] Để thành công và đóng góp cho chương trình viện trợ quốc tế của Canada, UdeM đang trông cậy vào sự xuất hiện của những quốc gia ít nhất cũng nói được một ít tiếng Pháp. Đây là trường hợp của những thuộc địa cũ của Pháp (Việt Nam, Lào, Campuchia), bắt đầu từ những năm 1960, những quốc gia ở Châu Phi, Maghreb và Trung Đông đã được thêm vào. Quebec được hưởng một vị thế đặc quyền về mặt này: họ có thể trông cậy vào những mạng lưới truyền giáo, đã thành lập lâu đời ở Đông Nam Á, thường xuyên liên lạc với giới hữu trách của đại học và giám đốc những trường cao đẳng cổ điển [Duy nhất ở Canada nói tiếng Pháp, trường cao đẳng cổ điển qua nhiều thế kỷ đã chuẩn bị cho tầng lớp tinh hoa tri thức và xã hội của Québec cho giáo dục đại học. Trường cao đẳng cổ điển đầu tiên là College Des Jésuites, do những nhà truyền giáo Dòng Tên thành lập ở New France vào năm 1635. TGT] Đây là cách sinh viên từ khu vực này đi du học ở Quebec mà không nhận học bổng Colombo Plan. Đây cũng là trường hợp của Nguyễn Xuân Hòa, người đã học tại Collège de Saint-Laurent (lúc đó trực thuộc UdeM) nhờ những nỗ lực của linh mục Emmanuel Jacques, người đã chăm lo cho quyền lợi của giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam tại Mỹ[16].

Giới hữu trách của Kế hoạch Colombo, ở Ottawa cũng như ở New York, đã không quên chạm vào dây đàn nhậy cảm của Cộng đồng Pháp ngữ để tăng cường sự tham gia của UdeM. J.-A. Macdonald, người đứng đầu sở hợp tác kỹ thuật của Kế hoạch, đã đề cập với Lortie về “vị trí độc nhất của Quebec […] để cung cấp sự giúp đỡ cho khu vực đó của thế giới”[17]. Về phần mình, Lortie lập luận rằng Quebec không giống như Pháp, bị nghi ngờ áp dụng thái độ thực dân, đặc biệt là sau Chiến tranh Đông Dương, có nguy cơ làm suy yếu cuộc vận động ý thức hệ nhằm thu hút sinh viên nước ngoài theo cái gọi là những giá trị Tây phương. Và trên hết, ông nói rằng chính phủ Canada, không giống như chính phủ Pháp, không cho phép sinh viên nước ngoài định cư tại quốc gia chủ nhà sau khi học xong, một thông lệ khiến giới hữu trách của Kế hoạch Colombo và những quốc gia thụ hưởng rất khó chịu[18]. Sinh viên Việt Nam tại Pháp thực sự có thể chọn nhập tịch, điều này cũng cần thiết để có được việc làm tại đó. Sự có thể nhập tịch, kết hợp với cuộc chiến sắp bùng nổ ra ở đất nước họ, đã khuyến khích nhiều người, không phải không đau lòng, ở lại Pháp[19].

UdeM có ý định tận dụng lợi thế từ nguồn sinh viên đủ khả năng này để tăng cường ảnh hưởng, vào thời điểm mà trường bị nghi ngờ là không đủ bề dầy và không thích nghi đủ cho việc nghiên cứu khoa học. Phải nói rằng đội ngũ giảng viên phần lớn là giáo sư bán thời gian, điều này khuyến khích giới quản lý đại học thu hút nhân sự nghiên cứu từ nước ngoài, dù là giáo sư hay sinh viên[20]. Đây là lý do tại sao UdeM, một đại học nói tiếng Pháp và Thiên Chúa giáo sẽ đồng ý, trái với những nguyên tắc của nó, thuê những giáo sư không phải là giáo dân Thiên Chúa và tiếp nhận những sinh viên nước ngoài không nói tiếng Pháp như Ishfaq Ahmad, một người nhận học bổng của Kế hoạch Colombo. Được đón nhận đến học ở Phân khoa Khoa học vào năm 1954, ông là sinh viên Pakistan đầu tiên đầu tiên đến đây học. Những Khoa trưởng đặc biệt nhận thức được tầm quan trọng của việc chào đón những người tiên phong trẻ này. Khi những giới quản lý, vào giữa thập niên 1950, muốn tăng học phí của sinh viên nước ngoài lên 20%, họ đã được Lucien Piché, Khoa trưởng phân khoa Khoa học khuyến khích đảo ngược quyết định đó; vì ông cho rằng mức tăng học phí này gây bất lợi cho việc tuyển mộ được những “sinh viên được các giáo sư mong muốn vì họ có thể có nhiều đóng góp giá trị trong nghiên cứu.”[21] Lập luận của vị khoa trưởng Khoa học đã thắng, mặc dù một số đồng nghiệp của ông ở những khoa chuyên môn vẫn đề cao cảnh giác với sinh viên nước ngoài, nghi ngờ họ sẽ thay thế sinh viên bản địa và cuối cùng sẽ cạnh tranh để giành việc làm với họ tại Quebec[22].

Giám sát và đóng khung

Sự xuất hiện của sinh viên Kế hoạch Colombo diễn ra trong lúc chính sách nhập cư của Canada rất hạn chế đối với người Á châu. Đặc điểm ở nửa đầu thế kỷ 20 là không khí nghi ngờ đối với người ngoại quốc do chính phủ Canada duy trì. Cần nhắc lại từ năm 1923 và cho đến năm 1947, Đạo luật Nhập cư người Hoa đã cấm người Hoa di cư đến Canada—với một số ngoại lệ, kể cả sinh viên[23]. Do đó, sự hiện diện của sinh viên Việt Nam ở Canada là điểm đặc biệt trong những năm 1950 và 1960; Trước khi thuyền nhân tị nạn cộng sản đến đây vào giữa những năm 1970, những sinh viên Việt Nam này đối với nhiều người Canada, đặc biệt là trong giới đại học, là điểm tiếp xúc đầu tiên với người Việt Nam. Những sinh viên này khác hẳn so với những người nước ngoài khác có tình trạng tạm trú (lao động ngắn hạn, giúp việc gia đình, v.v.[24]) vì vị thế văn hóa và xã hội của họ—nhiều người trong số họ xuất thân từ gia đình giầu có—và vì thời gian lưu trú của họ, có thể lên tới đến sáu hoặc bẩy năm. Trong thời gian lưu trú kéo dài này họ tạo dựng một cuộc sống mới cho chính mình, đặt ra nhiều câu hỏi mang tính hiện sinh trong số những sinh viên nước ngoài liên quan đến cảm giác “lưng chừng”[25] này. Theo nghĩa này, kinh nghiệm của họ đưa họ đến gần hơn với những sinh viên tị nạn, những người cũng trải qua đời lưu vong, mà vẫn phân biệt họ với nó, vì không ai mong đợi sinh viên nước ngoài sẽ hòa nhập hoàn toàn vào cuộc sống ở Canada[26].

Để lựa chọn sinh viên nhận học bổng của Kế hoạch Colombo, vòng đầu tiên do những quốc gia thụ hưởng thực hiện và vòng thứ hai do ủy ban cố vấn ở Canada phụ trách, tính đến trình độ chuyên môn của sinh viên, nhu cầu kỹ thuật của nước xuất xứ và tài nguyên của đại học Canada. Ngoài việc nhận được trợ cấp hàng tháng[27],sinh viên còn được Kế hoạch Colombo trả tiền ghi danh, sách vở, quần áo và chăm sóc y tế[28].Tuy nhiên, những đặc quyền vật chất của sinh viên nhận học bổng kèm theo những kỳ vọng lớn: sinh viên phải chịu sự giám sát hành chính và ‘cố vấn’ chặt chẽ bộc lộ những mối quan tâm về xã hội, văn hóa và chính trị. Theo một ủy ban của UdeM chịu trách nhiệm nghiên cứu vấn đề này, sinh viên nước ngoài không được phép làm việc vào mùa hè – trừ khi họ tìm được việc làm trong lãnh vực học tập của họ, một công việc bán thời gian rất khó khăn – phải chịu “sự giám sát đặc biệt” và chịu trách nhiệm, trong và ngoài khuôn viên trường, với một “cơ quan có thẩm quyền có thể nghiêm khắc.”[29]Mối quan tâm về sự giám sát này cũng được thể hiện rõ tại hội nghị thường niên của những cán bộ tuyển mộ sinh viên của những trường đại học ở Quebec và Ontario, tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1953, tại Hamilton. Trong số những vấn đề được nêu ra là điều kiện tiếp nhận sinh viên nước ngoài, số sinh viên, và việc giám sát kiểm tra y tế—vào thời điểm nhiều sinh viên đang mắc bệnh lao—tầm quan trọng của việc bảo đảm nguồn tài chính, xác minh trình độ tiếng Anh của họ và nhu cầu “sàng lọc chính trị.”[30] Bình luận về những điểm nêu ra tại hội nghị, P. T. Baldwin thuộc Bộ Di trú và Quốc tịch Canada đã nói rằng “Bộ có thiện cảm với hoạt động trao đổi sinh viên quốc tế này,” nhưng nói thêm rằng “khi nhân viên cấp chiếu khán biết về người có liên quan đến những phần tử phá hoại,” thì phải từ chối không cấp chiếu khán nhập cảnh. Ông xác nhận rằng đây là một vấn đề tế nhị và tốt nhất là không nên đề cập đến nó trong những tài liệu quảng cáo quy định những điều kiện tuyển mộ sinh viên, nhưng ông cực lực khuyến khích giới hữu trách đại học tố giác những cá nhân “có hành động không ai ưa”[31] cho Ottawa biết.

Ngoài sự giám sát này, sinh viên trong Kế hoạch Colombo còn phải được chính phủ phê duyệt lãnh vực học tập và viết báo cáo hàng tháng về hoạt động của họ, từ đó chính phủ sẽ xác định xem học bổng của họ có được gia hạn từ năm này sang năm khác hay không. Thi trượt hoặc điểm kém cũng là lý cớ để thu hồi học bổng. Giới hữu trách của Kế hoạch Colombo thường xuyên nhắc nhở sinh viên rằng mục tiêu của họ không phải là Bildung – tiến trình trưởng thành về mặt văn hóa và cá nhân qua việc khám phá thế giới như truyền thống của Đức – mà là thu thập kiến ​​thức có thể sử dụng trong một lãnh vực cụ thể. Trọng tâm này trái ngược với số sinh viên nước ngoài ít nhiều phóng túng đang nổi lên ở các trường đại học nước ngoài trong nửa đầu thế kỷ XX[32]. Nay, khi những sinh viên được nhận học bổng tỏ ra phản đối hoặc cân nhắc việc thay đổi ngành học, họ tức thì bị giới hữu trách khiển trách, nhắc nhở rằng họ không có đặc quyền được thử đi thử lại cũng như không có quyền trở nên vô ơn; một viên chức của Kế hoạc Colombo viết: nhờ vào việc học tập của họ ở Canada họ mới có cơ hội đạt được một “địa vị trong cuộc sống mà có thể họ không đạt được bằng cách khác”[33]. Bằng cách coi kinh nghiệm của phương Tây là điều kiện thiết yếu để có một sự nghiệp thành công, những nhận xét như vậy cũng bộc lộ sự thiếu nhận thức và coi thường khả năng thăng tiến xã hội ở các quốc gia thuộc Nam bán cầu.

Những hạn chế này làm tăng tính dễ bị tổn thương của sinh viên nhận học bổng. Tinh thần gia trưởng mà họ kinh qua ở đại học—nơi mà, bất chấp sự phản đối ngày càng công khai trong giới sinh viên địa phương, học thuyết in loco parentis (thay mặt cho bậc cha mẹ)[34] vẫn chiếm ưu thế—được củng cố vì vị thế của họ là người nước ngoài. Vào thời điểm những nền văn hóa được xếp hạng theo sự tiến bộ hoặc độ chậm trễ của chúng trong mối quan hệ với lịch sử, việc đại diện cho “cái khác” phần lớn là do cách phân loại này, điều này tất nhiên coi trọng những nước phương Tây trong cuộc đua tiến bộ. Và do đó dẫn đến điều mà Johannes Fabian gọi là sự phủ nhận tính đồng thời, tức là từ chối coi người khác trong cùng mốc điểm “thời gian” với chính mình, điều này có thể biện minh cho một cách ứng xử kỳ thị chủng tộc, trịch thượng hoặc văn minh[35]. Cần có những nghiên cứu sâu hơn để xem xét sự đa dạng của những định kiến ​​​​về chủng tộc đang phổ biến trong giới học thuật vào thời điểm này, bốn định kiến ​​rõ ràng nhất là chống lại người Do Thái, người da đen, người Ả Rập và trong trường hợp của bài viết này là người Á châu. Phân biệt chủng tộc và thành kiến ​​đối với người Á châu có lịch sử lâu dài ở Canada và Quebec, đặc biệt là trong lãnh vực giáo dục, cho dù bằng hình ảnh trong sách giáo khoa nơi có rất nhiều tranh biếm họa bôi nhọ[36], cưỡng bức di dời, biểu tình chống người Á châu trong trường học[37] hay thậm chí là việc giam giữ công dân Canada gốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai[38].Trong những năm 1950, sự ngờ vực đối với người Á châu, những người đặc biệt dễ bị tổn thương vì tiếng còi hụ báo cộng sản, theo giới hữu chức trách, đã tăng cao do tình hình địa chính trị thời đó, đặc biệt là sau việc trục xuất những nhà truyền giáo người Canada nói tiếng Pháp sang Trung Hoa[39] và Chiến tranh Đại Hàn—đã đưa Canada đến gần Mỹ hơn trong Chiến tranh Lạnh, bất chấp sự ngờ vực của người Canada nói tiếng Pháp, những người phản đối việc gửi quân tham chiến và lo sợ một cuộc cưỡng bách tòng quân mới[40].

Trong giới hàn lâm, những thành kiến ​​bắt nguồn từ chủ nghĩa Đông phương vẫn tồn tại suốt những năm 1950; trên thực tế chúng đã được hiện thực hóa và thậm chí được chứng minh bằng viện trợ phát triển do sáng kiến ​​như Kế hoạch Colombo thực hiện, vốn trao cho học giả phương Tây vai trò nhà giáo dục của hành tinh. Ý thức về sứ mạng này không chỉ ảnh hưởng đến những quản trị viên và giáo sư mà còn cả sinh viên. Lời mời tham dự “buổi dạ tiệc Nhật Bản” trên tờ báo sinh viên Quartier Latin có nội dung: “Chúng ta hãy đến gần hơn với Phương Đông và nó sẽ tiết lộ cho chúng ta những kho báu của nền văn minh ở đó […] Sinh viên Đại học Pháp của chúng ta, chúng ta hãy quan tâm đến những điều mới này […]; chúng ta hãy cố gắng đồng hóa họ nếu chúng ta không muốn người khác hạ gục họ.”[41] Tất nhiên, những ‘người khác’ ở đây ám chỉ những người cộng sản. Bất chấp sự miễn cưỡng của nhiều sinh viên địa phương đối với chủ nghĩa chống cộng ngày càng trầm trọng của những bậc trưởng thượng, hầu hết sinh viên đều có ý định, trong những năm 1950, lãnh đạo cuộc đấu tranh ý thức hệ ở bên những nước tự do và tư bản[42].

Vai trò giáo dục này sẽ được nêu rõ bằng những thuật ngữ ít đơn giản hơn trong hai thập niên tiếp theo, đặc biệt là sau khi thành lập Cơ quan Dịch vụ Đại học Canada ở nước ngoài (CUSO), cơ quan này đã cử nhiều chuyên gia Canada đi khắp thế giới trong những năm 1960 — do đó mở rộng tinh thần tông đồ quốc tế kế thừa từ những phong trào thanh niên và truyền giáo Thiên Chúa giáo[43]. Những đợt lưu trú này, kết hợp với sự xuất hiện của nhiều sinh viên Á châu trong khuôn viên đại học, đã biến đổi cái mà David Webster gọi là “bản đồ tinh thần” của giới hàn lâm, tức là cách họ tưởng tượng về thế giới vượt ra ngoài giá trị của những tham chiếu về địa lý và văn hóa. Trong khi đó, “Bản đồ tinh thần của Canada vẫn coi Á Châu là khác biệt không thể sửa chữa”[44] mà còn dẫn đến việc gộp những quốc gia khác nhau như Nhật Bản, Việt Nam và Pakistan vào cùng một “nền văn minh”. Khuynh hướng này được thể hiện rõ trong bài phát biểu của giáo sư vật lý UdeM, Pierre Demers. Trong phúc trình gửi cho giới hữu trách Kế hoạch Colombo, ông chỉ trích gay gắt tiến độ của Ishfaq Ahmad, sinh viên Pakistan dưới sự giám sát của ông. Ông ấy phàn nàn về sự thích nghi của Ahmad (sau sáu tháng, anh ấy vẫn nói tiếng Pháp không thành thạo!) và khả năng của anh sinh viên, đồng thời không ngần ngại xác định nhiều yếu tố giải thích cho những thiếu sót này, kể cả sức nóng, đạo Hồi và truyền thống học đường không đầy đủ của “Á Châu” được cho là tạo ra một nền văn hóa vâng lời và cấm mọi sáng kiến. Ông tin rằng sinh viên từ khu vực này nên đến phương Tây — ông thậm chí còn đề nghị đào tạo họ trong những trường cao đẳng cổ điển của Quebec — để có được những đặc tính cần thiết cho sự phục hồi của nền văn minh vốn bị coi là trì trệ của họ[45]. Mặc dù những tuyên bố rõ ràng như vậy rất hiếm trong kho lưu trữ của trường đại học ở thời kỳ này, tuy nhiên, ngoài những thành kiến ​​về chủng tộc, chúng còn phản ảnh tham vọng của UdeM trong việc đóng một vai trò lớn hơn trong giáo dục quốc tế. Trọng tâm của tham vọng này là những người, giống như sinh viên nước ngoài, ít nhận được sự chú ý trong lãnh vực thuật chép sử: những cố vấn của họ.

Cố vấn

“Ông là người đầu tiên tôi liên hệ với Canada […] tất cả tương lai của tôi sẽ phụ thuộc vào lời khuyên của ông.”[46]Đây là cách sinh viên Việt Nam Đinh Hoàng Điệp gởi đến Léon Lortie trong một bức thư dài bày tỏ mong muốn được đi học tại Quebec. Trong khi khen ngợi khả năng tiếng Pháp của anh sinh viên, Lortie đã rất cẩn thận hướng dẫn sinh viên này vượt qua mê cung hành chính để có thể lấy được học bổng. Nhờ hoàn cảnh bắt buộc mà Lortie, một giáo sư hóa học, đã trở thành ăng ten quốc tế của Đại học Montréal vào đầu những năm 1950. Thường được giao nhiệm vụ đại diện cho trường đại học trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Á châu, ông được bổ nhiệm vào năm 1952 làm giám đốc dịch vụ phát triển giáo dục mà ông đã thành lập và là nhân viên duy nhất trong đó. Vai trò của dịch vụ này, như tên gọi của nó, có thể mở rộng đáng kể, từ việc quản lý những lớp học buổi tối đến quan hệ với nhiều tổ chức Montréal, Canada và quốc tế, kể cả việc giám sát sinh viên nước ngoài. Tính mới của dịch vụ này và sự vắng mặt của tiền lệ trong lãnh vực này giải thích tính chất ngẫu hứng của một số hành động và chính sách của ban quản lý trường đại học trong việc quản lý sinh viên nước ngoài.

Không tự gán cho mình nhãn hiệu này, Lortie là thành viên của một nhóm nhỏ tiên phong, nhóm cố vấn cho sinh viên nước ngoài tại các trường đại học Canada[47]. Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về địa vị, phương tiện và thời gian tùy ý sử dụng, những cố vấn này có điểm chung là họ tương tác—tại chỗ hoặc qua thư từ—với sinh viên nước ngoài để hướng dẫn họ trong thời gian lưu trú tại Canada, theo thời gian thời điểm mà những dịch vụ mà họ nhận được rất hiếm hoặc không đầy đủ. Để giải quyết những thiếu sót này, những sáng kiến ​​địa phương và quốc gia đã xuất hiện trên khắp đất nước, đặc biệt dưới sự thúc đẩy của tổ chức Quan hệ thân thiện với sinh viên nước ngoài (FROS), thành lập vào đầu những năm 1950, chuyên xuất bản những bản tin để thông báo cho những cố vấn về những sáng kiến ​​do đồng nghiệp của họ thực hiện ở Canada, về sự phát triển của những tổ chức quốc tế, về chính sách của chính phủ và về những dự án của sinh viên nước ngoài. Mặc dù FROS có ít ảnh hưởng ở Quebec nhưng nó sẽ có ảnh hưởng quyết định trong việc chào đón sinh viên nước ngoài ở những nơi khác tại Canada, đặc biệt là ở Ontario[48]. Tại Đại học Montréal, phải đến giữa những năm 1960, một khoa rất khiêm tốn mới được thành lập để tiếp đón sinh viên nước ngoài. Trong khi học hỏi trong công việc, những cố vấn này, những người phải thực thi quyền lực của mình một cách đặc biệt, đã phát triển tính linh hoạt cao. Ở Mỹ, một đồng nghiệp của Lortie đã mô tả một cách sinh động vai trò của họ: “Những cố vấn sinh viên nước ngoài đầu tiên đã phải tự ứng biến và học hỏi rất nhiều. Có những ngày đêm trong cuộc đời của một cố vấn nước ngoài, ông ấy chắc chắn cảm thấy như thể vai trò trong thế giới thực của mình đã mang một màu sắc kịch tính, sống động, của một Bộ phim James Bond, hoàn chỉnh với những người ngoài hành tinh mất tích, mất sổ thông hành, thanh tra nhập cư, âm mưu của toà đại sứ và các thông cáo đối ngoại.”[49] Vai trò của Lortie đã giúp ông phát triển một mạng lưới rộng khắp nơi: ông ấy đã liên hệ với những cơ quan quản lý Kế hoạch Colombo ở Canada, sinh viên nước ngoài, gia đình họ, trường lớp, chính phủ Canada và nước ngoài, những doanh nghiệp (để sinh viên có thể thực tập), chưa kể đến giới nghiên cứu và chuyên gia mà ông ấy đã liên hệ để ký hợp đồng với những tổ chức quốc tế khác nhau, kể cả Kế hoạch Colombo và UNESCO, để đóng góp cho sự phát triển quốc tế. Lortie cũng đã nhiều lần được yêu cầu bảo vệ sinh viên nước ngoài của những tổ chức này, có cả Anne Barthélémy, một sinh viên Haiti tại Đại học Montreal, người mà ông đã hỗ trợ để cô có thể được hoàn trả chi phí y tế vì khó thích nghi với Quebec dẫn đến việc cô phải vào bệnh viện[50].

Cách ứng xử của những cố vấn này càng nổi bật hơn khi so sánh với cách làm việc của giới hữu trách Kế hoạch Colombo ở Ottawa, hoặc với một số quản trị viên đại học và giáo sư, những người có khuynh hướng chọn những vị thế kém linh hoạt hơn khi có những khó khăn liên quan đến việc đào tạo hoặc tiếp biến về văn hóa (l’acculturation) với những giá trị phương Tây ​​của sinh viên nhận học bổng[51]. Việc này được tiết lộ qua thư từ giữa Lortie và những viên chức quốc gia của Kế hoạch, kể cả G.–A. Plante, nhân viên thuộc Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật của Bộ Thương mại Canada, thành lập vào năm 1951 để giám sát những sinh viên nhận học bổng. Khi Lê Thiện Ngọ và Lê Tường Khanh, sinh viên trường École Polytechnique (thuộc UdeM), quyết định theo học những khóa học tiếng Nga, Plante đã cực lực phản đối với lý do những khóa học này không giúp ích gì cho việc du học của họ[52]. Vào thời điểm Liên Xô cũng cấp học bổng, việc cho phép sinh viên nhận học bổng Colombo ghi tên học những khóa như vậy là điều không tưởng. Về phần mình, Lortie ít cứng nhắc hơn; ông nói với sinh viên rằng họ “hoàn toàn được tự do tự túc ghi tên học những khoá đó.”[53] Cũng giống những khóa học tiếng Nga, giới hữu trách và cố vấn lo ngại về sự ăn không ngồi rồi của sinh viên nước ngoài trong kỳ nghỉ hè. Danh tiếng của Montreal, nơi được cho là có ảnh hưởng xấu đến sinh viên bằng cách đem đến cho họ những thú vui bất hợp pháp, có liên quan gì đó đến chuyện này[54], nhưng trên hết mối nguy hiểm của việc tụ tập với nhau đã được nhấn mạnh. Đối với Lionel Lemay, Hiệu phó phụ trách đời sống sinh viên, sinh viên nước ngoài, khi dành quá nhiều thời gian bên nhau, có nguy cơ “tạo ra những điểm nóng bất hòa hoặc thường xuyên hơn là nỗi nhớ tập thể, đôi khi là sự bất mãn bùng nổ và thường là những lời chỉ trích cay nghiệt.”[55] Tại sao Lemay lại kiên quyết phản đối việc xây ngôi nhà quốc tế tại UdeM, bất chấp mong muốn của sinh viên nước ngoài. Chính Léon Lortie là người khởi xướng sáng kiến ​​thu hút sinh viên nhận học bổng trong mùa hè nhờ một chương trình do cơ quan khuyến nông của ông tổ chức và được Cơ quan Viện trợ Nước ngoài của chính phủ Canada tài trợ. Trong mùa hè năm 1958 và 1959, cố vấn sinh viên đã đưa ra một chương trình đa dạng: “Khóa học về nền văn minh phương Tây” (90 giờ), “Quản lý chung” (75 giờ), Khóa học tiếng Anh (30 giờ), “Định hướng, Tài nguyên, Công Kỹ nghệ, Quản trị” (18 giờ), do chính Lortie đứng lớp, “Nền kinh tế Canada” (6 giờ) và “Tổ chức công nghiệp” (6 giờ)[56]. Chương trình này là một cơ hội khác để Lortie, người từng là đại sứ của UdeM ở nước ngoài, làm cho Quebec và Canada được cả thế giới biết đến[57]. Tuy nhiên, trong mắt Lortie, kiến ​​thức về lý thuyết chưa đủ; ông đã đưa vào học trình những kinh nghiệm về lãnh thổ để đưa sinh viên nước ngoài ra khỏi khuôn viên đại học và ra khỏi thành phố. Sáng kiến ​​của ông tiết lộ hy vọng rằng việc du học Canada sẽ biến đổi sinh viên nước ngoài qua điều mà Dale M. McCartthey gọi là “tiếp xúc với tính ưu việt hiển nhiên của xã hội Canada.”[58] Ở Toronto, có những lời phàn nàn rằng nhiều sinh viên nước ngoài trở về quê hương “chưa bao giờ bơi lội” trong một hồ nước, chưa bao giờ nhìn thấy đất nước phía bắc, chưa bao giờ biết qua Canada nói tiếng Pháp.”[59]Để bù đắp cho sự cô lập này, Lortie đã tổ chức một chuyến thám hiểm lớn vào tháng Sáu và tháng Bẩy. Ông hy vọng sinh viên có thể hòa mình vào cuộc sống của người Canada gốc Pháp bằng cách cho họ đến thăm người dân địa phương, cho họ xem một số ngành công kỹ nghệ tiên tiến (thủy điện, luyện nhôm, v.v.) và thanh thản hơn là đưa họ đến Sở thú Granby. Mặc dù người viết không biết những sinh viên nghĩ gì về những cuộc xuất du này, nhưng người viết biết nhiều hơn về những cuộc du ngoạn của những người lớp sau họ bẩy năm. Khoảng ba mươi sinh viên đã tham dự Lễ hội văn hóa dân gian quốc tế ở Saint-Frédéric, ở Beauce, ở Rimouski, trên Đảo Bonaventure và ở Thung lũng Matapedia[60].

[Lê Thiện Ngọ và Lê Tường Khanh là hai sinh viên Ks Cơ khí và Công nghệ của trường École Polytechnique, niên khóa 1956-1960, Khóa Kỹ sư thứ 84. Nguyễn Phát Quang, tài liệu đã dẫn, trang 13. TGT]

Chọn lộ trình của họ

Mặc dù không có nhiều lựa chọn, một số sinh viên nước ngoài có thể tin tưởng vào nhiều hậu thuẫn khác nhau ở quê hương, trước nhất là từ gia đình họ. Đây là trường hợp của sinh viên Việt Nam Alice Hồ Văn Hạp, một đối tượng khó tìm thấy trong kho lưu trữ về sinh viên ngoại quốc. Không giống như sinh viên địa phương, họ dùng những ủy ban và tờ báo sinh viên Quartier Latin để chỉ trích sự phân biệt giới tính và phân biệt đối xử mà họ phải đối phó trong khuôn viên đại học[61], sinh viên ngoại quốc có rất ít phương tiện để lên tiếng và do đó, ít được biết đến. Phải nói rằng việc xây dựng hạng mục “sinh viên nước ngoài” để lại rất ít chỗ cho những vấn đề về giới tính – việc này cũng xẩy ra trong thời kỳ nổi lên của phong trào sinh viên những năm 1960. Tuy nhiên, con số của họ không phải là không đáng kể tại UdeM: 184 nữ sinh viên trên tổng số 777 sinh viên nước ngoài vào năm 1963–1964, hay 23%[62].

Chuyến viếng thăm của sinh viên Việt Nam tại Công ty Thuốc lá Imperial Tobacco Canada, dưới sự hướng dẫn của giáo sư École Polytechnique. Nguồn: Kho lưu trữ UdeM, D0037/1fp03451–0002.

Họ phải nhất nhất tuân theo học thuyết “thay mặt cho bậc cha mẹ” thậm chí còn hơn nam giới và có nguy cơ bị nhân viên quản trị viên, giáo sư và thậm chí cả những sinh viên khác coi là trẻ con. Họ cũng thử thách giới hạn về tính linh động của những cố vấn. Năm 1959, Alice Hồ Văn Hạp, một sinh viên nhận học bổng của Kế hoạch Colombo, đã chọn, với sự đồng ý của chính phủ Việt Nam, để theo học tại Viện Nông nghiệp Oka, trực thuộc UdeM. Để thảo luận về trường hợp của Alice Hồ Văn Hạp, Lortie đã trao đổi thư từ với Plante; Plante viết thư cho Lortie: “Tôi sợ rằng cô Hồ Văn Hạp sẽ cảm thấy mất phương hướng ở Oka [nơi chỉ có đàn ông].”[63] Cả hai người đều yêu cầu cô bỏ Viện Nông nghiệp Oka. Sau đó, cô đề nghị sẽ học sinh học, nhưng Lortie khuyên cô nên học một cử nhân về khoa học tổng quát hơn, vì “phụ nữ sẽ không cần tất cả các khóa học trong chương trình của một khóa học nông nghiệp thông thường và không còn cần tất cả những khóa học thuộc chương trình chuyên ngành sinh học. Tôi cho rằng một số khóa học về dinh dưỡng, v.v., sẽ phù hợp với cô ấy hơn.”[64] Những lập luận dựa theo phong tục tập quán thế này về khả năng của nữ sinh viên, với một số chuyên ngành nhất định liên quan đến việc chăm sóc (chẳng hạn như khoa điều dưỡng, khoa ăn uống hay khoa dinh dưỡng) là chìa khóa, rất phổ biến ở đại học[65]. Trên thực tế, vào cuối những năm 1950, phần lớn sinh viên nhận học bổng nước ngoài đã theo học ngành điều dưỡng tại Viện Marguerite d’Youville, cũng liên kết với UdeM. Tuy nhiên, Alice Hồ Văn Hạp đã không bỏ cuộc. Lần này, với sự đồng ý của Lortie, cô cố gắng thi vào Dược Khoa, và cô được nhận vào học nhờ kết quả học tập xuất sắc. Nhưng sự đổi hướng này không làm hài lòng chính phủ Việt Nam, chính phủ đã viết thư cho cô sinh viên trẻ: “Nếu em vẫn tiếp tục mong muốn thay đổi ngành học của mình, Hội đồng sẽ sẵn sàng đưa ra quyết định triệu hồi em.”[66] Có vẻ như vô thưởng, vô phạt, nhưng việc lựa chọn ngành học thực sự có ý nghĩa quốc gia. Ngay từ khi lên nắm quyền, chính quyền Việt Nam Cộng hoà do Ngô Đình Diêm (1955–1963) đứng đầu đã đặt ra ba mục tiêu: chống cộng sản, kém phát triển và mất đoàn kết. Miền Nam Việt Nam, một pháo đài quan trọng của Chiến tranh Lạnh, cũng là đối tượng được Mỹ liên tục để ý đến, và đã đầu tư tài nguyên vào đó cũng như phổ biến ý thức hệ hiện đại hóa tập trung hoàn toàn vào việc tăng năng suất nông nghiệp[67]. Trong khi mối đe dọa cộng sản ở miền bắc đất nước đang gia tăng, trọng tâm này có lẽ giải thích tại sao sự thay đổi hướng đi của Alice Hồ Văn Hạp không được chấp nhận, đặc biệt kể từ khi Việt Nam Cộng hoà quen với việc gửi sinh viên nông nghiệp đến Quebec—vào giữa những năm 1950, 40 sinh viên Việt Nam đã theo học Trường Nông nghiệp Sainte-Anne-de-La-Pocatière, thuộc Đại học Laval[68].

Nguồn: L’Action: Catholic daily, 1966-02-17, BAnQ Collections. p. 6

Tình trạng này khiến cha của cô sinh viên lo lắng, trong khi mẹ cô cố gắng thuyết phục nhà chức trách Việt Nam hòa giải. Bà cũng yêu cầu Lortie, bằng cách nhắc đến nguyên tắc “thay mặt cho bậc cha mẹ” (in loco parentis), trông chừng con gái bà: “Đây là lần đầu tiên Alice rời xa chúng tôi để đi xa. Vì cháu còn rất trẻ nên chúng tôi chưa rời xa cháu một bước: điều này cho ông biết rằng cháu còn thiếu nhiều kinh nghiệm […] Rất ngoan ngoãn, tôi chắc chắn rằng cháu sẽ được hưởng lợi với những lời khuyên sáng suốt mà ông sẽ dành cho cháu.[69]

Bất chấp tính ngoan ngoãn đã chứng minh, cô sinh viên không có ý tuân theo mong muốn của chính phủ Việt Nam: cô ấy “rất muốn lấy bằngcử nhân và thậm chí cả bằng cao sĩ dược[70]. Sự bướng bỉnh này cũng gây khó chịu cho những người có trách nhiệm trong Kế hoạch Colombo, họ không muốn tạo tiền lệ khi cho rằng “những sinh viên Việt Nam khác sẽ được phép thay đổi ngành học sau khi họ đến Canada.”[71] Suy cho cùng, sức hấp dẫn của Canada như một điểm đến đối với những người nhận học bổng phụ thuộc vào điều đó, cũng như danh tiếng của nước này như một “quyền lực mềm” đáng tin cậy trong chính trường quốc tế.

Những nỗ lực của bà mẹ cô sinh viên, đã dùng đến mạng lưới và ảnh hưởng của mình, cũng như của Lortie, người viết rất nhiều thư trấn an chính phủ Việt Nam Cộng hoà, đã có kết quả: chính phủ Việt Nam cho phép cô sinh viên theo học ngành dược đến bậc tiến sĩ. và sau khi học xong cô sẽ giảng dậy tại Dược Khoa của Đại học Sài Gòn. Thành công này cho thấy tầm quan trọng của những cuộc đàm phán hậu trường trong việc giải quyết xung đột, một thông lệ cũng đã được kiểm chứng ở những quốc gia khác, đặc biệt là ở Ấn Độ, nơi những cuộc đàm phán chính trị địa phương đóng vai trò then chốt trong việc lựa chọn những ứng cử viên trên thị trường chứng khoán, gây bất lợi cho những người không có sự hậu thuẫn[72]. Cha cô Alice viết cho Lortie, “Từ tận đáy lòng, xin thưa với ông: CẢM ƠN ÔNG RẤT NHIỀU.”[73] Cha của Alice và gia đình Hồ Văn Hạp sau này đã thiết lập mối liên lạc, qua thư từ cá nhân, những chuyến thăm và quà tặng. Tại UdeM, cô sinh viên không làm thất vọng những người đã đặt kỳ vọng vào cô: Giám đốc Nghiên cứu Dược khoa André Archambault nhận xét về cô sinh viên Việt Nam, “rất thông minh và rất chăm học”, và đặc biệt “có trình độ”, cô “mang lại vinh dự lớn cho Khoa”[74]. Cô sẽ tiếp tục học cao học tại Đại học Toronto và học tiến sĩ tại Đại học Laval[75]. Bất chấp kết quả này, giới hữu trách của Kế hoạch Colombo vẫn chưa nghe hết ý kiến ​​của sinh viên Việt Nam.

Cuộc nổi dậy của sinh viên Việt Nam

Việc đổi ngành học của Alice Hồ Văn Hạp tuy khác với kế hoạch ban đầu nhưng đã không đặt ra vấn đề về thẩm quyền của giới hữu trách Canada trong Kế hoạch Colombo, cũng như thiện chí của sinh viên khi được đào tạo ở phương Tây. Hoàn cảnh lại khác khi những sinh viên nhận học bổng nêu lên sự thích đáng của những sáng kiến, thường là ngẫu hứng, của giới hữu trách để “giáo dục” họ. Vào cuối những năm 1950, những người nhận học bổng của Kế hoạch Colombo được đề nghị thực tập mùa hè (không trả lương) tại Bộ Công chánh, trong những phòng thí nghiệm hoặc tại những công ty xây dựng ở nhiều thành phố khác nhau của Canada. Plante, người đã sắp xếp mọi việc, đã viết cho họ: “Không cần phải làm cho bạn hiểu tầm quan trọng của việc giới thiệu mình một cách tốt nhất để gây ấn tượng tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng những bạn đồng môn Việt Nam, Campuchia, Lào và chính các bạn rất mong muốn tận dụng tối đa những cơ hội.” Trong khi giả định những mong muốn của sinh viên, người quản lý nói thêm: “Người viết sẽ không có thiện cảm với một sinh viên không làm mọi thứ có thể để tạo ấn tượng tốt trong cuộc phỏng vấn.” Cuối cùng, vì lo ngại về kỳ nghỉ hè ở Montréal, ông tuyên bố rằng những người nhận học bổng “không nên ăn không ngồi rồi trong kỳ nghỉ.”[76]Vấn đề có thể đã kết thúc ở đó, nhưng trái với mọi mong đợi, và bất chấp những rủi ro liên quan, 11 sinh viên Việt Nam đã công khai bày tỏ quan điểm không chấp thuận. Hai sinh viên, Võ Đức Diễn và Nguyễn Kim Hiền đại diện 11 người viết thư bình luận và chỉ trích những nhận xét của Plante đồng thời bày tỏ sự khó chịu khi phải phục tùng một cơ quan mà họ cho là lạm dụng. Họ sẵn sàng chấp nhận, đi thực tập không có lương, nhưng công việc thực tập “nhằm mục đích chính và trên hết là nhằm mục đích hướng dẫn thuần túy và trực tiếp”, chứ không phải những công việc “không trực tiếp và không hoàn toàn mang tính hướng dẫn, đặc biệt là đối với sinh viên không học ngành Kỹ sư Công chánh”. Họ cũng sẵn sàng làm việc trong bất kỳ chương trình thực tập nào có lương, bất kể lĩnh vực nào. Bằng cách tổng hợp ký ức và tài liệu lưu trữ, họ nhắc nhở Plante rằng vào năm 1956, ông đã nói với họ rằng nếu họ tìm được một công việc với chính phủ liên bang, họ sẽ được hưởng mức trợ cấp học bổng cao hơn và mức lương thích ứng với công việc đó. Trong thư trả lời, những sinh viên Việt Nam cũng khẳng định có kiến ​​thức chuyên môn nhất định về nhu cầu của đất nước họ: “Thay vì dùng bốn tháng để tích lũy kinh nghiệm thực tế quá thứ cấp […], chúng tôi dự định dành thời gian hữu ích hơn để đào sâu một nghiên cứu cụ thể, hoặc để chuẩn bị một dự án cụ thể, nghiên cứu nào và dự án nào sẽ có lợi thế trong việc đáp ứng chính xác và trực tiếp nhu cầu của đất nước chúng tôi.”[77]Ngay cả khi chúng có cơ sở vững chắc, những nhận xét như vậy trực tiếp đặt ra nghi vấn về niềm tin rằng những người chịu trách nhiệm về dự án Kế hoạch nhất thiết đã biết những gì là tốt cho việc phát triển những quốc gia ở Nam bán cầu.

[Võ Đức Diễn (Ks Vật Lý) và Nguyễn Kim Hiền (Ks Hóa học) là hai sinh viên khóa Ks thứ 84, niên khóa 1956-1960 của École Polytechnique Montreal. Nguyễn Phát Quang, tài liệu đã dẫn, trang 13. TGT]

Nhưng việc khiến mười một sinh viên Việt Nam khó chịu hơn nữa là sự nghi ngờ của Plante về việc họ lười biếng. Đối với những lời buộc tội của ông ta, họ trả lời: “Trong mọi trường hợp, chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể bảo đảm với ông rằng chúng tôi không bao giờ ăn không ngồi rồi.” Họ còn đi xa hơn và dám tố cáo giọng điệu mà viên chức Kế hoạch Colombo đã sử dụng: “Chúng tôi rất tiếc rằng những từ ngữ và mệnh lệnh không thích đáng đã được phép lọt vào thư của ông. Chúng ta hãy hy vọng rằng điều này sẽ không lập lại trong tương lai.”[78] Thái độ của họ có tính chất phá đổ gấp đôi: họ tuyên bố sự tự chủ của họ trên thực tế đã bị Kế hoạch tịch thu, đồng thời yêu cầu được tôn trọng bằng một giọng điệu không hợp với thái độ khiêm tốn và phục tòng mong đợi ở sinh viên trong bối cảnh mà học thuyết “thay mặt cho bậc cha mẹ” (in loco parentis) vẫn chiếm ưu thế. Phải nói rằng, sinh viên nước ngoài, trái với suy nghĩ của nhiều viên chức của Kế hoạch Colombo, không phải là những trang giấy trắng sẵn sàng tiếp nhận kiến ​​thức từ những trường đại học cung cấp kiến ​​thức, cũng không phải là những người trẻ vừa rời ghế ở những trường cao đẳng, trung học truyền thống và mới bước vào đại học. Nhiều người ở độ tuổi giữa hai mươi hoặc thậm chí giữa ba mươi, một số đã có việc làm, số khác đã lập gia đình và có con. Plante rõ ràng đã bàng hoàng với lá thư của những sinh viên Việt Nam. Ông ta phàn nàn với thượng cấp, J.T. Hobart, người đứng đầu bộ phận đào tạo của Bộ Thương mại, và có trách nhiệm viết thư cho 11 sinh viên. Ông ấy không che giấu sự thất vọng của mình: “Lời lẽ và giọng điệu của bức thư này, để tôi nói cho các bạn biết, đã khiến tôi thất vọng.” Hobart cáo buộc họ là kẻ vô ơn và so sánh họ với những sinh viên khác của Kế hoạch Colombo, những sinh viên đã chấp nhận lời đề nghị đi thực tập: “chỉ có người Việt Nam mới thấy có lỗi” và xúc phạm Plante, người không “đáng phải nhận những lời chê bai mà các bạn dành cho ông ấy”. Hobart nhắc nhở họ rằng học bổng của họ không phải là một quyền mà là một đặc ân, rằng hợp đồng của họ quy định rằng họ phải “chấp nhận những hướng dẫn” và những điều kiện Chính phủ [của họ] và Chính phủ nước tài trợ đề ra”, nếu không học bổng sẽ bị hủy bỏ. Sau đó, ông giải thích thẳng thắn với họ rằng các đợt thực tập không chỉ nhằm mục đích đào tạo họ mà còn để dạy họ tuân lệnh: “Ở Bắc Mỹ, chúng tôi tin rằng rằng đây là cách duy nhất để bất kỳ sinh viên nào hy vọng trở thành người lãnh đạo học cách ra lệnh một cách đúng đắn và đánh giá cao cách tiếp nhận những mệnh lệnh này.”[79]Những nhận xét này xác nhận mức độ mà vào thời điểm đó, “những nỗ lực viện trợ của Canada đặt ra một mối quan tâm thường trực để khắc sâu một đạo đức làm việc của tư bản dựa trên quan niệm gia trưởng của người làm công ăn lương.”[80] Sự vô kỷ luật của sinh viên ở đây trở thành ẩn dụ của Phương Đông, bị nghi ngờ là vô tổ chức hoặc kém hiệu quả và đòi hỏi kỷ luật của một quốc gia như Canada.

Cuộc nổi dậy của sinh viên Việt Nam xẩy ra vào thời điểm Canada đang tăng cường viện trợ đáng kể cho Việt Nam Cộng hoà qua Kế hoạch Colombo. Khoản viện trợ này lên tới 42.347 USD vào năm 1957 và đã lên tới 308.335 USD một năm sau đó[81]. Có thể khoản đầu tư này, vào thời điểm Chiến tranh Lạnh đang bước vào giai đoạn nóng lên, đặc trưng bằng cuộc cách mạng Cuba và cuộc khủng hoảng Berlin năm 1959, đã làm tăng kỳ vọng với những sinh viên có học bổng và, nói rộng ra, đã biện minh cho những lời khiển trách như vậy. Trên thực tế, sau lời khuyên răn, Hobart đã đe dọa: “Tôi rất tiếc phải nói với các bạn rằng các bạn không cho chúng tôi lựa chọn nào khác ngoài việc phải gián đoạn việc chi tiền trợ cấp, kể từ ngày 1 tháng 6 năm 1959.” Để được trợ cấp lại, họ sẽ phải chấp nhận mà không phàn nàn về công việc thực tập đã cấp cho họ, đồng thời viết riêng một lá thư xin lỗi tới Plante[82]. Bằng cách phá vỡ ý chí của họ, Hobart có ý dạy họ vâng lời. Trong thư trả lời, những sinh viên Việt Nam xin lỗi vì đã xúc phạm Plante và dùng giọng điệu hòa giải, nhưng họ không ngần ngại tái khẳng định, bất chấp sự mất cân bằng trắng trợn trong mối quan hệ quyền lực như những nhận xét ban đầu của họ[83].

Về phần mình, Lortie đã đồng ý với nhận xét của Hobart, do đó bộc lộ những giới hạn trong sự thông cảm của ông đối với các sinh viên nhận học bổng. Tuy nhiên, ông đã ghi lại sự việc một cách cẩn thận. Vài tuần sau, ông viết thư cho một khoa trưởng để cho biết rằng danh dự của những sinh viên nhận học bổng này phải được bảo vệ, vì “những sinh viên này thuộc chủng tộc da vàng và điều quan trọng là họ phải ‘không được làm mất sĩ diện’”[84] Sự dè dặt về mặt văn hóa này, tuy bộc lộ một thành kiến ​​khác đối với người gốc Á châu, nhưng lại cho thấy một sự sẵn sàng thích ứng nhất định. Esdras Minville, vị Hiệu trưởng (trường Thương Mại, HEC) nêu trên, tâm sự với Lortie rằng chính ông cũng bối rối khi phải đối phó với “tâm lý” của một sinh viên Á châu ghi danh học trường của mình. Thay vì can thiệp, ông có ý giới thiệu anh ta với một học giả khác, không được đề cập đến, người “đã dành vài năm ở Phương Đông và kết quả là vị giáo sư này có cơ hội tốt hơn chúng tôi, trong việc hiểu biết tâm lý của người phương Đông.”[85]

Bước ngoặt của thập niên 1960

Cuộc nổi dậy của sinh viên Việt Nam, tuy đặc biệt, nhưng vẫn có thể được giải thích bằng năm yếu tố ngữ cảnh chứng thực những biến đổi đã ảnh hưởng đến hoàn cảnh của sinh viên nước ngoài vào đầu những năm 1960.

Yếu tố đầu tiên liên quan đến vị thế của sinh viên nước ngoài với tư cách là đại diện của đất nước họ, vào thời điểm mà nhiều cơ quan hữu trách không còn chỉ nhấn mạnh vào đào tạo mà còn về phẩm chất của việc tiếp nhận. Do đó, Paul Martin Sr., Bộ trưởng Ngoại giao khi đó, đã thừa nhận những thiếu sót của Canada: “cảm giác hiếu khách thực sự của chúng ta đối với sinh viên nước ngoài không phải lúc nào cũng hoàn toàn tương xứng với thành tích của chúng ta.”[86]Tất nhiên, vấn đề không phải trước hết là từ thiện; hy vọng rằng những sinh viên này, những người được đón nhận nồng nhiệt, sẽ càng có thiện cảm hơn với Canada khi nắm giữ những vị trí quan trọng ở đất nước của họ. Mười một sinh viên Việt Nam đã khéo léo nhấn mạnh rằng “việc du học của chúng tôi ở đây dưới sự bảo trợ của chính phủ Canada tạo nên sự tiếp xúc trực tiếp đầu tiên giữa hai dân tộc chúng ta.”[87]Bằng cách ngụ ý rằng cách họ được đối xử phản ảnh những mối quan hệ này, họ đang dựa vào địa vị, theo một thuật ngữ dùng để chỉ sinh viên nước ngoài ở Bắc Mỹ, những đại sứ không chính thức. Vị thế này được củng cố bằng việc bình ổn hóa ảnh hưởng của họ trên thế giới với tư cách là “những người vận chuyên chở văn hóa”[88],88 nghĩa là, với tư cách là những người tham gia vào tiến trình truyền bá và gặp gỡ những nền văn hóa khác vào thời điểm mà giữa Chiến tranh Lạnh, những phong trào hòa bình đang đạt được động lượng.

Vị thế đại sứ không chính thức này ngày càng trở nên quan trọng khi đại học trở thành trung tâm ngoại giao văn hóa. Khi tiếp đón những đoàn khách nước ngoài, thường theo yêu cầu của chính quyền liên bang hoặc chính quyền tỉnh bang, những trường đại học không ngần ngại để sinh viên nước ngoài tham gia vào những buổi tiếp tân giới chức sắc[89].Năm 1958, UdeM đã nhanh chóng đón tiếp hai phái đoàn Việt Nam, một của Bộ Ngoại giao và hai là Viện trưởng trưởng Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Trong thời gian lưu trú, hai người đã gặp gỡ các sinh viên Việt Nam của những Đại học UdeM và McGill. Trong chuyến thăm đầu tiên, ban quốc tế của Radio-Canada đã ghi hình cuộc gặp gỡ để phát sóng lại tại Việt Nam. Những cuộc gặp gỡ và tầm nhìn này, tuy dẫn đến sự gia tăng số sinh viên Việt Nam tại UdeM (có 119 người trong năm 1966–1967), đã làm tăng tầm quan trọng của họ và làm phức tạp thêm việc thể hiện họ đơn giản như một nguồn nhân lực đang đào tạo. Chỉ từ những năm 1990 trở đi, chúng mới được coi là nguồn lực kinh tế cho những trường đại học Canada[90].

Một yếu tố khác giải thích sự táo bạo của 11 sinh viên nhận học bổng là việc mở rộng tầm nhìn về những kỳ vọng của họ như những người di cư. Nhận thức được tình trạng có thể của đồng bào mình đang du học ở những nước khác, họ càng thấy sự chênh lệch này khó khăn hơn vì họ “so sánh số phận của mình với sinh viên Đông Dương đang sống ở Pháp và được hưởng rất nhiều tự do”[91]. Trong khi việc nhập tịch ở Canada phức tạp hơn nhiều, những chính sách nhập cư đang dần trở nên linh hoạt hơn, đặc biệt đối với những người đến từ Á châu, điều này mở ra cánh cửa mới cho sinh viên nước ngoài, đặc biệt khi Canada cần nhân sự có trình độ[92]. Sự cởi mở này đặc biệt đúng trong trường hợp nhân viên y tế, có nguy cơ làm xói mòn những mục tiêu của Kế hoạch Colombo và góp phần gây ra tình trạng chảy máu chất xám từ những nước mới nổi sang Canada[93]. Đây là lý do tại sao sinh viên nhận học bổng không được phép ở lại quá thời gian thực tập một năm sau khi học xong, ngay cả khi họ đã xây dựng cuộc sống cho mình ở Canada. Đó là trường hợp của Quản Tú Anh, cựu sinh viên nhận học bổng Colombo và tốt nghiệp École Polytechnique. Sau khi hoàn thành năm thực tập tại Hydro-Québec, ông bị chính phủ Canada đe dọa trục xuất. Tuy nhiên, lúc đó, ông đã kết hôn với Costanza Artero, một sinh viên nước ngoài giống như ông. Họ đã có một đứa con với nhau. Hai vợ chồng đã kháng cáo quyết định này nhưng vô ích; Bộ Nhân lực và Di trú tỏ ra không khoan nhượng: Quản Tú Anh sẽ phải trở về Việt Nam, bất chấp chiến tranh đang hoành hành ở đó, và Costanza sẽ hồi hương về Ý. Đứa con của họ, sinh ra trên đất Canada, có thể sẽ được nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, sự can thiệp trực tiếp của Jean Marchand, Bộ trưởng Bộ Nhân lực và Di trú lúc đó, cho phép hoãn lại quyết định trục xuất[94]. Yếu tố thứ ba liên quan đến khuynh hướng dễ nhận thấy trên khắp Canada là sinh viên nước ngoài thường tụ họp lại với nhau, dưới hình thức hội, tập hợp sinh viên từ cùng một quốc gia hoặc lục địa — đây là trường hợp tại Đại học McGill và Đại học Toronto — hoặc trong những hội liên văn hóa như tại Đại học Montreal. Có thể 11 sinh viên Việt Nam sẽ không đứng lên chống lại những người chịu trách nhiệm về Kế hoạch Colombo nếu họ hành động cá nhân. Bằng cách chia sẻ kinh nghiệm cũng như tổng hợp những bất bình và mong đợi của mình, họ đã lập được được một mặt trận chung. Không gian chia sẻ thân mật này được thành lập cùng năm đó, năm 1959, với việc thành lập Hội Sinh viên Nước ngoài của Đại học Montréal, còn được gọi là Cosmopolis[95]. Hiệp hội, tập hợp những sinh viên từ hàng chục quốc tịch khác nhau, đã trở thành một nhân tố trong chính trường sinh viên trong những năm 1960, bảo vệ chính mình, thách thức những hành động kỳ thị chủng tộc và phân biệt đối xử, và thậm chí thách thức Tổng Hội Sinh viên đầy quyền lực của Đại học Montreal (AGEUM). Rất quan tâm đến Cosmopolis, sinh viên Việt Nam đã sớm tổ chức “Đêm Việt Nam” trong khuôn viên trường, hợp tác với Hội Sinh viên Việt Nam Canada (thành lập năm 1957), yêu cầu chính phủ Quebec cho quyền, được bảo hiểm bệnh viện cho tất cả sinh viên nước ngoài (và không chỉ những người nhận học bổng), và những sinh hoạt đã lập kế hoạch mở cửa cho công chúng, kể cả dịp Tết Nguyên đán.

Chú thích: Sinh viên tại buổi tiếp tân do Amitiés universitaire, một nhóm cổ động trao đổi văn hóa và tôn giáo giữa những sinh viên nước ngoài trong khuôn viên đại học UdeM, tổ chức vào năm 1958. Nguồn: Kho lưu trữ UdeM, D0037/1fp03553–0001.

Nhu cầu khẳng định và giải phóng của tuổi trẻ là một yếu tố khác đã thúc đẩy cuộc nổi dậy của sinh viên Việt Nam. Những sinh viên địa phương, những người liên tục thách thức những cơ quan quyền lực giáo sĩ và bảo thủ của trường Đại học và chính phủ, đã liên tục chỉ trích học thuyết “thay mặt cho bậc cha mẹ” (in loco parentis) trong suốt những năm 1950, mà theo họ là hình thức lạm dụng quyền lực đạo đức coi họ là trẻ con và từ chối công nhận sự đóng góp của cá nhân và tập thể của họ. Mặc dù chỉ mới ở giai đoạn đầu của phong trào khẳng định này, nhưng chúng ta không nên đánh giá thấp việc huy động sớm tại khuôn viên đại học UdeM về vấn đề này, vốn là mũi nhọn của phong trào sinh viên ở Canada và thậm chí cả ở Bắc Mỹ. Đây là nơi diễn ra cuộc tổng đình công đầu tiên của sinh viên tại một trường đại học Canada vào năm 1958, đồng thời cũng là nơi ra đời ý thức hệ về tổng hội sinh viên, vay mượn từ Pháp, tập trung vào quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình và sự tham gia vào xã hội của sinh viên[96]. Sinh viên nước ngoài bị bầu không khí phản kháng này ảnh hưởng, theo một cách nào đó, nó hợp pháp hóa mọi hình thức chỉ trích và yêu cầu đủ loại. Có thể giả định rằng môi trường này khiến cho những ràng buộc mà họ phải chịu trở nên đau đớn hơn – và lỗi thời hơn. Yếu tố thứ năm liên quan đến những phong trào phi thực dân hóa trên khắp thế giới, đang có đà vào cuối những năm 1950 và tìm thấy mảnh đất màu mỡ tại Đại học Montréal, nơi sẽ trở thành một trong những pháo đài đầu tiên của phong trào Quebec Độc lập vào những năm 1960[97]. Có nhiều mối liên kết giữa sinh viên Montréal với sinh viên Cuba và Algeria, tạo ra tình đoàn kết sinh viên vượt biên giới và biến khuôn viên đại học thành nơi để suy ngẫm về tiến trình phi thực dân hóa và đôi khi là nơi vận động[98]. Sinh viên ngoại quốc, những người ngày càng coi mình là “chi nhánh quốc tế” của Trường Đại học, là trung tâm của sự phản ảnh này: họ đã đăng tải những bài báo trên tờ Quartier Latin và tổ chức những cuộc hội thảo và tranh luận về tiến trình phi thực dân hóa nhằm khuyến khích sinh viên địa phương suy nghĩ về sự bất bình đẳng giữa những nước giầu và nghèo[99]. Trước khi Việt Nam, từ giữa những năm 1960, trở thành một trong những vấn đề quốc tế thúc đẩy nhất trong giới sinh viên trên thế giới và ở Canada[100], đã có một vấn đề đáng chú ý về quan niệm viện trợ phương Tây cho sự phát triển của những quốc gia ở phía Nam bán cầu trong cộng đồng địa phương trong giới sinh viên nước ngoài. Trên thực tế, bằng cách gợi ý rằng họ biết rõ, thậm chí còn rõ hơn cả người phương Tây, về nhu cầu của đất nước họ, 11 sinh viên Việt Nam đã chạm đến sự nhậy cảm của những người ủng hộ viện trợ quốc tế một chiều[101]. Theo nghĩa này, sự đối đầu giữa sinh viên Việt Nam và giới chức hữu trách của Kế hoạch đã báo trước sự căng thẳng giữa những tổ chức tài trợ và những nước nhận về việc phân phối viện trợ quốc tế, vốn sẽ bị chỉ trích vì tính cứng nhắc và không phù hợp với tình hình địa phương trong những thập niên tiếp theo[102].

Phần kết luận

Bằng cách nghiệm xét trường hợp của sinh viên Việt Nam tại Đại học Montréal, trong bài viết này, người viết đã thấy rằng Kế hoạch Colombo đã đẩy giới hạn của lòng hiếu khách của Canada bằng cách khuyến khích chính quyền Canada và những trường đại học đưa ra hai yêu cầu: một là cung cấp chương trình đào tạo thích hợp cho sinh viên nhận học bổng; cách còn lại liên quan đến việc tiếp biến họ theo trật tự văn hóa, giữa Chiến tranh Lạnh—và vào thời điểm viện trợ quốc tế của Canada đang gia tăng—để thấm nhuần vào họ “những giá trị phương Tây”, đặc biệt là đạo đức làm việc mà theo những người trong giới chức hữu trách, có thể đóng vai trò như một nền tảng văn hóa, liều thuốc giải độc cho tính trì trệ và vô tổ chức mà họ gán cho những người mà họ vẫn gọi là “Người phương Đông”. Phúc trình cho bốn cơ quan hữu trách (của đất nước họ, của Canada, của Kế hoạch Colombo và của trường đại học chủ nhà của họ) với những mục tiêu không phải lúc nào cũng thống nhất, những sinh viên nhận học bổng phải tuân theo những quy tắc làm giảm đáng kể khả năng xoay sở của họ. Vào thời điểm mà học thuyết “Thay mặt cho bậc cha mẹ” (in loco parentis) vẫn thống trị ở đại học, những cố vấn, quản trị viên và những viên chức chăm sóc họ đã áp dụng nhiều cách xử trí khác nhau, một số thông cảm hơn và một số khác nghiêm khắc hơn để hướng dẫn họ. Giống như những nhóm khác ở Canada, sinh viên ngoại quốc nhận ra rằng lòng hiếu khách của người Canada phụ thuộc vào lòng biết ơn vô hạn của họ, và sự sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện của đất nước chào đón họ. Theo nghĩa này, họ đã thử thách “hình ảnh của Canada như một cường quốc theo chủ nghĩa quốc tế nhân đạo”[103], quốc gia vào thời điểm đó đang tôn vinh vị thế của mình như một “siêu cường về đạo đức”[104]bằng cách lợi dụng sự tương phản với hỗ danh hiếu chiến của chính quyền Mỹ. Sinh viên ngoại quốc, vì họ là phần tử liên đới trong quan hệ quốc tế và trong trường đại học chủ nhà, nên là đối tượng đặc quyền để đặt câu hỏi về những nhãn hiệu này. Người viết đã cho thấy rằng từ đầu đến cuối những năm 1950, nhiều biến đổi trong thế giới hàn lâm và trật tự quốc tế đã khiến việc áp dụng cứng nhắc những quy tắc của Kế hoạch Colombo trở thành vấn đề. Vào thời điểm những phong trào phi thực dân hóa đang trên đà phát triển, những phong trào thanh niên sắp khẳng định mình, những quy định nhập cư Canada ngày càng linh hoạt, những sinh viên được nhận học bổng không chịu mù quáng tuân theo những gì mong đợi ở họ. Họ tập hợp lại, tranh luận và bộc lộ thái độ, đôi khi công khai phân biệt chủng tộc – cuộc bạo loạn của sinh viên nước ngoài tại Đại học Sir George William năm 1969 đã minh họa đầy đủ điều này[105] – đối với họ, đồng thời từ chối giảm xuống thành nguồn nhân lực đơn giản có nhiệm vụ chứng minh tính hợp lệ của hệ thống tư bản chủ nghĩa ở Á châu. Họ thể hiện quyền tự quyết để yêu cầu sự tôn trọng và đề cao tư cách đại sứ không chính thức cho đất nước họ, vào thời điểm mà mối quan hệ giữa những nước giàu và những nước ở Nam bán cầu, tuy vẫn còn rất bất bình đẳng, đang bị nghi ngờ hơn bao giờ hết.

Tác giả | Sau khi hoàn tất chương trình Tiến sĩ tại Đại học Montreal và EHESS (Paris), tác giả đang làm việc nghiên cứu hậu tiến sĩ tại Đại học Toronto. Những lãnh vực ông quan tâm là lịch sử những phong trào sinh viên ở Canada, Pháp và Mỹ, nhận thức luận về lịch sử, kinh nghiệm về thời gian của giới trí thức và thực hành lịch sử xuyên quốc gia. Trang cá nhân của tác giả đặt tại danielpoitras.net.


Trong giai đoạn đầu của thời kỳ căng thẳng địa chính trị trong Chiến tranh Lạnh Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, Kế hoạch Colombo Canada/Úc, Chương trình Học bổng Lãnh đạo (“Leadership Scholarship Program” ) và những học bổng khác của Mỹ có đạt được mục tiêu đã định khi gởi sinh viên và nhận sinh viên du học từ thập niên 1950 đến thập niên 1970 hay không?

Trong biên khảo “Des mots et des commandements déplacé” của Daniel Poitras, ông nhắc đến mục tiêu của chính phủ đệ nhất Việt Nam Cộng hoà là chống cộng sản, chống kém phát triển và chống mất đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất nước. Mục tiêu của chính phủ đệ nhị Việt Nam Cộng hoà có lẽ cũng không khác.

Kế hoạch Colombo thành lập năm 1950 với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội ở Á Châu và Thái Bình Dương. Kế hoạch này nhằm xoá đói giảm nghèo được cho là động cơ để chủ nghĩa cộng sản trong khu vực phát triển. Kế hoạch Colombo tập trung vào việc cổ động phát triển kinh tế hợp tác và phát triển nguồn nhân lực bằng viện trợ giáo dục và đào tạo tài năng kỹ thuật.

Drs. Donald, J. Brown, Dale Hendrickson, Robert McKnight, “The Vietnam Scholarship Program, Third Cycle 1969-70, Report Of The Project Analysis Team, May 1970

Tiếp nối những dự án trao đổi giáo dục trước đó giữa Mỹ và Việt Nam Cộng hoà, Chương trình Học bổng Lãnh đạo của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID hay AID) nhằm đào tạo giới lãnh đạo tương lai của Việt Nam Cộng hoà, mang lại cơ hội được du học tại Mỹ, cổ xúy dân chủ và phát triển Việt Nam Cộng hoà, tạo điều kiện phù hợp với những mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh mà ngăn chận là sóng đỏ là ưu tiên hàng đầu. Trong 4 năm 1967-1970 sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID gồm 4 nhóm: 1967, Nhóm I, 105 sinh viên, 1968 Nhóm II, 61 sinh viên, 1969 Nhóm III, 55 sinh viên (Drs. Donald, J. Brown, Dale Hendrickson, Robert McKnight, “The Vietnam Scholarship Program, Third Cycle 1969-70, Report Of The Project Analysis Team, May 1970); Nếu số sinh viên du học năm 1970 trong Nhóm 4 ở trong khoảng 50 người hay hơn một chút thì tổng số sinh viên trong chương trình nay khoảng 271 đến 300. Chương trình Học bổng Lãnh đạo AID còn nhằm mục đích “cổ xuý chính sách của Mỹ bằng cách thấm nhuần hình ảnh tích cực của Mỹ vào tâm trí sinh viên”, xa hơn nữa là mục tiêu “Việt Nam hóa” và đồng thời thay thế ảnh hưởng của Pháp ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy chính sách gởi sinh viên và nhận sinh viên du học chính phủ VNCH , Kế hoạch Colombo cũng như chương trình Học bổng Lãnh đạo và những học bổng khác của Mỹ cho Việt Nam có hai mục đích chung là đào tạo nhân tài để giúp phát triển một nước Việt Nam Cộng hoà tự do, dân chủ và chống cộng sản.

Lập trường chính trị của sinh viên du học

Khó thể biết quan điểm chính trị của từng cá nhân những sinh viên miền Nam Việt Nam du học như thế nào nhưng một điểm chắc chắn, tất cả họ đều là công dân nước VNCH, con cháu của những gia đình quân nhân, công chức, tiểu thương bậc trung. Việt cộng nằm vùng/gián điệp đôi như Phạm Xuân Ẩn đi du học với học bổng của bộ Ngoại giao Mỹ năm 1956 là trường hợp hi hữu (Dennis Hevesi, Pham Xuan An Dies at 79; Reporter Spied for Hanoi, The New York Times, September 22, 2006.)

Nếu xét đến một số điều kiện để được cấp học bổng người ta sẽ thấy rõ hơn về thân thế của sinh viên du học.

Theo Nguyet Nguyen trong luận văn “Accidental Activists: USAID Builds a Vietnamese Antiwar Elite.” (Diplomatic History 46:3 (June 2022): 549-574), sau đây là những điều kiện để học sinh Việt Nam được cấp Học bổng Lãnh đạo của AID: là học sinh ưu tú, tiềm năng lãnh đạo, cam kết chống Cộng (hoặc ít nhất là có chính kiến trung lập) và lòng trung thành với quốc gia. Mặc dù hai điểm cuối cùng chưa bao giờ được liệt kê rõ ràng là điều kiện, nhưng sinh viên cần phải hội đủ những điểm đó để được cấp học bổng. Tác giả cũng cho biết, tỉ lệ tuyển chọn của chương trình này rất nhỏ—nhiều bậc cha mẹ coi đây là một cách để con cái họ không phải đi quân dịch, không phải tòng quân. Dù USAID đã hứa để chính phủ VNCH giữ quyền kiểm soát tiến trình tuyển lựa sinh viên, cơ quan này vẫn có thể có quyết định đơn phương vào phút cuối.

Trong khi một số sinh viên được chọn vì là học sinh ưu tú và cam kết cá nhân chống Cộng sản, thì cũng có một số những sinh viên khác có được học bổng thuộc gia đình con ông cháu cha, trong giới quyền lực hoặc học sinh được ưu đãi.

Được ưu đãi là trường hợp của 55 sinh viên Nhóm III Học bổng của AID, du học năm 1969.

Tất cả đều là học sinh quốc gia nghĩa tử (“Wards of the Nation” và “War orphans”) đỗ tú tài II; Chương trình học bổng cho Nhóm III gọi là chương trình “Học bổng” (Scholarship) chứ không còn như tên gọi cho hai Nhóm I và II là chương trình “Học bổng Lãnh đạo” (Scholarship for Leadership); sinh viên Nhóm III tương đối không đủ khả năng Anh ngữ với trình độ đọc, viết và nói tiếng Anh hạn chế. Điểm bài kiểm tiếng Anh ALI/GU (Viện Ngôn ngữ Mỹ/Đại học George Washington) của họ thấp hơn nhiều so với điểm của hai nhóm I và II. Trong giai đoạn định hướng sinh viên mới đến, tại 4 California State Colleges ở Fullerton, Sacramento, San Diego, và San Jose đều có những cuộc biểu tình của sinh viên phản chiến đang diễn ra. (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 1-3). Những “California State Colleges” thành lập từ đầu thập niên 1960, đến 1972 đổi danh xưng là “The California State University and Colleges”, sau cùng trở thành “The California State University” (CSU) vào năm 1982. (History | The California State University)

Sinh viên Học bổng AID, Nhóm III gồm toàn sinh viên năm thứ nhất với điểm học trung bình ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với hai nhóm sinh viên trước đó. Duyệt xét kết quả bậc trung học của họ cho thấy 3 sinh viên trong nhóm đã không hội đủ những điều kiện lấy bằng Tú tài II. Trong số những học sinh còn lại, 20% (11 sinh viên) không đủ trình độ để theo học tại một trường Đại học Tiểu bang California vì hạng điểm Tú Tài II thấp (dưới 10). Ngoài ra, 20 học sinh (36%) chỉ có thể được coi là đủ điều kiện tối thiểu để theo học đại học vì điểm Tú tài II của họ chỉ trong khoảng 10-11 [hạng thứ?] Vì vậy, hơn một nửa số sinh viên Học bổng Nhóm III có trình độ trung học đáng nghi ngờ. Xét về khả năng tiếng Anh bằng kết quả bài thi TOEFL, không có sinh viên nào trong Nhóm III có đủ điều kiện, trên nguyên tắc, để được nhận vào các trường Đại học Tiểu bang California. Vì trách nhiệm theo hợp đồng là phải xem liệu nhóm học sinh này có thể theo học đại học bất kể kết quả bài thi đủ tiêu chuẩn hay không, 4 trường Đại học Tiểu bang đã bỏ điều kiện này. (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 13.)

Dĩ nhiên tiêu chuẩn để sinh viên có thể nhận những học bổng khác (Kế hoạch Colombo, Quốc gia) hay điều kiện để sinh viên đi du học tự túc không giống y như những tiêu chuẩn của Học bổng Lãnh đạo AID nhưng hẳn không thể nào giống như tiêu chuẩn dành cho những sinh viên Học bổng AID Nhóm III. Tiêu chuẩn tuyển chọn sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID nhóm III của Bộ Giáo Dục VNCH có vấn đề.

Nếu những sinh viên nhận học bổng du học cam kết chống Cộng hoặc ít nhất có lập trường trung lập, và trung thành với quốc gia, hay là học sinh quốc gia nghĩa tử, tại sao sinh viên VNCH du học, nói chung, thường mang tiếng là những người thân cộng sản, phản chiến?

Tuy không có thống kê chính thức nhưng kiến thức lịch sử cho thấy có một số sinh viên Việt Nam du học Pháp từ những năm 1950 đến 1975 ủng hộ cộng sản và phản chiến vì những yếu tố sau đây:

• Mối quan hệ lịch sử: Pháp đô hộ thuộc địa Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1954, dẫn đến những liên hệ lịch sử và văn hóa bền chặt. Nhiều sinh viên Việt Nam tại Pháp chịu ảnh hưởng của tư tưởng trí thức và chính trị Pháp, thường gồm những ý thức hệ cánh tả của Jean-Paul Sartres, Simone de Beauvoir, Merleau-Ponty, Michel Foucault, v.v..

• Môi trường chính trị: Những năm 1960 và 1970 là thời kỳ có nhiều biến động chính trị đáng kể trên thế giới, với nhiều phong trào sinh viên ủng hộ công bằng xã hội, phản chiến và ủng hộ ý thức hệ cộng sản.

• Cộng đồng người Việt: Cộng đồng người Việt ở Pháp là một cộng đồng lớn không thuần nhất, hiện hữu từ khi Pháp đưa khoảng 50.000 người Việt Nam sang làm lính thợ cho Pháp trong thế chiến thứ nhất, một số ủng hộ cộng sản, số khác phản đối. Sự phân chia này cũng có trong cộng đồng sinh viên, với nhiều sinh viên theo phong trào ủng hộ cộng sản và phản chiến.

• Cơ hội giáo dục: Pháp cấp nhiều học bổng và cơ hội du học cho sinh viên Việt Nam, thu hút nhiều người trẻ vốn có thiện cảm với ý thức hệ cánh tả.

Những yếu tố này kết hợp lại đã tạo nên tâm lý ủng hộ cộng sản và phản chiến đáng kể trong cộng đồng sinh viên Việt Nam tại Pháp trong thời gian này.

Nguyễn Ngọc Giao (1940-). Có thể coi NNG là nhân vật tiêu biểu cho sinh viên VNCH du học thân cộng và nổi tiếng nhất tại Pháp. Trong bài phỏng vấn đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần (27/01/2023) Ông cho biết đã “theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Năm 1958, đỗ thủ khoa tú tài, được ‘giải thưởng Ngô Tổng thống’ và học bổng sang Pháp du học.” Do ảnh hưởng của Jean-Paul Sartre, Louis Aragon, Alfred Kastler, v.v. trong việc ủng hộ cuộc chiến giành độc lập của Algeria (1954-1962), anh sinh viên 22 tuổi đã “giác ngộ chính trị trong phong trào chống đế quốc” đó. Trao đổi với người viết, Vũ Thư Hiên nhận xét và cho rằng NNG là người lý luận Maxist rành rọt nhất trong cộng đồng Việt Nam thân cộng ở Pháp. Cuối năm 1967 NNG đã được Bắc Việt đề nghị “nằm vùng” trong hàng ngũ Việt Nam Cộng hoà. NNG là người phiên dịch cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày đầu cuộc đàm phán Mỹ – Việt, 13-5-1968. Khi NNG chọn hoạt động công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phản chiến, chống đế quốc bên cạnh những Chế Lan Viên, Nguyễn Thị Bình, Hoàng Minh Giám, v.v. thì bạn đồng môn Chu Văn An của ông là Hạm trưởng Vũ Hữu San chỉ huy Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 ra Hoàng Sa trong trận hải chiến ngăn chận Trung Cộng xâm lăng chiếm biển đảo Việt Nam vào trung tuần tháng 1, 1974.

Tỉ lệ sinh viên VNCH ở Pháp thân cộng và đã trực tiếp hay gián tiếp làm việc cho cộng sản như Nguyễn Ngọc Giao là bao nhiêu? Không có thống kê, nhưng người viết tin rằng đó là một tỉ lệ nhỏ dù có thể lớn hơn ở Mỹ, Canada, hay Úc. Một số khác có thể vẫn âm thầm thân cộng, phản chiến nhưng không ồn ào khi tham dự những sinh hoạt nhóm.

Ngô Vĩnh Long (1944-2022). Tương tự, ở Mỹ, theo Chris Norlund, “The First Vietnamese to Attend Harvard” (Migration Letters, Volume: 2, No: 1, pp. 64 – 82. April 2005. ISSN: print: 1741-8984 & online: 1741-8992), sinh viên VNCH phản chiến, thân cộng nhưng chưa hề cộng tác với Cộng sản Việt Nam khi đi học, nổi tiếng nhất là Ngô Vĩnh Long (NVL); NVL là sinh viên VNCH đầu tiên được học bổng của đại học Harvard và cũng là sinh viên VNCH đầu tiên lên tiếng phản đối chiến tranh Việt Nam trên đất Mỹ bên cạnh Howard Zinn và Noam Chomskyh. Nhờ vợ của Đại sứ Mỹ Maxwell Taylor lúc đó can thiệp lấy được chiếu khán xuất ngoại cho ông sang Mỹ lúc 20 tuổi, vào giữa tháng 10, năm 1964; trước đó Long không được chính phủ VNCH chấp thuận cho đi Mỹ dù đã có học bổng của Havard. NVL đã làm việc với Toà Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, năm 1959 được gởi đi học về cách lập bản đồ ở Phillippines. Nhờ chỗ quen biết với người Mỹ, năm 1963 Long đã đi học ở Joplin, Missouri 7 tháng trong chương trình trao đổi học sinh và có cơ hội xin học bổng ở đại học Harvard và trở Việt Nam năm 1964.

Hoạt động phản chiến của NVL gồm cả việc xuất bản bản tin hàng tháng Thời Bảo Gà và nói đó là “bản tin lâu dài nhất của phong trào hòa bình, nó kéo dài sáu năm.”

Thứ hai là cuộc chiếm đóng toà Lãnh sự VNCH tại New York ngày 10 tháng 2 năm 1972, phản đối “Kế hoạch hòa bình ở Việt Nam” của Nixon ban hành ngày 25 tháng 1 năm 1972. Như họ đã biết trước, 11 sinh viên tham gia cuộc chiếm đóng đều bị bắt: Tran Khanh Tuyet, Lê Anh Tú, Nguyễn Hội Chân, Đoàn Hồng Hải, Ngô Vĩnh Long, Nguyen Thi Ngoc Thoa, Nguyen Huu An, Nguyễn Thái Bình, Tran Vu Dung, Vũ Ngọc Côn, Nguyen Tang Huyen.

Thứ ba là cuộc chiếm đóng văn phòng kéo dài 3 giờ ở đại học Nam Illinois (SIU) ngày 26/4/1972 do Ngô Vĩnh Long lãnh đạo được mệnh danh là “cuộc xâm lăng của người Việt”. Họ đòi chính phủ VNCH thả tù nhân chính trị và dỡ bỏ chế độ Nguyễn Văn Thiệu, “công cụ đàn áp dã man”; đây là đỉnh điểm của những cuộc biểu tình kéo dài hai năm chống lại việc SIU nhận tài trợ AID—được coi là để yểm trợ chiến tranh ở Việt Nam. Thành phần tham dự gồm 8 sinh viên đã có mặt trong cuộc chiếm đóng tòa Lãnh sự ở New York, Lê Anh Tú, Nguyen Huu An, Nguyễn Thái Bình, Tran Khanh Tuyet, Đoàn Hồng Hải, Tran Vu Dung, Ngô Vĩnh Long, và Vũ Ngọc Côn. Những sinh viên khác tham gia chiếm đóng SIU là David Truong, Vũ Quang Việt, Đỗ Hoang Khánh, and Nguyễn Triệu Phú. (Ly Thuý, Nguyễn, “Thái Bình Means Peace”: (Re)positioning South Vietnamese Exchange Students’ Activism in the Asian American Movement, Augsburg University, USA International Journal of Communication, Vol 16 (2022) 4602–4618)

Nổi tiếng ở bờ Đông nước Mỹ là người phản chiến và phản đối sự có mặt của Mỹ tại Việt Nam không giúp gì cho sự nghiệp của NVL. Dù là giáo sư thực thụ khoa Sử tại Đại học Maine, nhưng có lẽ ước mong của ông là được dậy học ở Harvard hoặc tại một trường đại học nghiên cứu lớn khác. Cái nhãn “cộng sản” là con ma ám ảnh và dìm sự nghiệp của NVL dù chính ông đã xác nhận ông không phải là cộng sản. (Chris Norlund, tài liệu đã dẫn)

Trong bài truy điệu, đồng nghiệp tại Đại học Maine, Nguyễn Thuỳ An và Giáo sư Douglas Allen đã viết: “Sống đúng với niềm tin của mình, Ngô Vĩnh Long đã làm việc cho một nước Việt Nam dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Ông ấy đã làm việc vì một Việt Nam đa dạng, bao gồm và toàn nhân bản.” (Jonathan P. Baird, “An appreciation of Ngo Vinh Long”, Concord Monitor, 05-02-2023.)

một nước Việt Nam dân chủ và xã hội chủ nghĩa” hiện là một mệnh đề nghịch lý; “một Việt Nam đa dạng, bao gồm và toàn nhân bản” đến nay vẫn chỉ là một viễn cảnh không tưởng.

Sinh viên Học bổng lãnh đạo AID

Sinh viên du học với học bổng Leadership của USAID. Nhóm II vừa đến phi trường Los Angeles, 28 tháng 3, 1968. Nguồn: Tổ chức Sinh viên Học bổng Leadership.

Nguyễn Thái Bình (1948-1972). Một cựu học sinh Petrus Trương Vĩnh Ký, sinh viên VNCH du học, thân cộng, phản chiến nổi tiếng khác là Nguyễn Thái Bình (NTB). NTB là sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II, học Kỹ sư Công nghệ ở California State College ở Fresno (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 56). Ông là một trong 61 sinh viên Học bổng Lãnh đạo của AID nhóm II đến Mỹ ngày 29 tháng 3, 1968, hai tháng sau khi Việt Cộng mở trận tổng công kích Tết Mậu Thân, và giữa cao trào sinh viên phản chiến chống đế quốc tại đây. Trong năm cuối, trước khi tốt nghiệp, NTB đã tham dự cả hai cuộc chiếm đóng Toà Lãnh sự VNCH ở New York và văn phòng của đại học SIU.

Ngay sau vụ sinh viên chiếm đóng Toà Lãnh sự ở New York, chính phủ VNCH đã yêu cầu cơ quan USAID hủy học bổng của những sinh viên đang nhận Học bổng Lãnh đạo. Họ dẫn quyền tự do ngôn luận trong Hiến pháp Mỹ và dưới áp lực ngày càng lớn của công chúng, USAID đã cấp lại học bổng với điều kiện phải trở về Việt Nam sau khi tốt nghiệp. (Ly Thuý, Nguyễn, tài liệu đã dẫn).

Với những sinh viên phản chiến đã bị bắt vì phạm pháp, cơ quan USAID rất vớ vẩn khi lập lại điều kiện để họ tiếp tục theo học, “trở về Việt Nam sau khi tốt nghiệp”, đã có từ đầu khi cấp học bổng.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Quản trị Nghề cá hạng danh dự tại Đại học Washington, ngày 26 tháng 5 năm 1972, và chiếu khán du học hết hạn, NTB gởi 2 bức thư ngỏ, đánh máy, qua Trung tâm Tài nguyên Đông dương ở thủ đô Washington, đề ngày 1 tháng 7, 1972, gởi đến Tổng thống Mỹ Richard Nixon và bức thứ hai gởi “những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới”, NTB viết:

“Trở về quê nhà để đứng trong hàng ngũ của người Việt trong cuộc đấu tranh cứu nước, tham gia kháng chiến chống xâm lăng Mỹ, để khẳng định tính đúng đắn của chính nghĩa của chúng tôi, để hiến dâng cho những chiến sĩ tự do của Việt Nam, những người còn sống và đã chết, để củng cố niềm tin về một chiến thắng có thể giành được của nhân dân [Việt Nam] chúng tôi.”

Nguồn: “Viet Thai-Binh open letter regarding resistance to the Vietnam War, July 1, 1972”, University of Washington Libraries. Special Collections, PNW03322

Kết quả NTB bị bắn chết trong vụ cướp máy bay PAN American Airways 747 ngày 3 tháng 7, 1972.

Gần 38 năm sau, ngày 23 tháng 2, 2010 ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, đã ký quyết định số 212/QĐ-CTN về việc truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong danh sách đính kèm ở phần II, “Truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Mỹ”, cùng với Nguyễn Văn Lém (Bảy Lớp), số 72 là “Liệt sỹ Nguyễn Thái Bình, nguyên Sinh viên Việt Nam du hoc tại Mỹ. Quê: xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.” (Trần Giao Thủy, “Khủng bố hay anh hùng?DCVOnline, 25 tháng 2, 2015.)

Trong khi một số trong giới phản chiến ở Sài Gòn coi NTB là biểu tượng phản chiến thì những sinh viên du học ở Mỹ (cả sinh viên phản chiến và những người giữ quan điểm trung lập về chính trị) lo ngại rằng NTB đã một tay làm hoen ố danh tiếng của họ.

Nguồn: Liberation News Service #491, January 6, 1973

Sau đây là hoạt động phản chiến và cảm nghĩ của của vài sinh viên nhận Học bổng Lãnh đạo AID trích dịch từ bản tin tựa đề “Vietnamese in the United States: Risking Jail to Protest the War” của Karen Wald gởi cho Giải phóng Thông tấn xã (Liberation News Service, LNS) số 491, 6 tháng 1, 1973. Giải phóng Thông tấn xã là một cơ quan thông tấn phản chiến bí mật, cánh tả mới, chuyên phân phối tin tức và hình ảnh cho hàng trăm tờ báo bí mật, và cấp tiến từ năm 1967 đến năm 1981. Được coi là “AP” cho làng báo bí mật, vào thời kỳ đỉnh cao, LNS đã là nguồn tin của hơn 500 tờ báo.Thành lập ở Washington, D.C., phần lớn LNS hoạt động ở Thành phố New York trong những năm hiện hữu.

Vũ Ngọc Côn (VNC, 1948-), sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II, học Kỹ sư Cơ khí ở California State College ở Fresno (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 56); VNC cùng tuổi với NTB khi đến Mỹ, cùng tham gia cuộc chiếm đóng toà Lãnh sự VNCH ở New York vào tháng 1, 1972 và cuộc chiếm văn phòng đại học SIU tháng 4 cùng năm. Sau 2 năm học ở Fresno State College, ông chuyển đến Northrop Institute of Technology gần Los Angeles học kỹ sư. Là con gia đình công chức không tham gia bầu cử năm 1967 vì cho rằng đó là cuộc bầu cử gian lận những chưa hề tham gia biểu tình chống chính phủ ở Sài Gòn. VNC nói,

“Khi nộp đơn xin học bổng AID tôi nghĩ học kỹ sư ở Mỹ rồi trở về Việt Nam tôi sẽ giúp tái thiết Việt Nam và giúp đỡ anh em trong gia đình. Nhưng sau 1 năm rưỡi ở đây tôi nhận thấy mình phải nhập cuộc đấu tranh chính trị cho nhân dân Việt Nam.”

VNC nhận được thư của AID cho hay chính phủ VNCH yêu cầu chính phủ Mỹ chấm dứt học trình của ông trong chương trình Học bổng Lãnh đạo và AID đã chấm dứt học bổng của ông ngày 1 tháng 7, 1972.

Đoàn Thị Nam-Hậu (ĐTNH, 1949-). Sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II, học Báo chí tại California State College ở Long Beach (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 55); Bà sang Mỹ năm 19 tuổi, ĐTNH xuất thân từ miền đồng bằng sông Cửu Long; Cha của ĐTNH là công chức bộ Tài chánh sau đó có lúc là dân biểu quốc hội. ĐTNH là sinh viên theo học tại Long Beach State College. Sau một thời gian ở Mỹ, ĐTNH bắt đầu lên tiếng phản chiến, chống Mỹ oanh tạc Hải Phòng trong một cuộc họp báo chúng với sinh viên trường Fullerton. Sau đó ĐTNH tham dự cuộc tọa kháng trước Toà lãnh sự VNCH tại San Francisco. Cha mẹ ĐTNH được cảnh sát mời ra giải thích về hành động của con gái. Học bổng của ĐTNH bị hủy bỏ. Ngày 12 tháng 11, 1972, ĐTNH nhận giấy báo của Cơ quan Di trú cho biết phải có mặt trong phiên toà trục xuất.

Vũ Quang Việt (VQV). Sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II, học Kinh tế tại California State College ở San Jose (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 57). VQV mồ côi cha từ năm 1948 là con gia đình Thiên Chúa giáo di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, sống ở vùng Gia Định. Tuy là giáo dân di cư nhưng gia đình VQV không chống cộng và không ủng hộ chính phủ VNCH. Chị VQV chết trong kháng chiến chống Pháp, anh VQV chết trong Cuộc Hành quân Hạ Lào (1971). Khi nộp đơn xin hoc bổng, VQV nói ông rất phản chiến nhưng không có quan điểm chính trị rõ rệt nên coi mình thuộc thành phần “trung lập”. Nhưng VQV thay đổi lập trường vì

“Nhưng khi ở đất nước này, tôi có thể thấy đó là một cuộc giết chóc có hệ thống, một chính sách có hệ thống của Mỹ nhằm tiêu diệt người dân Việt Nam và hủy hoại môi trường của Việt Nam.”

VQV tham gia cuộc chiếm đóng văn phòng đại học Nam Illinois (SIU) tháng 4, 1972 và rất nhiều cuộc biểu tình phản chiến khác.

Nguyễn Tang Huyen, sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II, học Kinh tế tại California State College ở San Jose (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 57) cũng là một sinh viên tham gia cuộc chiếm đóng Toà lãnh sự VNCH ở New York vào tháng 1, 1972 cùng với Côn, Nam-Hậu, Việt đều phải đối phó với việc có thể bị trục xuất. Nhưng vì áp lực của công chúng, Cơ quan Di trú Mỹ đã đình chỉ những phiên toà trục xuất và AID đã cấp lại học bổng cho những sinh viên này. (Ly Thuý, Nguyễn, tài liệu đã dẫn)

Như đã biết ủng hộ công bằng xã hội, phản chiến và ủng hộ ý thức hệ cộng sản là một phong trào của ở thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 bắt nguồn từ Pháp và được khối sinh viên Mỹ để ý đến vì phong trào phản chiến Việt Nam. Phong trào phản chiến ở Mỹ, trong Chiến tranh Việt Nam, là một phong trào xã hội quan trọng trong lịch sử nước Mỹ. Nó bắt đầu vào đầu những năm 1960 với những nhóm sinh viên theo chủ nghĩa hòa bình và sinh viên hoạt động; đến cuối những năm 1960, phong trào này đã thu hút được nhiều thành phần đa dạng khác, kể cả sinh viên Việt Nam đang theo học tại đây. Những sự kiện quan trọng đáng kể chẳng hạn như Cuộc tuần hành ở Washington năm 1967 và Lệnh tạm hoãn đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam năm 1969. Phong trào này cũng dẫn đến những cuộc phản đối quân dịch, với nhiều thanh niên đốt thẻ quân dịch, vượt biên giới sang Canada lẩn trốn. Phong trào này đã ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng, qua âm nhạc, nghệ thuật và văn học phản ảnh tình cảm phản chiến. Nó là một động lực lớn và quan trọng trong việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam và kết thúc chính sách đi quân dịch năm 1973.

Ảnh hưởng của phong trào phản chiến cũng tràn sang Canada (gọi là phong trào Hoà bình) và Úc nhưng ở một mức độ thấp hơn. Tại Canada cuối những năm 1960, phong trào hòa bình ở Canada đã tập hợp lại để chống Chiến tranh Việt Nam và sự thất bại của Canada trong việc tránh xa những chính sách của Mỹ về Việt Nam. Thực tế những năm 1970 là thời kỳ Liên Xô xây dựng và tích lũy vũ khí hạch tâm một các đáng kể, nhưng khối sinh viên tương đối yên tĩnh không có sự phản đối ầm ĩ.

Ở Úc, phong trào phản chiến phát triển đáng kể trong giai đoạn này, đặc biệt chống lại việc cưỡng bách tòng quân và sự tham gia của Úc vào Chiến tranh Việt Nam. Những sự kiện đáng kể là cuộc biểu tình tạm ngừng hoạt động ở Việt Nam đầu tiên diễn ra vào ngày 8 tháng 5 năm 1970 và là cuộc biểu tình công khai lớn nhất trong lịch sử Úc vào thời điểm đó. Phản đối Đạo luật Nghĩa vụ Quốc gia năm 1964 yêu cầu nam giới 20 tuổi phải tòng quân, dẫn đến những cuộc biểu tình chống đối. Giới chính khách lao động và những nghiệp đoàn tranh đấu đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào phản chiến.

Những phong trào này đều được thúc đẩy do mong muốn hòa bình và từ chối can thiệp quân sự, phản ảnh sự phản đối Chiến tranh Việt Nam trên toàn cầu.

Số sinh viên du học thiên cộng, phản chiến

Nhưng ở Mỹ, Canada, Úc thì con số sinh viên du học ngả sang ủng hộ cộng sản là bao nhiêu?

Mỹ

Những sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II khác cùng tham gia chiếm đóng Toà Lãnh sự VNCH ở New York vào tháng 1, 1972 gồm Nguyễn Hữu An, sinh viên Kỹ sư Điện, Fresno, Đỗ Hoang Khánh, sinh viên Quản trị xí nghiệp, Fresno. (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970). Nguyễn Triệu Phú là 1 trong những sinh viên chiếm đóng văn phòng đại học Nam Illinois vào tháng 4, 1972 là sinh viên du học tự túc tại San Diego, California (Trao đổi cá nhân với một cựu sinh viên AID, 2024.)

Trong số những người Việt Nam thân cộng, phản chiến tham dự hai cuộc chiếm đóng Toà Lãnh sự VNCH ở New York, ngoài Lê Anh Tú, đến Philadelphia vào năm 1960, làm việc với Ủy ban Dịch vụ Bạn hữu Mỹ (American Friends Service Committee), Ngô Vĩnh Long sinh viên học bổng Harvard, Nguyễn Triệu Phú, sinh viên du học tự túc, Tran Khanh Tuyet, Nguyễn Hội Chân, Đoàn Hồng Hải, Nguyen Thi Ngoc Thoa, Tran Vu Dung, theo danh sách Ly Thuý Nguyễn liệt kê (Ly Thuý Nguyễn, tài liệu đã dẫn (2022), trang 4611) thì chỉ có 6 trên tổng số 61 hay 10% sinh viên trong Học bổng Lãnh đạo AID Nhóm II chọn con đường thân cộng và tích cực phản chiến, phạm pháp, bị bắt gọi ra toà dù không bị trục xuất. Con số 6 sinh viên Nhóm II thân cộng và phản chiến trên tổng số 271-300 sinh viên nhận Học bổng AID là một tỉ lệ nhỏ, khoảng 2%.

“Thư ngỏ gửi Việt Kiều về đàn áp SVVN ở trong nước và ngoài nước” đăng trong BẢN TIN ĐẶC BIỆT về việc ĐÀN ÁP SINH VIÊN ở trong và ngoài nước của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tháng 7, 1972, do Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-Na-Da phát hành có đoạn viết,

“Chính quyền SG đã gọi 7 sinh viên về nước, đồng thời toà Đại sứ tại Washington gọi dây nói đến một số sinh viên khác để khủng bố tinh thần. Các sinh viên bị gọi về nước đã cực lực lên án hành động hèn hạ của chính quyền SG và cương quyết ở lại tiếp tục hoạt động. Trong số 7 SV đó có một SV, anh Nguyễn Thái Bình đã quyết định trở về nước ‘để đứng vào hàng ngũ nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà’. (thư gởi tổng thống Nixon – N.T.B.)”

Nguồn: “Chính quyền đàn áp sinh viên trong và ngoài nước”, Tiền Phong, DCVOnline, 18 tháng 6, 2015

Chính phủ Mỹ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan khi chính phủ VNCH yêu cầu USAID cắt học bổng, cân bằng giữa nhu cầu ngăn chặn sinh viên công khai phản chiến và trừng phạt sinh viên bày tỏ lập trường chính trị. Ngoài ra, việc cho phép sinh viên phản chiến ở lại có thể được coi là công nhận VNCH đàn áp sinh viên. Cuối cùng, chính phủ Mỹ đã cho những sinh viên phản chiến đó ở lại vô thời hạn. (Nguyet Nguyen, Tài liệu đã dẫn)

Nhưng nếu chỉ nhắc đến những Nguyễn Thái Bình, Vũ Ngọc Côn , Đàm Thị Nam-Hậu, Vũ Quang Việt mà không nói đến một sinh viên Học bổng Lãnh đạo khác là Võ Minh Lý (VML) hẳn là thiếu cân bằng.

Là một học sinh trung học xuất sắc của miền Nam Việt Nam, đại diện cho trường Trung học Công lập Hồ Ngọc Cẩn, VML đã dự kỳ thi toàn quốc năm 1966 và đoạt giải nhất về môn Địa lý. Học xong Trung học, được miễn thi Tú Tài II đồng thời được Học bổng Lãnh đạo AID, Nhóm I. VML còn có biệt danh là Minh Fullerton vì ông sang Mỹ vào năm 1967, học khoa Địa lý tại California State College ở Fullerton (Brown, Hendrickson, McKnight, tài liệu đã dẫn (1970), trang 36, 48). Năm 1971 ông đã trở về phục vụ quốc gia sau khi tốt nghiệp Cử nhân Địa lý. Hồ sơ hành chánh ghi tác giả là “Công chức cao cấp, hạng A, Chuyên viên Địa lý, Văn phòng Phủ Tổng thống”. Minh Fullerton là tác giả cuốn “Thank you America”, Memoir of an 18-year Journey to Freedom do Lee M Vo phát hành giới hạn vào tháng Ba năm 2015. (Trần Giao Thủy, Tháng Tư buồn, đọc “Thank You, America!” của Minh Fullerton, DCVOnline, 21 tháng 4, 2021.)

Sinh cùng thời, cùng đi học ở Mỹ, NTB, người thanh niên xứ Cần Giuộc trở thành tên khủng bố quốc tế đồng thời là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Cộng sản Việt Nam) trong khi đó người con trai gốc Bến Tre “thành đồng cách Mạng” VML lại trở thành người tù của chế độ mới, của những người thắng cuộc, vì ông đã làm việc với chế độ bị gọi là bù nhìn bị tình nghi là cộng tác viên của CIA, người của đế quốc để lại nằm vùng kiểu con ngựa thành Troy như cộng sản đã làm ngay khi ký kết hiệp định Geneva 1954 (trang 31-34). Phải chi ông giỏi toán thay vì xuất sắc môn địa lý, có lẽ tác giả đã trở thành khoa học gia vệ tinh của Mỹ hay là giáo sư đại học Canada như những người bạn cùng Nhóm I AID.

Canada

Theo tài liệu dựa trên Lịch sử Truyền khẩu (Oral History) của Nguyễn Phát Quang trong eBook “Sinh Viên VNCH Du Học Montréal”, DCVOnline, 26 tháng 12, 2024, người viết nhận thấy có khoảng 15 sinh viên VNCH nhận học bổng Kế hoạch Colombo từ 1956-1967 trên tổng số 236 hay 6.4% đã ngả sang thân cộng, phản chiến hay “giác ngộ chính trị trong phong trào chống đế quốc” như Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp. Họ là sinh viên du học trong những năm 1960 (1), 1962 (2), 1963 (4), 1964 (3), 1965 (5). Một số những sinh viên học bổng Colombo “dấn thân” hoạt động trong “phong trào hoà bình” trước 1975 có thể tìm thấy trong bài “Đứng ngoài cuộc chiến?” DCVOnline, 1 tháng 4, 2015 như LCP, NVN, ĐĐV (Colombo 1964), TTD (Colombo 1965), còn có công chức đào nhiệm như cựu phó Quận trưởng Lê Phúc, quân nhân đào ngũ như cựu đại úy quân nha Nguyễn Minh Sang. Loạt bài VixiLeaks, DCVOnline, 6-9 tháng 6, 2015 cho thấy rõ hơn nhân cách của những sinh viên “yêu nước” khi họ van xin, nài nỉ những cán bộ cộng sản ở Hà Nội, nhưng người bên thắng cuộc, gần hai tuần trong tháng 10, 1988.

Chính phủ VNCH cắt học bổng của sinh viên Học bổng Lãnh đạo AID, thân cộng, phản chiến và triệu hồi họ về nước. Còn sinh viên thân cộng, phản chiến nhận học bổng Colombo thì sao? Mẩu chuyện sau đây phần nào nói đến các xử trí của chính phủ. Trong dịp Đại sứ VNCH tại Washington Trần Kim Phượng vào mùa hè 1974 viếng thăm sinh viên tại Ottawa của cùng xem trận đá banh giao hữu giữa hai đội sinh viên Ottawa và Montreal, có cuộc trao đổi giữa một đại diện sinh viên và tùy viên Nguyễn Đình Nam, bên cạnh ông Đại sứ, trên một chiếc Mercedes chạy trên đường Rideau, nội dung như sau.

– Tuỳ viên NĐN: Anh có biết N.M.H. sinh viên học Kinh tế ở Canada hay không?
– Đại diện sinh viên: Vâng, tôi có biết về anh đó.
– Tuỳ viên NĐN: Thế, anh có biết anh ấy đang ở đâu không?
– Đại diện sinh viên: Thưa ông, thiển nghĩ toà Đại sứ có hồ sơ của tất cả sinh viên du học ở đây cũng như ở Mỹ, rõ ràng và nhiều hơn những gì tôi biết…

  •  

Câu chuyện chỉ có thế. Chung cuộc chính phủ VNCH đã dẫn độ sinh viên N.M.H. từ London, Ontario về lại Sài Gòn. Nhưng chính phủ VNCH đã dẫn độ lầm người chỉ vì cùng tên, cùng họ, học cùng ngành. Sau tháng 4, 1975, sinh viên bị dẫn độ lầm trở thành người Việt Nam tị nạn cộng sản ở Ottawa. N.M.H. kia trở thành giáo sư Khoa Kinh tế dậy học ở đại học Laval và trong một chuyến bay về Hà Nội mong được cố vấn cho ông Phạm Văn Đồng, anh cựu sinh viên học bổng Colombo được công an phi cảng Nội Bài mời ra khỏi Việt Nam.

Úc

Số sinh viên Việt Nam phản chiến ở Úc trong những năm 1960 và 1970 tương đối nhỏ, nhưng họ có mặt trong phong trào phản chiến. Họ cực lực lên án sự có mặt của quân đội Mỹ (1965-1975) và Úc (1962-1973) trong chiến tranh Việt Nam. Sau chiến tranh bi kịch gia đình có con em là sinh viên thân cộng, phản chiến ở Úc tiếp diễn. Một trường hợp, có thể là hi hữu, một cựu nữ sinh viên phản chiến không chấp nhận cho cha của bà sống chung khi cha mẹ di tản sang Úc, tiếp tục đời tị nạn chỉ vì ông là một cựu sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hoà.

Tóm lại, dán nhãn “ thân cộng và phản chiến” cho sinh viên VNCH du học là một nhận thức sai lầm vì những sinh viên đó chỉ là số rất nhỏ trong tập hợp sinh viên du học. Nhóm thiểu số đó được giới truyền thông chú ý đến vì cao trào phản chiến của những năm cuối thập niên 1960 và đầu năm 1970.

Những sinh viên du học trong những năm 1960 thân cộng và phản chiến đó

• “giác ngộ chính trị trong phong trào chống đế quốc”,

• “đòi chính phủ VNCH thả tù nhân chính trị và dỡ bỏ chế độ Nguyễn Văn Thiệu, ‘công cụ đàn áp dã man’”,

• “đứng trong hàng ngũ của người Việt trong cuộc đấu tranh cứu nước, tham gia kháng chiến chống xâm lăng Mỹ”,

• “phải nhập cuộc đấu tranh chính trị cho nhân dân Việt Nam”,

• đòi “Chính phủ Mỹ phải ngưng hẳn việc dội bom tàn phá đất đai, mùa màng và giết người bừa bãi ở Việt Nam. Chín phủ Mỹ phải chấm dứt ngay lập tức việc phá hoại các đường sắt, việc ném bom phong toả các hải cảng ở Bắc Việt Nam như Hải Phòng Hồng Gai, Cảm Phả, Thanh Hoá, Vinh, Quảng Khê và Đồng Hới.” (Đoàn Hồng Hải, “Thư phản đối chính quyền Sài Gòn”, Tiền Phong, BẢN TIN ĐẶC BIỆT về việc ĐÀN ÁP SINH VIÊN ở trong và ngoài nước của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tháng 7, 1972, Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-Na-Da phát hành. DCVOnline, 18 tháng 6, 2015)

• “...thấy đó là một cuộc giết chóc có hệ thống, một chính sách có hệ thống của Mỹ nhằm tiêu diệt người dân Việt Nam và hủy hoại môi trường của Việt Nam”, v.v..

Tóm lại, họ thân cộng và phản chiến thời thượng kiểu người da trắng.

Họ chống đế quốc nhưng ngậm tăm khi Trung Cộng xâm lăng quần đảo Hoàng Sa và ủng hộ đồng thời làm thông dịch viên cho chính phủ đã viết Công hàm ngày 22 tháng 9 năm 1958.

Họ muốn “đứng trong hàng ngũ của người Việt trong cuộc đấu tranh cứu nước, tham gia kháng chiến chống xâm lăng Mỹ” và “phải nhập cuộc đấu tranh chính trị cho nhân dân Việt Nam” nhưng không hề phản đối sự hiện diện của 320.000 Giải phóng quân (Trung cộng) ở nước VNDCCH từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 3 năm 1968; nhiều nhất là 170.000 lính vào năm 1967. (Zhai, Qiang (2000). China and the Vietnam wars, 1950–1975. Chapel Hill: University of North Carolina Press. Trang 135). Họ cũng chẳng quan tâm đến việc Liên Xô gởi hơn 10.000 chuyên gia quân sự đến Bắc Việt trong suốt cuộc chiến. (“How the Soviets fought against the Americans in Vietnam”, Russia Beyond, July 07, 2020)

Xạ thủ phòng không Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chuyên gia quân sự Liên Xô. Inter-regional Public Organisation of Veterans of the Vietnam War / Nikolay Nikolayevich Kolesnik

Họ chống Mỹ “ném bom phong toả các hải cảng ở Bắc Việt Nam như Hải Phòng Hồng Gai, Cẩm Phả, Thanh Hoá, Vinh, Quảng Khê và Đồng Hới” nhưng họ nín thinh khi quân cộng sản Bắc Việt thảm sát hàng ngàn đồng bào ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân.

Họ “…thấy đó là một cuộc giết chóc có hệ thống, một chính sách có hệ thống của Mỹ nhằm tiêu diệt người dân Việt Nam và hủy hoại môi trường của Việt Nam” nhưng không thấy gì khi quân cộng sản nước CHXHCNVN, từ 1978 đến 1989, xâm lăng lật đổ chính quyền nước Kampuchea Dân chủ lập nên chính phủ CHND Kampuchea. Họ cho đó là “nghĩa vụ quốc tế”!

Họ hăm hở đi cướp máy bay, chiếm đóng tòa Lãnh sự VNCH ở New York, văn phòng đại học Nam Illinois (SIU) và sau 1975, một cựu thành viên lãnh đạo cao cấp của nhóm sinh viên thân cộng phản chiến ở Montreal đã xác nhận với người viết về một dự tính bất thành của họ là chiếm đóng tòa Lãnh sự Mỹ tại đây, như một phần của “Mùa hè đỏ lửa” hay chiến dịch Xuân-Hè 1972 của quân cộng sản ở Việt Nam.

Họ đã làm gì trước thảm trạng thuyền nhân vượt biển và người Việt Nam phải vượt biên tị nạn sau tháng 4, 1975? Họ không làm gì cả. Lương tâm họ đang ngủ mê ngay cả khi cha mẹ, anh em của họ đang vất vưởng trong những trại tị nạn khắp nơi ở Đông Nam Á.

Nhóm sinh viên thân cộng chỉ phản chiến theo phong trào; họ phản chiến có chọn lọc. Họ phản đối sự can dự của Mỹ vào Việt Nam, trong khi làm ngơ trước sự tàn bạo của cộng sản, do ảnh hưởng của tầm nhìn thời thượng, thành kiến ​​​​ý thức hệ, hay chỉ vì não trạng bầy đàn. Mặc dù tội ác của cộng sản rất khủng khiếp nhưng báo giới và truyền thông phương Tây đã đồng loã làm thinh. Mục tiêu của phong trào phản chiến là chấm dứt sự can thiệp của Mỹ và chống chủ nghĩa đế quốc Tây phương.

Phản chiến? Nhân loại yêu hòa bình hơn hiếu chiến. Do đó phản chiến toàn diện thay vì phản chiến có sàng lọc mới là lựa chọn hữu lý của con người.

Khi Hồng quân xâm lăng Hungary vào ngày 4 tháng 11 năm 1956, không như những người thân cộng phản chiến có chọn lọc, Jean-Paul Sartre đã lên án sự can thiệp của Liên Xô và sự khuất phục của Đảng Cộng sản Pháp trước những kẻ độc tài ở Moscow. Điều này xác định được cam kết của Sartre với nhân quyền và sự sẵn sàng xét lại và phê phán những cam kết về ý thức hệ của ông. Năm 1979, Sartre đồng chủ tọa một cuộc hội thảo với Raymond Aron, một tư tưởng gia chính trị bảo thủ và là đối thủ trí thức lâu năm. Hội thảo này nhằm nâng cao nhận thức về hoàn cảnh khốn cùng của thuyền nhân Việt Nam và lên án những chính sách độc tài của chính phủ cộng sản Việt Nam. Hành động này tượng trưng cho một sự thay đổi đáng kể trong lập trường chính trị của Sartre, vì nó thể hiện sự sẵn sàng cộng tác bất chấp khác biệt ý thức hệ để giải quyết những vấn đề nhân đạo.

Mặc dù Sartre không hoàn toàn ông từ bỏ sự ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, nhưng tình tiết này cho thấy sự vỡ mộng ngày càng tăng của ông đối với thực tế áp bức của nhiều chế độ cộng sản. Nó cũng nhấn mạnh cam kết của ông đối với nhân quyền và sự sẵn sàng xét lại và phê phán những cam kết về ý thức hệ của ông.

Năm 1979, Joan Baez, biểu tượng của nghệ sĩ phản chiến trong những năm 1960, thành lập Humanitas International để thế giới lưu ý đến tù nhân ở Việt Nam cùng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, Campuchia và Nam Mỹ. Nhóm này có mục đích hỗ trợ giải trừ quân bị, bất bạo động và phản đối án tử hình. Trong “Thư ngỏ gửi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” ngày 30/5/1979, Joan Baez và giới trí thức và nghệ sĩ tự do khác đã chỉ trích sự tàn ác, bạo lực và áp bức của các thế lực nước ngoài và nói rằng chúng đang tiếp diễn dưới chế độ hiện tại ở Việt Nam. Họ kêu gọi Việt Nam tôn trọng Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc và chỉ trích việc cánh tả lợi dụng bà trong Chiến tranh Việt Nam.

Chế Lan Viên sinh năm 1920 ở Quảng Trị; 1939, ông ra Hà Nội học, sau vào Sài Gòn làm báo rồi về Thanh Hóa dậy học. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Chế Lan Viên tham gia phong trào cách mạng tại Bình Định, Thừa Thiên, viết và biên tập cho những tờ báo “Quyết thắng”, “Cứu quốc”, “Kháng chiến”. Ông gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương năm 29 tuổi; sau đó tập kết ra Bắc làm báo, làm văn nghệ trong Ban tuyên huấn trung ương. Từ năm 1963 ông làm việc với Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủy viên Ban văn hóa – giáo dục của quốc hội. Báo Điện tử Đảng Cộng sản gọi ông là “Nhà thơ lớn của văn học Việt Nam”.

Chế Lan Viên từng viết thế này

“…Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau”
(Kết nạp đảng trên quê mẹ)

Hay

“Bắt lấy con chó điên trong dinh Độc Lập!
Bắt lấy con thú điên trong dinh độc lập!
Bắt cả tớ thầy treo lên cành cây
Thằng Diệm chết. Thằng Mỹ thì cút ngay!”
(Tiếng hát thằng điên trong dinh Độc Lập)

Nhưng hạ hồi ông lại viết,

“Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?
Tôi!
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi lúc xung phong…”
(Ai? Tôi!) 1987


“Chưa cần cầm lên nếm,
anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui…”
(Bánh vẽ) 8-1991

Trong khi đó hầu hết những sinh viên VNCH trở thành thân cộng và phản chiến trong chiến tranh Việt Nam cho đến nay vẫn vì sĩ diện hão nên chưa bao giờ nhận họ đã sai lầm hay đã để cộng sản lợi dụng. Hầu hết vì dường như trong tất cả những người phản chiến đó, một số quay sang hệ thống “xin cho”. Họ “xin” chính quyền cộng sản Việt Nam đổi mới hay “xin” cộng sản Hà Nội giải quyết xung đột nội bộ của hội những người “yêu nước” (VixiLeaks, tài liệu đã dẫn).

Jean-Paul Sartre tỉnh giấc, lên án cộng sản Liên Xô từ năm 1956, rồi năm 1979 lại lên án chính sách độc tài của chính phủ cộng sản Việt Nam; cùng năm 1979, Joan Baez, thành lập Humanitas International để thế giới lưu ý đến tù nhân ở Việt Nam cùng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, Campuchia và Nam Mỹ. Chế Lan Viên viết lời sám hối, hơi muộn, trong những năm 1987, 1991.

Và sau gần 40 năm kể từ tháng 4, 1975, duy nhất có một cựu sinh viên thân cộng, phản chiến được biết đến chỉ vì ông công khai viết “Lời sám hối muộn màng” (DCVOnline. 15 tháng 3, 2015). Rất muộn, nhưng muộn như thế vẫn còn hơn không!

Sinh viên VNCH Học bổng Lãnh đạo của AID sang Mỹ du học như những nhân tố đại diện cho cam kết chống cộng sản của miền Nam Việt Nam, hay những sinh viên nhận học bổng Colombo để giúp phát triển đất nước, giảm đói nghèo là những yếu tố gián tiếp khiến cộng sản không có môi trường phát triển. Khi tốt nghiệp đại học, một số nhỏ đã bắt đầu ngầm tán thành mục tiêu của cộng sản Bắc Việt. Họ lý ​​luận rằng chiến thắng của Cộng sản sẽ chấm dứt tình trạng đổ máu ở Việt Nam và dẫn đến sự thống nhất đất nước. Tất nhiên, quan điểm này trái ngược với mục tiêu của chính phủ Mỹ và Việt Nam Cộng hoà và cả mục đích của hai chương trình Học bổng Lãnh đạo và Học bổng Colombo.

Không phải tất cả sinh viên Việt Nam ở Mỹ đều có thái độ phản chiến như những người trong Hội Sinh viên. Vũ Ngọc Côn giải thích: “Tôi nghĩ phần lớn những sinh viên này mong muốn hòa bình ở Việt Nam càng sớm càng tốt, nhưng vì họ sợ họ hoặc gia đình họ bị trả thù, nên ngại lên tiếng đòi hòa bình.” (Liberation News Service, tài liệu đã dẫn, trang 5.)

Tác giả Nguyet Nguyen (Tài liệu đã dẫn) cho rằng một phần ba số sinh viên AID Nhóm II tự coi họ là “phản chiến”. Hai phần ba còn lại nghĩ gì về hoạt động phản chiến đang diễn ra trong khuôn viên đại học? Và tại sao họ lại chọn, ít nhất là vẻ bề ngoài, trung thành với VNCH? Do đó, người đọc lịch sử mong muốn được nghe ý kiến của nhiều sinh viên nhận Học bổng Lãnh đạo AID của cả 4 Nhóm cũng như những sinh viên du học tự túc hoặc du học với hoc bổng Colombo, hay học bổng quốc gia. Thiết tưởng đây chỉ là vài câu hỏi cần được những chuyên gia khoa sử như Nguyet Nguyen và những học giả tương lai trả lời. Tuy nhiên, quỹ thời gian của những cựu sinh viên du học đó không còn nhiều; ngày nay trẻ nhất họ đã gần 70 tuổi, phần lớn đã hơn 70, 80 cả rồi, và một số đã ra người thiên cổ.

Bài viết này không nhằm đánh giá quyết định cá nhân về nước hay ở lại của những sinh viên du học thiên tả, phản chiến, chống chính phủ hay hay sinh viên trung thành với VNCH (về nước đúng theo điều kiện để nhận học bổng du học, hay ở lại Mỹ, Canada, hay Úc, trước tháng 4 1975) mà để nhận định về mức độ thành công hay thất bại của chính sách gởi sinh viên du học với học bổng và tự túc của chính phủ VNCH và việc nhận sinh viên du học trong Kế hoạch Colombo của Canada, Australia, New Zealand, cũng như chương trình Học bổng Lãnh đạo AID và những học bổng khác của Mỹ cho Việt Nam.

Mục đích của chính phủ Việt Nam Cộng hòa và những nước bạn (Pháp có thể là một ngoại lệ) cấp học bổng trong chính sách gởi và nhận sinh viên du học (với học bổng quốc gia, học bổng của nước bạn hay tự túc) đều nhằm mục đích

• Phát triển Việt Nam với hy vọng những đại học Tây phương đào tạo được tầng lớp chuyên gia, giới lãnh đạo tương lai để xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, dân chủ không cộng sản.

• Tạo điều kiện phù hợp với những mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ và đồng minh trong Chiến tranh Lạnh mà ưu tiên là ngăn chặn làn sóng đỏ bằng cách truyền bá những giá trị tích cực của nền văn minh phương Tây như công bằng xã hội, tự do ngôn luận, tư duy độc lập dẫn đến chính kiến, quan điểm, lập trường đa diện, phong cách làm việc và tổ chức năng động, v.v..

Những mục đích nêu trên có lẽ chỉ đạt được một phần là đào tạo được tầng lớp chuyên gia đã hấp thụ được những giá trị tích cực của nền văn minh phương Tây. Một số sinh viên du học về nước trong chiến tranh đã trực tiếp tham chính như Phạm Nam Trường (Lập pháp), Tôn Thất Thiện, Trần Ngọc Ninh, Trần Lữ Y, Phó Bá Long, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Bích Huệ, Hà Xuân Trừng, v.v. (Hành pháp).

Tuy không có cơ hội xây dựng một Việt Nam hậu chiến giầu mạnh, văn minh, dân chủ không cộng sản, trong nửa thế kỷ vừa qua từ khi chiến tranh chấm dứt, tuyệt đại đa số cựu sinh viên VNCH trở thành những chuyên gia đủ mọi ngàng nghề, đã ở lại đóng góp trực tiếp về mặt kỹ thuật, y tế, giáo dục, xã hội, hành chánh, quản trị, v.v., góp phần xây dựng quê hương mãi mãi ở Bắc Mỹ, Úc, và những nước Tây Âu và cả Nhật Bản. Đây là thực tế mặc nhiên xác định mực độ thành công nhất định của kế hoạch gởi và nhận sinh viên du học.

Điển hình và dễ nhận thấy nhất là có gần 100 kỹ sư Việt Nam cùng làm việc với Hydro-Quebec, một công ty điện lực hàng đầu ở Bắc Mỹ, đều là du học sinh tốt nghiệp từ École Polytechnique ở Montreal (Nguyễn Phát Quang, tài liệu đã dẫn, trang 80).

Không trở về sống và làm việc ở nước CHXHCN Việt Nam sau chiến tranh cũng là một cách trả lời cho câu hỏi, tại sao đa số sinh viên du học chọn trung thành với nước VNCH.

Mặt khác, chính phủ VNCH và những chương trình học bổng của nước bạn đón nhận sinh viên du học đã thất bại. Thất bại vì không kịp thời đào tạo được giới lãnh đạo tương lai để xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, tiến bộ, dân chủ, không cộng sản trước khi Mỹ quay hướng, đổi chiến lược trong Chiến tranh Lạnh, nối lại quan hệ ngoại giao với cộng sản Trung Hoa sau 25 năm gián đoạn. Tất cả vì ích lợi riêng, chính phủ Mỹ muốn nâng cao ảnh hưởng toàn cầu, tạo cơ hội kinh tế quan trọng cho thương mại và đầu tư vào một thị trường chưa khai thác. Trớ trêu thay, thị trường khổng lồ đó ngày nay đang là đối thủ hàng đầu của Mỹ trên thương trường quốc tế khiến Mỹ đang bù đầu gỡ mối bòng bong.

Henry Kissinger gặp Mao Trạch Đông năm 1972 còn là một bước đi chiến lược then chốt của Mỹ để chia rẽ Trung-Xô. Chiến lược ngoại giao tam giác này khai thác những căng thẳng đang có giữa hai nước cộng sản, tăng cường quan hệ Mỹ-Trung và đặt áp lực lên Liên Xô, từ đó định hình lại động lực Chiến tranh Lạnh.

Kết quả, 3 năm sau, Việt Nam Cộng hòa trở thành bên thua cuộc.

17 năm sau, khi Gorbachev quyết định nới lỏng ách thống trị của Liên Xô ở những nước Đông Âu đã tạo ra động lượng độc lập, dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 11 năm 1989, và sau đó là sự sụp đổ toàn diện của chế độ Cộng sản trên khắp Đông Âu.

Câu hỏi sau cùng: Việt Nam, gần 50 năm sau ngày im tiếng súng đã đủ an toàn cho những công chức đào nhiệm, quân nhân đào ngũ, sinh viên thân cộng, phản chiến trở về Việt Nam hay chưa?

Hình như đa số họ vẫn ở Bắc Mỹ, ở Úc, ở Pháp và những nước Tây Âu sau ngày những người họ ủng hộ toàn thắng và toàn trị ở Việt Nam.

Thân gởi đến bạn đồng môn, bạn vong niên trong chương trình Học bổng Lãnh đạo AID, học bổng Colombo, học bổng Quốc gia và tất cả đã một thời cùng sống đời sinh viên đi học xa nhà.

Montreal, những ngày cuối năm 2024.

Tài liệu tham khảo

• Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Tài liệu song ngữ “CHƯƠNG V – GIÁO-DỤC VÀ VĂN-HÓA / CHAPTER V – EDUCATION AND CULTURE” của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, tháng 12, 1970, trang 109-150 hay “Tài liệu Bộ Giáo Dục VNCH 12-1970”

• McConnell, Scott (2017). Leftward Journey: Education of Vietnamese Students in France (First edition). Taylor and Francis, London.

• The Association for the Memory of Đỗ Hữu Vị (AMDHV), Đỗ Hữu Vị.

• Nguyen V.K., “External support for internal issue: Phan Boi Chau and the Vietnamese “Dong Du” movement in the early 20th century”, Russian Journal of Vietnamese Studies, Issue: Vol 2, No 4 (2018), Pages: 54-65).

• Danathan Nguyen, Reports, Recollection, and Refugees: The Early Vietnamese American Experience through Periodicals and Oral Histories, Master of Art in History Thesis, University of California, Irvine, 2020, p. 2-3

• Ly Thúy Nguyễn, “Thái Bình Means Peace”: (Re)positioning South Vietnamese Exchange Students’ Activism in the Asian American Movement, Augsburg University, USA, International Journal of Communication 16(2022), 4602–4618.)

• John G. Rogers, Canada – New Santuary for the South Vietnamse, PARADE, Washington Post và Independent Press-Telegram (Long Beach, California) ngày 14 tháng 6, năm 1970)

• Nguyễn Phát Quang, eBook “Sinh Viên VNCH Du Học Montréal”, DCVOnline, 26 tháng 12, 2024.

• Đàm Trung Phán, “Du học sinh Colombo”, 6 February 2012.

• Roger Magnuson, McGill University, “Pupil Care, Pupil Control and the Quebec Teacher”, McGill Journal of Education, Vol. 23 No. 3 (Fall 19~8), p.259

• Poitras, Daniel. 2023. “« Des Mots Et Des Commandements déplacés ». La Prise En Charge Des étudiants Vietnamiens Du Plan Colombo à l’Université De Montréal (1950–1959)”. Historical Studies in Education / Revue d’histoire De l’éducation 35 (2). https://doi.org/10.32316/hse-rhe.2023.5179.

• Dr. Donald, J. Brown, Dr. Dale Hendrickson, Dr. Robert McKnight, “The Vietnam Scholarship Program, Third Cycle 1969-70, Report Of The Project Analysis Team, The California State Colleges and Agency of International Development, May 1970.

• Dennis Hevesi, Pham Xuan An Dies at 79; Reporter Spied for Hanoi, The New York Times, September 22, 2006.

• Nguyet Nguyen. “Accidental Activists: USAID Builds a Vietnamese Antiwar Elite.” Diplomatic History 46:3 (June 2022): 549-574. https://doi.org/10.1093/dh/dhac008.

• Đinh Thúy Nga, 50 năm Hiệp định Hòa bình Paris: Ký ức lịch sử của một người phiên dịch, Tuổi trẻ cuối tuần, 27/01/2023.

• Chris Norlund, “The First Vietnamese to Attend Harvard”, Migration Letters, Volume: 2, No: 1, pp. 64 – 82. April 2005. ISSN: print: 1741-8984 & online: 1741-8992.

• Jonathan P. Baird, “An appreciation of Ngo Vinh Long”, Concord Monitor, 05-02-2023.

• Trần Giao Thủy, “Khủng bố hay anh hùng?” DCVOnline 25 tháng 2, 2015.

• Karen Wald, “Vietnamese in the United States: Risking Jail to Protest the War”, Liberation News Service LNS, No. 491, 6 January 1973.

• Trần Giao Thủy, Tháng Tư buồn, đọc “Thank You, America!” của Minh Fullerton, DCVOnline, 21 thang 4, 2021.

• Trà Mi, “Đứng ngoài cuộc chiến?” DCVOnline, 1 tháng 4, 2015.

• Trần Giao Thuỷ, “VixiLeaks”, DCVOnline, 6-9 tháng 6, 2015.

• Zhai, Qiang (2000). China and the Vietnam wars, 1950–1975. Chapel Hill: University of North Carolina Press. Trang 135.

• Russia Beyond, “How the Soviets fought against the Americans in Vietnam”, Inter-regional Public Organisation of Veterans of the Vietnam War, July 07, 2020.

• Lê Quốc Trinh, “Lời sám hối muộn màng”, DCVOnline, 15 tháng 3, 2015.

© 2024 DCVOnline

Bạn đọc có thể bấm vào đây để tải  Việt Nam Cộng Hòa: Kế hoạch gởi Sinh viên Du học | eBook về máy tính

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

________________________

Nguồn: Nguyên bản Pháp ngữ của Daniel Poitras, Des mots et des commandements déplacé” và tiểu tựa là La prise en charge des étudiants vietnamiens du Plan Colombo à l’Université de Montréal (1950–1959).
DOI: https://doi.org/10.32316/hse-rhe.2023.5179. Published December 21, 2023

Cước chú của Daniel Poitras

[1] Je tiens à remercier l’équipe des archives de l’Université de Montréal ainsi que la direction de la Revued’histoiredel’éducationpour leur efficacité et leur flexibilité. Je remercie particulièrement l’une des personnes réviseuses de cet article pour ses nombreuses et généreuses suggestions.

[2] Jill Campbell-Miller, “The Proving Ground: Colombo Plan Fellowship and the Changing Landscape of Health and Education in Canada, 1951–1969”, Canadian Bulletin of Medical History 38, no 1 (2021) : 3.

[3] Sur les politiques éducatives du Québec dans un cadre international, voir Sami Mesli, « Le développement de la “diplomatie éducative” du Québec », Globe 12, no 1 (2009) : 115–132.

[4] Sur les réseaux missionnaires en Asie, voir notamment Serge Granger, “China’s Decolonization and Missionaries: Québec’s Cold War”, Historical Papers, (2005) https://doi.org/10.25071/0848-1563.39202. Sur les réseaux missionnaires ailleurs, voir Catherine Foisy, Aurisquedelaconversion.L’expériencequébécoisedelamissionauXXe siècle(1945–1980)(Montréal & Kingston : McGill-Queen’s University Press, 2017); et Catherine LeGrand, « L’axe missionnaire catholique entre le Québec et l’Amérique latine. Une exploration préliminaire », Globe12, no 1 (2009) : 43–66.

[5] Sur ces enjeux en Asie et le rôle des universitaires, voir David Webster, FireandtheFull Moon:CanadaandIndonesiain aDecolonizingWorld(Vancouver: UBC Press, 2010) et Yuxi Liu, LesrelationsQuébec-Chine àl’heuredelaRévolutiontranquille(Montréal : Presses de l’Université de Montréal, 2022). Sur la diplomatie culturelle, voir Eric Fillion, DistantStage. Québec, Brazil,andtheMakingofCanada’sCulturalDiplomacy(Montréal / Kingston: McGill-Queen’s University Press, 2022).

[6] Sur les enjeux internationaux à l’UdeM, voir Daniel Poitras et Micheline Cambron, L’Universitéde Montréal.Unehistoireurbaineetinternationale(Montréal : Presses de l’Université de Montréal, 2023); sur les enjeux idéologiques durant la guerre froide, voir Nicole Neatby, Carabinsouactivistes?L’idéalismeetlaradicalisationétudianteà l’UniversitédeMontréalautempsdeDuplessis(Montréal/Kingston : McGill-Queen’s University Press, 1997).

[7] Ce paradoxe a entre autres été soulevé par Sean Mills, Uneplaceausoleil.Haïti, lesHaïtiens etleQuébec, traduit de l’anglais par Hélène Paré (Montréal : Mémoire d’encrier, 2016).

[8] Parmi une abondante littérature, voir Tamara Myers, “Local actions and global imagining: Youth, International Development, and the Walkathon Phenomenon in Sixties’ and Seventies’ Canada”, Diplomatic History38 (2014) : 282–293; et David Meren, ““Commend me the Yak”: The Colombo Plan, the Inuit of Ungava, and ‘Developing’ Canada’s North”, Histoiresociale/SocialHistory50, no 102 (2017) : 343–370.

[9] Comme l’écrivait Chih-Ming Wang, le “temporary and transient status as “foreign students” thus makes them curious yet ambiguous” (Transpacific Articulations: Student Migration and the Remaking of Asian America (Honolulu: University of Hawai’i Press, 2013). Sur de récentes études sur les étudiants étrangers au Canada, voir Campbell- Miller, “The Proving Ground”; Dale M. McCartney, “Inventing International Students: Exploring Discourses in International Student Policy Talk, 1945–75”, Historical Studies in Education 28, no 2 (2016) : 1–27; Daniel Poitras, “Welcoming International and Foreign Students in Canada : Friendly Relations with Overseas Students (FROS) at the University of Toronto, 1951–68”, Canadian Historical Review 100, no 1 (2019) : 22–45 ; James D. Cameron, “International Student Integration into the Canadian University: A Post-World War Two Historical Case Study”, History of Intellectual Culture 6, no 1 (2006) : 1–17. Sur le rôle des étudiants étrangers dans l’émeute de l’Université Sir George Williams, voir David Austin, Fear of a Black Nation: race, sex, and security in sixties Montreal (Toronto: Between the Lines, 2013).

[10] Ils se distinguent à cet égard des étudiants réfugiés étudiés par Laura Madokoro “The Refugee ritual: Sopron students in Canada”, Journal of the Canadian Historical Association 19, no 1 (2008) : 253–278.

[11] C’est le cas de l’étudiant haïtien Philippe Cantave au Québec. Voir Mills, Une place au soleil, 34–38.

[12] Campbell-Miller, “The Proving Ground”, 9.

[13] Sur ces enjeux temporels, voir Reinhart Koselleck, Future Pasts: On the Semantics of Historical Time (Boston: The MIT Press, 1990).

[14] David Webster, “Development advisors in a time of cold war and decolonization: the United Nations Technical Assistance Administration”, Journal of Global History 6, no 2 (2011) : 251.

[15] Notons que les étudiants boursiers du Plan Colombo ne forment qu’une petite partie de l’ensemble des étudiants étrangers. On retrouve à l’UdeM 116 étudiants étrangers en 1947–1948, 254 en 1952–1953, 393 en 1958–1959, 777 en 1963–1964 et 1055 en 1966–1967 (Tiré du Bureau d’immatriculation, 18 juin 1953, Archives de l’UdeM, D35/A1,123 et Statistiques de l’Université de Montréal (GD043) pour les années mentionnées).

[16] Irénée Lussier à Nguyen Quang Trinh, 16 septembre 1958, Archives de l’UdeM, D35/ A1.6.

[17] J.-A. Macdonald à Lortie, 8 octobre 1953, Archives de l’UdeM, D35/7,49.

[18] Léon Lortie à Lussier, 1er mars 1957, Archives de l’UdeM, D35/7,156.

[19] Voir Martine Gayral-Taminh, « Une immigration invisible, gage d’intégration ? Récits de vie d’étudiants vietnamiens émigrés en France dans les années 1955–1970 », Ethnologie française 39, no 4 (2009) : 721–732.

[2] Voir Poitras et Cambron, L’Université de Montréal.

[21] Procès-verbal du Conseil des gouverneurs de l’UdeM, 7 décembre 1959, Archives de l’UdeM.

[22] Cette peur n’est bien sûr pas fondée, les étudiants étrangers devant pour la plupart retourner dans leur pays. Néanmoins, le doyen de la Faculté de pharmacie refuse l’inscription en bonne et due forme de trois étudiants cambodgiens; il propose bien de les accueillir, mais sans leur donner un diplôme une fois leurs études complétées! Il faut une longue lettre de Léon Lortie pour le convaincre de céder, mais à condition que « leur baccalauréat ne leur permett[e] [pas] le droit de pratique dans la province de Québec. » (Larose à Lortie, 12 juin 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6).

[23] Valerie Knowles, Strangers at Our Gates: Canadian Immigration and Immigration Policy, 1540–2006 (Toronto: Dundurn, 2006), 137 et suivantes.

[24] Voir par exemple Edward Dunsworth, “Race, Exclusion, and Archival Silences in the Seasonal Migration of Tobacco Workers from the Southern United States to Ontario”, Canadian Historical Review 99, no 4 (2018) : 563–593.

[25] Lire par exemple Vu Huu Quang, « Peut-on comprendre le métèque? », Quartier latin, 27 septembre 1962.

[26] Madokoro, “The Refugee Ritual”.

[27] Les jeunes chercheurs (cycles supérieurs) reçoivent 150 $ d’allocation par mois et les chercheurs plus expérimentés 250 $. Lorsqu’on élargira, en 1956, le plan aux étudiants du premier cycle, ceux-ci recevront 100 $.

[28] 28 O.E. Ault à Lortie, 23 juin 1951, Archives de l’UdeM, D35/1,18.

[29] Marcel Cloutier, « Rapport d’un comité d’études sur le travail d’été pour les étudiants du Plan Colombo », 15 avril 1964, Archives de l’UdeM, D35/A1,9.

[30] Le congrès est résumé par E. F. Sheffield, du Collège Carleton, dans une lettre à P.T. Baldwin, le 11 décembre 1953. Archives de l’UdeM, D35/A1,123.

[31] P.T. Baldwin à E. F. Sheffield, 8 janvier 1954, Archives de l’UdeM, D35/A1,123.

[32] Voir Michel Lacroix, L’invention des retours d’Europe (Québec : Presses de l’Université Laval, 2014).

[33] J. T. Hobart à Lortie, 16 octobre 1958, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[34] Voir Poitras et Cambron, « Contestation et militantisme », dans L’Université de Montréal

[35] Johannes Fabian, Le temps et les autres. Comment l’anthropologie construit son objet (Toulouse : Anacharsis, 2006).

[36] Voir Catherine Larochelle, L’école du racisme. La construction de l’altérité à l’école québécoise (1830–1915) (Montréal : PUM, 2021).

[37] Voir Timothy J. Stanley, Contesting White Supremacy: School Segregation, Anti-Racism, and the Making of Chinese Canadians (Vancouver: UBC Press, 2011).

[38] Sur la dimension universitaire de cet épisode, consulter Elaine Bernard, “A University at War: Japanese Canadians at ubc during World War ii”, BC Studies 35 (1977) : 36–55.

[39] Voir Granger, “China’s Decolonization and Missionaries”. De retour au pays, ces missionnaires propageront certaines représentations anti-communistes et certains préjugés raciaux, tout comme ce fut le cas chez les missionnaires oeuvrant en Haïti (Mills, Une place au soleil).

[40] Steven Hugh Lee, Outposts of Empire. Korea, Vietnam, and the Origins of the Cold War in Asia, 1949–1954 (Montréal/Kingston: McGill-Queen’s University Press, 1995), 86.

[41] Anonyme, « Gala japonais », Quartier latin, 20 octobre 1950.

[42] Voir Neatby, Carabins ou activistes?

[43] Voir Ruth Compton Brouwer, Canada’s Global Villagers: CUSO in Development 1961–1968 (Vancouver: UBC Press, 2013); Foisy, Au risque de la conversion.

[44] David Webster, “Mental maps and Canada’s post-war Asian policy”, International Journal: Canada’s journal of Global Policy Analysis 75, no 4 (2020).

[45] Pierre Demers à Ian A. Hodson, 22 février 1955, Archives de l’UdeM, D35/7.117.

[46] Dinh Hoang Diêp au Service de l’Aumônerie, 22 mars 1959, Archives de l’UdeM, D35/1.6.

[47] Le titre, qui n’est pas toujours officiel, apparaît d’abord au Canada anglais avec l’expression foreign ou de overseas students adviser. Il est de toute évidence emprunté aux États-Unis.

[48] Voir Poitras, “Welcoming International and Foreign Students in Canada”.

[49] Furman A. Bridgers, “The role of the foreign student adviser”. Archives de l’Université de Toronto, FROS-A81-0031-033.

[50] Lortie à W. D. Mills, 5 décembre 1952, Archives de l’UdeM, D35/7,27.

[51] C’est également le constat que faisait Campbell-Miller à propos des responsables des programmes en santé, qui se sont montrés sensibles aux difficultés des étudiants boursiers (“The Proving Ground”, 20).

[52] Plante à Le Thien Ngo et Le Tuong Khanh, 8 octobre 1958, Archives de l’UdeM, D35/ A1,6.

[53] Lortie à Plante, 9 octobre 1958, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[54] Voir Mathieu Lapointe, Nettoyer Montréal : les campagnes de moralité publique, 1940–1954 (Montréal : Septentrion, 2014).

[55] Lionel Lemay à Roger Gaudry, 2 mars 1966, Archives de l’UdeM, D1-937-1.

[56] Lortie à Marc Jarry, 13 juin 1958, Archives de l’UdeM, D35/7,253.

[57] En 1952, pour Radio-Collège (une émission radiophonique de vulgarisation universitaire), Lortie avait également piloté un programme intitulé « Grandeur et rayonnement du Canada ».

[58] McCarthey, “Inventing International Students”, 5.

[59] “Address given by A. J. Earp”, Archives de l’Université de Toronto, FROS-A81-0031-047.

[60] Bulletin du Service canadien pour les étudiants et les stagiaires d’outre-mer, 17 (novembre 1968).

[61] Sur les étudiantes locales, voir Karine Hébert, Impatient d’être soi-même. Les étudiants montréalais, 1895–1960 (Québec : Presses de l’Université Laval, 2008).

[62] Statistiques de l’Université de Montréal (GD043) pour les années mentionnées.

[63] Plante à Lortie, 13 juillet 1959, Archives de l’UdeM, D35/A.1,7.

[64] Lortie à Plante, 28 juillet 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[65] Voir Hébert, Impatient d’être soi-même.

[66] Lettre de Phan Van Tao, sous-directeur du Plan, République du Vietnam, (non adressée), 7 octobre 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[67] En investissant ces ressources, les dirigeants américains espèrent que le “development along liberal, capitalist lines could alleviate poverty and raise living standards at least as fast as revolutionary and Marxist alternatives”. Michael E. Latham, Modernization as Ideology (Chapel Hill and London: The University of North Carolina Press, 2000), 28.

[68] Victor Levant, Quiet Complicity. Canadian Involvement in the Vietnam War (Toronto: Between The Lines, 1986), 66.

[69] Madame Ho-Van-Hap à Lortie, 10 octobre 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[70] Lortie à Plante, 16 février 1960, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[71] Mémorandum de Hobart, 11 septembre 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[72] Campbell-Miller, « Proving Ground », 21.

[73] Monsieur Ho-Van-Hap à Lortie, 27 février 1960, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[74] André Archambault à Lortie, 2 mars 1960, Archives de l’UdeM, D35/A1,7.

[75] On retrouve un portrait d’elle et un récit de son séjour dans « Alice Ho-Van-Hap », L’Action : quotidien catholique, 17 février 1966.

[76] Plante à un étudiant non-mentionné, 1e mai 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[77] Vo-Duo-Dien, Ngyen-Kim-Hien et. al. à Plante, 21 mai 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[78] Vo-Duo-Dien, Ngyen-Kim-Hien et. al. à Plante, 21 mai 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[79] J. T. Hobart aux étudiants vietnamiens, 1er juin 1959, Archives de. l’UdeM, D35/A1,6.

[80] Meren, “Commend me the Yak”, 351.

[81] Levant, Quiet complicity, 69.

[82] Hobart aux étudiants vietnamiens du Plan Colombo, 1e juin 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[83] Nous pouvons présumer qu’ils se sont effectivement excusés à Plante, puisque plusieurs d’entre eux ont poursuivi leurs études et reçu un diplôme de l’UdeM au cours des années suivantes.

[84] Lortie à Alf.-F Roger Larose, 28 mai 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[85] Il s’agit peut-être de Robert Garry, professeur de géographie à l’UdeM, qui avait travaillé pour le gouvernement d’Indochine. Lettre de Minville, (non adressée), 18 février 1960, Archives de l’UdeM, D35/A1,6. Il n’est pas banal de constater que Minville,

[86] Paul Martin, “Speech at the annual conference of the Canadian Service for overseas students and trainees”, [1964?], Archives de l’Université de Toronto, FROS-A81-0031-41B.

[87] Les étudiants vietnamiens à Hobart, 19 juin 1959, Archives de l’UdeM, D35/A1,6.

[88] Diether Breitenbach et Dieter Danckwortt, “A study on the role as cultural carriers of Eastern students having completed their university education in the west”, UNESCO, 1962.

[89] Voir Poitras et Cambron, « Vers un campus international », dans L’Université de Montréal.

[90] Pour une perspective générale, voir Sean Mills, Contester l’empire. Pensée postcoloniale et militantisme politique à Montréal, 1963–1972 (Montréal : Hurtubise, 2011).

[91] Lortie à Plante, 7 octobre 1958, Archives de l’UdeM, D35/A1,6

[92] Par la suite, les étudiants étrangers deviendront des enjeux débattus dans l’arène parlementaire. McCartney, “Inventing International Students”.

[93] Voir Sasha Mullally and David Wright, « Connecting to Canada: Experiences of the South Asian Medical Diaspora during the 1960s and 1970s », dans Laurence Monnais and David Wright (dir.), Doctors beyond Borders: The Transnational Migration of Physicians in the Twentieth Century (Toronto: University of Toronto Press, 2016), 236.

[94] Anonyme, « Quand le ministère de l’Immigration décide de briser une famille… », Quartier latin, 14 mars 1967.

[95] Voir Daniel Poitras, « Les métèques grondent dans la cité. Les étudiants étrangers face au syndicalisme étudiant au Québec (1954–1968) », Recherches sociographiques 58, no 3 (2017) : 629–665.

[96] Voir Poitras, « Les métèques grondent dans la cité ».

[97] C’est d’ailleurs un étudiant étranger belge, Georges Schoeters, qui sera l’un des introducteurs des théories de la décolonisation sur le campus. Après des séjours à Cuba et en Algérie, Schoeters sera l’un des fondateurs du Front de libération du Québec (FLQ).

[98] Pour une perspective générale, voir Sean Mills, Contester l’empire. Pensée postcoloniale et militantisme politique à Montréal, 1963–1972 (Montréal : Hurtubise, 2011).

[99] Notamment à propos des pays africains. Pierre Lefrançois, « Les Africains doivent solutionner eux-mêmes leurs problèmes », Quartier latin, 18 février 1965.

[100] Voir Jean Lamarre, Le mouvement étudiant québécois des années 1960 et ses relations avec le mouvement international (Montréal : Septentrion, 2017).

[101] David Meren a démontré comment les discussions autour de l’introduction du yak (un ruminant de l’Inde) au Canada dans le cadre du Plan Colombo, afin de « développer » le territoire des Inuits de l’Ungava, avait soulevé malaise et refus chez les autorités et les journalistes (“Commend me the Yak”).

[102] Pour une perspective critique de l’aide internationale du Canada à cette époque, voir Greg Donaghy et David Webster (dir.), A Samaritan State: Revisited. Historical Perspective on Canadian Foreign Aid (Calgary: University of Calgary Press, 2019).

[103] David Webster, Fire and the Full Moon, 9.

[104] Norman Hillmer, Peacekeeping and the Moral Superpower (Ottawa: Carleton University, Marston LaFrance Lecture Series, 9 mars 1999).

[105] Voir Austin, Fear of a Black Nation.