Tôi học Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ĐHSPSG), Ban Sử Địa, Khóa 3 trong 3 năm (1960-1963), và tốt nghiệp ngày 24-4-1963, nhưng, do biến cố Phật Giáo vào Hè 1963, Bộ Giáo Dục được lệnh của Chính phủ Ngô Đình Diệm xét lại lý lịch của tất cả sinh viên tốt nghiệp ĐHSPSG để loại bỏ những người có dính líu đến vụ Phật Giáo, mãi đến tháng 10-1963 tôi mới nhận được Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm về Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa (Bến Tre).

Chứng Chỉ Tốt Nghiệp ĐHSPSG do Giáo Sư Khoa Trưởng Bùi Xuân Bào ký ngày 24-4-1963

Lương Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp

Trường ĐHSPSG có 2 hệ đào tạo: hệ 1 năm đào tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhứt Cấp, và hệ 3 năm đào tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (GSTHĐ2C).

Trong hệ thống công chức của Chính phủ VNCH thời bấy giờ, năm 1963, các GSTHĐ2C được xếp vào nhóm công chức Hạng A gồm những người tốt nghiệp Đại Học trở lên [1] với lương khởi sự có chỉ số là 470 và chỉ số tột cùng (thời đó mọi người vẫn còn hay dùng tiếng Pháp là plafond = trần nhà) là 1.160 với mỗi chỉ số là 11 đồng 50 xu (về sau,  năm 1966, Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, trước tình hình quân Mỹ ồ ạt đổ vào Miền Nam và gây ra lạm phát trầm trọng, đã nâng trị giá của một chỉ số từ 11 đồng 50 xu lên đến 15 đồng 58 xu) .

 Do đó, một GSTHĐ2C mới ra trường (năm 1963) sẽ có lương như sau:

● Lương căn bản: 470 x 11.50 =      5.405 đồng

● Lương với các phụ cấp:

        ▫ Phụ Cấp Sư Phạm:               800 đồng

        ▫ Phụ Cấp Đắt Đỏ:                1.200 đồng

                 Tổng cộng:          7.405 đồng

Ngoài ra, nếu có gia đình vợ con thì còn thêm các phụ cấp gia đình sau đây:

● Phụ cấp cho người vợ:  800 đồng

● Phụ cấp cho các con dưới 18 tuổi:  mỗi đứa con là 500 đồng

Trong trường hợp của tác giả bài viết này, đã có gia đình, thêm được phụ cấp vơ nên tổng số lương bổng được lãnh mỗi tháng là:

● Lương căn bản + Phụ Cấp Sư Phạm và Đắt Đỏ:    7.405 đồng

● Phụ cấp vợ:                                                                 800 đồng

                                                             Tổng cộng:   8.205 đồng

Đời Sống và Vật Giá Đầu Thập Niên 1960

Mỗi đầu tháng, lãnh lương xong, tôi và bà xã tôi đều về Sài Gòn thăm Mẹ tôi và kính dâng Mẹ tôi 3.000 đồng để giúp trang trải trong nhà cho Mẹ.  Vợ chồng tôi thuê một căn phố ở gần trường ngay tại ngã ba hai đường Nguyễn Tri Phương và Ngô Quyền, với giá 1.000 đồng một tháng.  Với 4205 đồng còn lại mỗi tháng vợ chồng sống rất sung túc tại Kiến Hòa trong mấy năm đó vì vật giá vào đầu thập niên 1960 còn rất thấp.

Theo quyển Niên Giám 1971-1972 của Viện Thống Kê, giá 1 bao gạo 100 kg loại gạo số 1 (tức là gạo ngon nhứt) của năm 1962 là 520 đồng:

Tài liệu trích từ Niên Giám Thống Kê năm 1971-72

 Mỗi ngày bà xã tôi đi chợ chỉ tốn độ trên dưới 30 đồng mà bữa cơm đều có cá thịt đầy đủ.  Các bạn đồng nghiệp giáo sư tại trường còn độc thân ăn cơm tháng thì mỗi bữa ăn chỉ phải trả có 11 đồng 50 xu với đầy đủ ba món, món kho, món chiên và canh, và ăn tráng miệng thì có chuối, bà chủ nấu cơm tháng để nguyên cả nải, ai muốn ăn mấy trái thì cứ tự nhiên.

 Các bạn đồng nghiệp chung nhau thuê một căn nhà nhà như nhà của vợ chồng tôi, cũng giá 1.000 đồng một tháng, và 5 người ở chung nên mỗi người chỉ tốn có 200 đồng.  Như vậy tính ra chi phí ăn ở cho một giáo sư độc thân, lãnh 7.405 đồng một tháng, chưa tới 1.000 đồng:

● Tiền mướn chỗ ở: 200 đồng

● Tiền ăn cơm tháng:

        ▫ Một ngày: 11.50 x 2 = 23 đồng

        ▫ Một tháng: 23 x 30 = 690

● Tổng cộng:  200 + 690 = 890 đồng

Trong thời gian đầu thập niên 1960, giá vàng chỉ vào khoảng 2.000 đồng một lượng.  Như vậy, với lương tháng trên 7.400 đồng, mà chi tiêu chưa đến 1.000, với số tiền còn lại trên 6.400 đồng, các GSTHĐ2C còn độc thân, nếu muốn, có thể mua 2 lương vàng (tốn khoảng 4.000 đồng) mỗi tháng một cách thật dễ dàng.

Nếu hai GSTHĐ2C lập gia đình với nhau thì họ sẽ giàu lên rất nhanh, mua xe mua nhà rất dễ dàng vì lợi tức hàng tháng của họ sẽ là khoảng gần 15.000 đồng, chưa kể là nếu họ chịu khó đi dạy thêm ở các trường trung học tư thục.  Tôi còn nhớ, vào niên khóa 1964-1965, sau khi tôi đã dạy tại Trường Kiến Hòa được một năm, một hôm Ông Giám Học, Thầy Nguyễn Duy Oanh, [2]mời tôi vào văn phòng nói chuyện, và ngỏ ý muốn tôi dạy thêm môn Anh Văn cho 1 lớp đệ ngũ.  Tôi đã nhận lời và nhờ vậy có thêm một số lợi tức đáng kể trong mấy tháng đó.

Người Việt chúng ta thường dùng cụm từ “lương bổng.”  Lương của các GSTHĐ2C thì tác giả bài viết này vừa trình bày bên trên, còn bổng (tức là bổng lộc nói tắt) của các GSTHD2C thì là những gì?  Nói chung có 2 thứ: 1) dạy học thêm, ngay trong trường của mình (như vừa kể trên), hay dạy thêm bên ngoài tại các trường trung học tư thục mà tại Sài Gòn hay các tỉnh đều có khá nhiều và đều cần đến giáo sư; và, 2) các phụ cấp khi đi gác thi và chấm thi các kỳ thi Tú Tài 1 và Tú Tài 2.

Có hai loại phụ cấp gác thi và chấm thi cho các kỳ thi Tú Tài.  Thứ nhứt là Phụ Cấp Vãng Phản (tiếng Pháp là Feuille de Route, tiếng Anh là Per Diem Payment) tức là số tiền quy định mà các cơ quan chính phủ phải chi trả cho các nhân viên của cơ quan phải đi làm công tác cần thiết bên ngoài cơ quan.  Phụ Cấp Vãng Phản của các GSTHĐ2C cho khoảng thời gian họ đi gát thi và chấm thi Tú Tài là 150 đồng / ngày.  Phụ cấp thứ nhì gọi là Phụ Cấp Chấm Bài Thi thì là 5 đồng cho một bài thi được chấm.  Các phụ cấp này là một thứ “bonus” rất đáng kể; xin lấy 1 thí dụ để minh họa:

● Thời gian gác thi: 1 tuần lễ (5 ngày)

● Thời gian chấm thi: 2 tuần lễ (10 ngày)  

● Phụ Cấp Vãng Phản 1 kỳ thi: 150 x 15 = 2.250 đồng

● Phụ Cấp Chấm Bài Thi: 5 x 1.000 = 5.000 đồng (số thí sinh thi Tú Tài 1 của năm 1968 là 65.117, và Tú Tài 2 là 23.305 [3]; tổng số bài thi cần phải được chấm cho từng ủy ban (các bộ môn thi) tại các Hội Đồng Thi phải vào khoảng ít nhứt là 10.000, và mỗi Giám Khảo phải chấm cả ngàn bài là một chuyện thường xảy ra)

● Tổng cộng 1 GSTHĐ2C đi gác thi và chấm thi Tú Tài trong vòng hơn nửa tháng có thể có thu nhập thêm vào khoảng trên 7.000 đồng, gần bằng cả một tháng lương.

Thời Hoàng Kim Chấm Dứt Vì Lạm Phát

Sáng ngày 8-3-1965, Lữ Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, gồm khoảng 3.500 binh sĩ, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng (Tướng một sao) Frederick J. Karch, đổ bộ vào Đà Nẵng [4] khởi đầu cho việc Hoa Kỳ ồ ạt đổ quân tác chiến vào Việt Nam.  Đến cuối năm 1966, quân số Hoa Kỳ tại Miền Nam đã tăng lên đến 385.300 binh sĩ. [5] Đời sống xã hội tại Miền Nam bị xáo trộn rất nhiều, và nạn lạm phát đã xảy ra.  Tài liệu thống kê đã trích dẫn bên trên cho thấy vật giá đã gia tăng rất rõ ràng: giá gạo từ mức 520 đồng/100 kg năm 1962 đã tăng lên đến 1,050 đồng/100 kg vào năm 1966 (tỷ lệ gia tăng là 100%).

Giới quân nhân và công chức, với lợi tức cố định do đồng lương, là nạn nhân trực tiếp của nạn lạm phát “phi mã” này.  Cũng như bao nhiêu bạn đồng nghiệp khác, sau khi về Sài Gòn, tác giả bài viết này đã phải đi dạy thêm ở một vài trường trung học tư thục để có thêm thu nhập nuôi sống gia đình vì lúc trong nhà đã có thêm một đứa con trai được gần 2 tuổi, và chính bà xã của tác giả cũng phải tìm việc làm.

Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đã cố gắng có nhiều chính sách và biện pháp để cải thiện đời sống cho quân nhân và công chức nhưng rõ ràng là thời đại hoàng kim của các GSTHĐ2C đã cáo chung.

Thay Lời Kết

Thừa hưởng những biệt đãi dành cho giới giáo dục của thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, thí dụ như:

● sinh viên Đại Học Sư Phạm có học bổng hàng tháng là 1.500 đồng trong khi học bổng hàng tháng của sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh chỉ có 1.000 đồng

● sinh viên Đại Học Sư Phạm khi tốt nghiệp ra trường có chỉ số lương là 470 trong khi sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tốt nghiệp ra trường thì chỉ số lương chỉ có 430

các GSTHĐ2C đã có một thời hoàng kim, với lương bổng cao, giúp họ có được một cuộc sống sung túc và thoải mái trong gần một thập niên.  Thời hoàng kim đó đã chấm dứt vĩnh viễn từ năm 1966 khi quân đội Mỹ đổ vào Miền Nam, gây xáo trộn lớn lao về xã hội và đưa đến lạm phát “phi mã” khiến cho đồng lương của họ không còn đủ để đảm bảo cho họ một cuộc sống thoải mái như trước nữa.

GHI CHÚ:

1. Lê Nguyễn.  Lương bổng, phụ cấp của quân nhân – công chức miền Nam trước tháng 4.1975, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:  Lương Bổng, Phụ Cấp của Quân Nhân – Công Chức miền Nam trước tháng 4.1975 – Lê Nguyễn – dòng sông cũ (wordpress.com)

2. Giáo sư Nguyễn Duy Oanh về sau là một tác giả nổi tiếng với 2 tác phẩm về Bến Tre: 1) Chân dung Phan Thanh Giản, do Nhà xuất bản Văn Hóa xuất bản năm 1974, 464 trang, và, 2) Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ 1757 đến 1945), do nhà xuất bản Bìa Mềm tái bản năm 2017, 390 trang)

3. Tú tài I và 2, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tú tài I và II – Wikipedia tiếng Việt

4. Nguyễn Thị Kim Phụng. 08/03/1965: Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ Đà Nẵng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: 08/03/1965: Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ Đà Nẵng – Nghiên cứu quốc tế (nghiencuuquocte.org)

5. Vietnam War: Allied troop levels 1960-73, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Vietnam War Allied Troop Levels 1960-73 (americanwarlibrary.com)