Thầy Cũ Trường Xưa

Tô văn Cấp L.P.Ký (1955-1962)

Biến cố 30/4/75 làm đại đa số anh em chúng ta mất nước, mất nước là mất tất cả đạn không còn, súng bị gãy, lại còn bị những người “bên thắng cuộc” tống chúng ta vào tù để lột cái quần, tẩy luôn cái não, nhưng trại tập trung đã không thành công về “tẩy não”, càng tẩy, các não càng hãnh diện là quân đội Việt Nam Cộng Hòa, riêng người viết vẫn vui và hãnh diện với 3 điều đã đạt được:

-Theo học và tốt nghiệp trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký (LPK)

– Gia nhập và tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

– Phục vụ trong Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam.

* * *

Mãi mãi hãnh diện là một quân nhân nên ngày nay tại hải ngoại, tôi tham dự đều đặn mọi sinh hoạt của hội cựu SVSQ Võ Bị, hội TQLC, hội cựu tù nhân chính trị. Đến đó, tôi được nói và nghe những kỷ niệm đời sống quân trường, được nói và nghe những tin tức về đồng đội, những vị chỉ huy ngày xưa, ai còn và ai đã ra đi, những bạn tù nào còn “cố thủ” trong các trại giam, nhưng chưa được nói và nghe chuyện học trò.

Mỗi lần có thông báo của hội cựu học sinh trường Pétrus Ký họp mặt thì lòng tôi lại “nao-nao” nhớ đến trường xưa, thầy cũ và lũ bạn quỷ-ma-học trò, tôi rất muốn đến tham dự nhưng chưa bao giờ gặp được những bạn học cùng lớp ngày xưa trên đất tạm dung này. Còn quý danh các vị hoạt động trong Hội LPK thì toàn là thầy cô với những cái tên xa lạ, đó là lý do làm tôi ngại ngùng đến với hội.

Một lần khi thấy quý danh thày “Nguyễn Hồng Đảnh” trong danh sách ban tổ chức họp mặt lần 2001 làm cho tôi nhớ lại ngay hình ảnh thầy Đảnh hơn 40 năm về trước với áo sơ-mi trắng, cà-vạt xanh, quần ga-ba-din, mái tóc chải bi-ăng-tin bóng mượt ép sát hai bên và nụ cười tươi tắn trên môi mỗi khi thày bước chân vào lớp học, thầy nhẹ nhàng khoan thai đưa tay ra hiệu cho các trò ngồi xuống. Những hình ảnh đẹp và quý hoá ấy khiến tôi mừng vô cùng, không ngại ngùng tôi bốc máy gọi cho thầy:

-Thưa tôi là Cấp, cựu học sinh L.P.Ký, xin được nói chuyện với thầy Đảnh.

-Tôi là Đảnh đây, nhưng không phải là thầy, có lẽ bạn lầm Đảnh này với Đảnh kia rồi, có 2 Đảnh cùng lớp trùng tên nhưng khác họ, giáo sư Phạm Ngọc Đảnh hiện ở bên Đức, còn công chức Nguyễn Hồng Đảnh là tôi hiện ở Bolsa.

-Không thầy thì huynh, quyền huynh thế phụ mà, em xin được thưa chuyện với huynh Nguyễn Hồng Đảnh.

Huynh Hồng Đảnh rất vui vẻ và nhiệt tình trong câu chuyện làm tôi thấy ấm lòng, vài ngày sau huynh gởi cho tôi cuốn đặc san Pétrus Ký năm 2000, kèm theo lời nhắn nhủ viết bài cho đặc san LPKý, nhất là những kỷ niệm thời học sinh.

Tôi dành riêng một ngày Chủ Nhật, không làm gì cả chỉ để đọc “nghiên cứu” bài vở và hình ảnh của cuốn sách “gối đầu giường”- đặc san LPK. Tôi thật sự xúc động với những hình ảnh của trường xưa và nhất là khi nhận ra hai gương mặt quá quen thuộc trong cuốn đặc san, dù cho bao năm xa cách, tôi vẫn thấy như các thầy đang ngồi nghiêm chỉnh trên ghế sau bàn giáo sư, đó là hình của hai thày Phạm Ngọc Đảnh và thày Trần Thượng Thủ.

Thày Phạm Ngọc Đảnh thì lúc nào cũng tươm tất với nụ cười hiền lành, thày Trần Thượng Thủ đầy đủ bề ngang, khiêm tốn bề cao, không bao giờ dùng lược, thầy ký tên trong học bạ là T.T.T nên bọn học sinh chúng tôi gọi là thầy “Ba Tê”.

Về nội dung cuốn đặc san thì toàn là bài của các thầy cô như tài liệu giảng dậy đã được sửa soạn thật kỹ trước khi vào lớp, nghiêm túc quá! Không tìm thấy chỗ nào có cái ồn ào, cái nghịch ngợm và phá phách của tuổi học trò khiến tôi bị khớp, không dám gởi bài, không trả vốn trả lời gì cho huynh Nguyễn Hồng Đảnh nữa và tôi… lặn luôn.

Đầu năm 2003, nhân dịp về VN lo bốc mộ cho thân phụ, tôi ghé thăm trường cũ lần đầu tiên sau 40 năm xa cách (1962-2003), tôi đã “lặng” người đi khi bước chân qua cổng trường, tôi cắn chặt môi để khỏi khóc thành tiếng khi ngồi trên bậc cầu thang gỗ, chính nơi mà ngày xưa tôi đã ngồi khóc vì bị tụi nhóc học trò “Nam Kỳ” kỳ thị, chọc ghẹo, phá phách một thằng “Bắc Kỳ” con duy nhất cùng lớp đệ thất B1 niên khóa 55-56.

Ngoài cái cảm xúc riêng tư, tôi còn có nỗi buồn chung của bất cứ cựu học sinh nào khi nhìn lại trường mẹ, một bà mẹ già bị đổi tên chỉ còn da bọc xương đương trong cơn hấp hối! Tôi nghĩ là nên kể lại những cảm xúc này cho những ai đã từng một thời là học sinh của ngôi trường mang tên Pétrus Trương Vĩnh Ký thân yêu.

Lần đầu viết bài cho đặc san LPK thật khó, bôi-bôi xoá xoá mấy trang giấy mà vẫn chưa viết nổi lời mở đầu! Cùng tắc biến, biến tắc thông, tôi suy nghĩ nội dung đặc san quân đội tượng trưng cho một đơn vị, một binh chủng, có tiếng súng nổ ngoài tiền tuyến thì cũng có giọng thì thầm của em gái hậu phương thì nội dung đặc san học đường, ngoài các bài viết của các thầy cô nghiêm trang, thì cũng nên có tiếng ồn ào của lũ học trò phá phách, tụi nhỏ đệ thất nghịch ngợm vô hại, tụi đệ tam qủy quái và những ông “cụ non” lớp đệ nhất, có thầy cô nghiêm trang trong giờ học thì cũng nên có cảnh ồn ào, vô trật tự của giờ ra chơi, của giờ tan trường cũa lũ học trò. Nghĩ vậy nên tôi khai thông được bế tắc, cứ viết cứ nhắc lại chuyện vui buồn ngày xưa để có nụ cười ngày nay. Bài viết này như một tên “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” xin góp mặt cho vui.

***

Ngày Về Thăm Trường Cũ:

Đúng ra thì tháng 4 năm 1985, sau gần 10 năm theo học trường học-đại “làm-súc-vật (không phải đại học Nông Lâm Súc), trong các trại tù của VC, tôi may mắn không tốt nghiệp thành súc vật nên sau khi ra khỏi nhà tù nhỏ, trở về nhà tù lớn, tôi đã có dịp trở lại thăm trường cũ rồi, nhưng trường đã bị đổi tên và người bảo vệ không cho tôi vô, buồn thay! Lần này, năm 2003, khi từ Mỹ về, rút kinh nghiệm, tôi sai một tiểu đội 3 số 5 (555) đi thám thính trước thì được người bảo vệ đón rước ân cần, chấp thuận ngay, người ta còn ân cần “rặn-rò” muốn coi chỗ nào cũng được, muốn chụp thì chụp, muốn quay thì cứ thoải mái v. v.. tội nghiệp quá! Muốn về thăm trường cũ cũng phải hối lộ!

Tôi đến thăm trường vào sáng Chủ Nhật, từng bước từng bước thầm, như sợ những hòn sỏi dưới chân làm mất đi sự yên tĩnh, tôi dừng chân ở giữa sân phía trước, nhìn đảo một vòng từ phải qua trái, rồi hình như có thần lực nào đó bắt tôi đứng yên, nhắm mắt lại, nghẹn lời, cổ họng co thắt thật đau:

thay cu truong xua 01

(Trường LPK năm 2003, dấu X là nhà bảo vệ)

Trường MẸ đây ư? Nơi tôi đã trải qua 7 năm học hành và tu luyện từ 55-62, mẹ tôi già quá rồi, răng long tóc bạc, da nhăn nheo! Chưa yên, họ còn giải phẫu tàn phá dung nhan của NGỪƠI, cắt chỗ nọ, vá chỗ kia, thay tên đổi họ! Tôi sẽ phải thưa lại với các thầy cô và huynh đệ của tôi, hiện là những nhà phẫu thuật tài ba, những y bác sĩ mát tay, những thầy cãi giỏi, cùng tất cả những ai từng mài đũng quần trên ghế nhà trường rằng: “Trường Mẹ cần sống lại như xưa”.

Có nhìn tận mắt mới thấy hết cái tiều tụy, hom hem, bệnh họan của bà Mẹ bị thay tên đổi họ, bị mất giấy khai sinh, đang chờ các con đòi lại.

Đứng từ ngoài đường Cộng Hòa nhìn vào thì sát ngay bên tay trái cổng chính, họ đã xây một căn nhà cho những người bảo vệ! Căn nhà nhếch nhác này che khuất tầm nhìn vào tiền sảnh, làm mất hết vẻ đẹp và trang nghiêm của trường, trông giống như cô nữ sinh bị đổ chàm lên nửa khuôn mặt xinh tươi. Chính diện đã luộm thuộm như thế thì các nơi khác ra sao? Cơn “gió hồng đỏ” nào đã thổi bay đi những nét trang nghiêm, cổ kính của trường tôi? Những cây bông sứ hoa trắng nhụy vàng xinh tươi ngày xưa nay đang trở thành những nàng cổ thụ già sống lây lất trong đám cỏ dại trông như những cây hoa đại ở các lầu đài hoang phế!

Tôi bước lên bậc tam cấp, đứng giữa hành lang, đây là dẫy hành lang đẹp nhất trong tất cả các trường trung học và đại học ở Sài Gòn khi xưa, những viên gạch men trắng đỏ không còn bóng láng nhưng vẫn còn nét đẹp trang nghiêm và duyên dáng.

Tận cùng phía tay trái hành lang là khu văn phòng và là nơi hội họp của các giáo sư, ngoài cửa vẫn còn cái trống treo trên giá, không biết có phải cái trống gióng lên những tiếng “thùng-thùng” báo hiệu giờ vào lớp từ hồi tôi còn học lớp đệ thất hay không? Tôi yêu những hồi trống khoan thai nhịp nhàng khi tan trường hơn là tiếng chuông điện rộn ràng chói tai.

Tận cùng hành lang phía tay phải cũng là khu văn phòng, có bàn giấy của cô Ngà. Dù mấy chục năm xa cách, tôi vẫn còn nhớ đến hình bóng cô. Cô thường mặc áo dài lụa Hà Đông màu mỡ gà, lúc đầu cô là giáo sư dạy vạn vật lớp đệ thất, sau cô đổi lên làm việc văn phòng. Trò nào nghỉ học không xin phép trước, ngày hôm sau trở lại trường thì phải đến gặp cô với lá thư xin phép nghỉ có chữ ký của phụ huynh. Nhiều khi cô biết đó là thư giả mạo nhưng cô vẫn lờ đi với nụ cười bao dung giọng nói em dịu:

-Chữ ký này không được giống lắm với chữ ký của Ba con.

Con cám ơn cô, con đã trốn học nhiều lần không phải vì lười mà vì sợ giờ Pháp Văn của thầy Phạm Văn Ba. Con còn nhớ ngày đó cô và con cùng ở bên Khánh Hội, Quận Tư, Sai Gòn. Nhà cô ở đường Hoàng Diệu, còn nhà con ở hẻm 172/18 đường Lê Quốc Hưng, sáng nào đi học con cũng đi ngang cửa nhà cô, không biết nay cô có còn.. và còn ở đó không?

Qua khỏi hành lang, bước vào sân chính giữa của trường thì ngay góc trái là một cái sàn gỗ, có lẽ dùng để làm sân khấu, tấm ván cong, miếng gỗ mục, đinh thì cái rụng cái lung lay! Hẳn là đã lâu ngày không có ai lên đó để nhẩy “son đố mì”. Tôi không thể hiểu nổi cái nhìn thẩm mỹ và trật tự của những người có trách nhiệm.

Chính giữa sân, trên trụ xi-măng đá mài, xưa kia là bức tượng của nhà Bác Học Petrus Trương Vĩnh Ký, người thày của đạo lý và văn chương, nay tượng bị “cuồng phong gió chướng” thổi bay mất rồi, thổi bay cả những gì thuộc về văn hóa ra khỏi ngôi trường thân yêu. Hơn 4 ngàn năm văn hiến mà không kiếm được một danh nhân nào xứng đáng đặt tên cho một ngôi trường mà phải dùng đến biểu tượng nón cối dép râu! Quốc Tổ Hùng Vương còn bị kéo xuống cho bằng ngang phải lứa với ngôn từ hỗn xược: “bác dựng nước, tôi giữ nước” thì nói chi tới những người tuy cùng da vàng máu đỏ nhưng cái đầu không đỏ thì cho “tất tần tật” vào tù. Không biết ông cụ Trương Vĩnh Ký của chúng ta bị “cải tạo” ở nơi nao và bao giờ mới tiến bộ để được tha về? Bao giờ Cụ được trả về chỗ xưa!

-“Thôi, đừng đứng đó mà càm-ràm nữa, họ chiếm chỗ của ta trong ngôi trường này rồi, nhưng họ không bao giờ chiếm được chỗ của ta trong lòng các con, những cựu học sinh L. P.Ký, con hãy đi thăm trường cũ đi”.

Nghe như có tiếng ai nhắc nhở bên tai khiến tôi bừng tỉnh giấc mơ, người và cảnh vật đã thay đổi nhưng ngôi trường cũ tên Trường Vĩnh Ký vẫn mãi mãi đẹp trong lòng mọi cựu học sinh, nơi đây đầy tình thương, bao dung và nhân ái và cũng đầy đủ kỷ luật nghiêm minh mà bất cứ học trò nào cũng “ngán” nhưng lại rất hãnh diện về điều đó.

Bẩy năm mài đũng quần nơi đây nên đi đến đâu tôi cũng gặp những hình ảnh quen thuộc thật xúc động. Ngày xưa ấy, ngoài hành lang lát gạch men trắng đỏ chạy thẳng tắp, không một bóng dáng học trò, hình như đang trong giờ học, chỉ thấy có thày tổng giám thị Thử và thầy giám thị Tập cắp tay sau lưng đi tới đi lui canh chừng những chú nhóc nhảy qua cửa sổ trốn học. Ngang qua mỗi lớp tôi nghe như có tiếng giảng bài của thầy cô trên bục, tiếng khúc khích của học trò dưới cuối lớp, từng khuôn mặt các bạn học cũ với những kỷ niệm lần lượt trở về.

Bước theo những bậc cầu thang gỗ lên lầu hai, tôi đứng trước phòng học đầu tiên, đây là lớp đệ thất B1 niên khóa 55-56, chính lớp học này là nơi tôi, một tên “Bắc Kỳ di cư 54” duy nhất trong lớp, phải hứng chịu những chọc ghẹo do đồng môn “Nam Kỳ” gây ra mà cho tới nay, gần 60 năm sau những kỷ niệm đau khổ chưa quên, tôi nhớ từng khuôn mặt của đám nhất quỷ nhì ma thứ ba là chúng, mỗi khi trông thấy tôi là bọn chúng la:

-“Bắc Kỳ ăn cá rô cây! Bê-Ka bắn súng nục”.

Lúc đầu thấy chúng ồn ào làm tôi sợ chứ tôi có biết “cá rô cây” và “ Bê Ka bắn súng nục” là cái gì đâu! Sau này tôi mới hiểu ra chúng nhạo báng sự nghèo nàn trong bữa ăn của địa phương tôi, họ phịa ra chuyện chúng tôi không có cá nên đẽo con cá rô bằng gỗ để trên mâm cơm, mâm cơm có “cá rô”. Còn “súng nục” chính là súng lục, họ nhạo bang giọng nói ngọng giữa L&N của “Bắc Kỳ rau muống” làm tôi đau khổ thêm. Nhưng khổ nỗi đó lại là sự thật, nó vẫn tồn tại ngay trong các trường học “Xã hội Chủ Nghĩa”.

Chưa hết, ngoài “đặc sản cá rô cây” và nói ngọng, chúng còn ca hát nhạo báng các món ăn “khoái khẩu” của tôi theo cái điệu “Nối Vòng Tay Lớn” dễ ghét.

– Từ Bắc zô Nam tay cầm bó rau*, tay kia là sợi dây xích mà dắt con cầy**

(*rau muống, **cầy tơ=cờ tây=thịt chó. Sống trên đời ăn miếng dồi chó, sau xuống âm phủ không có mà ăn).

Tại sao tôi lại liều mình nhảy vào nơi đầy tao loạn này?

Vì là dân “Bắc Kỳ Di Cư 54” từ Hải Phòng vào Saigòn, chưa thông thuộc đường đi nước bước, hơn nữa cơ quan làm việc của anh tôi nằm trong thành “Ô-Ma”, đối diện với trường L.P. Ký, nghe bạn đồng sở nói rằng đó là ngôi trường công lập lớn danh tiếng nhất miền Nam là anh cả của tôi nộp đơn cho tôi thi vào lớp đệ thất, danh tiếng hay không chưa cần biết, nhưng điều quan trọng là con nhà nghèo, nếu đậu và được học trường công, tôi không phải học trường tư, không phải đóng học phí là tốt rồi.

Tôi may mắn được trúng tuyển thứ 18/320 trong số hơn 7 ngàn hoc sinh dự thi vào lớp đệ thất niên khóa 55-56. Niềm vui và hãnh diện của một gia đình BK di cư có con thi đậu vào trường trung học L.P. Ký thật là hãnh diện, nhưng không ngờ đó lại là một đại họa đến với tôi! Tôi lo sợ khi tới trường, khóc trên đường về. Sau một tháng chịu không nổi, tôi xin gia đình cho tôi bỏ học, anh tôi buồn và thất vọng lắm nên an ủi:

-Cố gắng theo học một vài tuần nữa xem sao, em bỏ học ở đó thì lấy tiền đâu cho em đi học tư? Không lẽ nghỉ học đi bán “cà-rem” à!

Ở cái tuổi 13 mà được đi bán cà-rem thì vui rồi, tương lai đầy túi tiền, nhưng vẻ nghiêm nghị của người anh bắt buộc tôi phải tiếp tục con đường “thập tự giá”! Mỗi buổi sáng tôi phải đi bộ từ Khánh Hội, qua cầu Mống, dọc theo đường Phó Đức Chính, Phạm Ngũ Lão, xuôi theo đường Võ Tánh đến đường Cộng Hòa, càng gần tới trường thì chân tôi như tê đi, không muốn bước thêm, rồi lững thững như một cái xác không hồn cũng vào tới lớp. Trong giờ học, khi ra chơi, lúc nào bên tai tôi cũng văng vẳng những câu: “Bắc-Kỳ ăn cá rô cây, bắn súng nục, cộng rau muống, từ Bắc zô Nam v.v..”.

Nổi tiếng trong đám “quỷ sứ” chọc phá tôi là tên Nguyễn Xuân Thanh, tóc hớt ngắn, má có nốt ruồi đen, giọng khàn khàn, nói luôn miệng làm bọt trắng cả hai bên mép, nghe đồn nó là bà con với thầy giám thị Tập, nên tôi ghét luôn thầy Tập và đặt cho thầy cái tên “Bớ-Tí-Xồi”.

Đồng lõa với tên Xuân Thanh là “bè lũ ác ôn” mà cho tới nay tôi còn nhớ mặt đặt tên đến hơn 1/2 lớp, không hiểu vì lý do gì mà tôi nhớ dai những cái tên của chúng đến như thế? Có thể là do “niềm đau nhớ đời”. Kể ra thì dài dòng nhưng đã hơn 60 năm, nhắc đến họ như một lời thăm hỏi chân thành thay cho mối thù xưa, dù là bạn đã lên trên trời hay còn lang thang dưới đất khắp Năm Châu, xin một lần gọi tên các bạn sau:

Cao Hoàng Anh, Lê Văn Ba, Ngô Văn Bê, Nguyễn Ngọc Bửu, Đặng Văn Cảnh, Nguyễn Đức Cần (K19VB*), Cẩn, Phạm Thượng Chí (K19VB*), Nguyễn Đồng Chí, Lê Văn Chiểu (K19VB), Vương Bình Dzương, Đạt, Đặng Chiếu Điện, Lê Đình Điển (K19VB*), Huỳnh Văn Đởm, Bùi Mạnh Đức, Đinh Văn Hòa, Phạm Đức Hòa, Phan Chi Hảo, Hoàng, Huệ, Hùng, Hưng, Đinh Văn Hơn (K19VB), Hoàng Gia Hiếu (K19VB), Khoa (lé), Phan Ngọc Khải, Khiết, Khôi, Lê Văn Kiệt (K19VB), Lý Chi Lan, Phạm Huỳnh Tam Lang, Phan Thành Long (Long trên) Trần Quốc Long, (Long dưới) Huỳnh Văn Ngày, Ngô Văn Nô (K19VB*), Ngô Minh Quan, Trần Văn Quây, Bùi Vĩnh Thạnh, Võ Thạnh Thời, Thắng, Nguyễn Thành Tư, Nguyễn Ngọc Tư (K20VB), Tô Văn Thình, Lê Quan Trường (K19VB), Nguyễn Tấn Tờn, Nguyễn Tấn Kinh, Hoàng Luyện Huỳnh Hữu Duy Toản, Phan Bá Vân.

(K19VB: là những bạn cùng lớp đi Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt với tôi. K19VB* là những đồng khoá đã hy sinh ngoài chiến trường, đã trả nợ Tổ Quốc xong)

Tôi với họ là bạn đồng lớp nhưng họ lõa với nhau, cùng la hét đập bàn vỗ tay, cười nhạo báng mỗi khi giáo sư Pháp Văn Phạm Văn Ba bắt tôi đọc “đích-tê”.

Năm 1953-54, khi còn học lớp đệ thất tại trường trung học Ngô Quyền, Hải Phòng, thày Pháp Văn dạy chúng tôi đọc “manh” (main) là bàn tay, “ma tanh” (matin) là buổi sáng, Tonkin là Bắc Kỳ, còn trong Nam thì đọc là “me” hay “ma te”. Tôi không chỉ bị học trò nhạo báng mà cả thầy cũng cười, thầy Ba bắt tôi phân tích mệnh đề “a-na-li-zê gramatical”! Trời ơi là trời! Tới giờ Pháp Văn của thầy Ba là như tôi sắp bị đem lên đoạn đầu đài, đó là lý do tôi trốn học.

Ngoài chuyện nhạo báng tôi dốt tiếng Pháp, nói “nẫn-nộn” hai chữ L&N (mà sau 1975 tôi lại cười đồng hương BK 75), chúng còn dở thói vũ phu. Ngồi sau lưng tôi là các tên Nguyễn cài giấy vào lưng quần tôi châm lửa đốt, rồi chúng nói đốt pháo cột đuôi trâu như trong truyện Tàu cho ngưu xung trận! Tôi hận lắm nhưng đành ngậm miệng.

Niềm đau nhớ đời, sau năm 1964, khi tôi tốt nghiệp Võ Bị, tình nguyện về Binh Chủng TQLC, là Trâu Điên thực sự (TĐ2/TQLC), tay cầm súng “nục”, tôi đi tìm chúng để trả thù, bắn cho nát mông những tên ngày xưa gài giấy châm lửa đốt đít tôi thì chúng đã là lính Hải Quân, lính KQ có súng to và dài nên tôi lại sợ, còn những thằng về Bộ Binh, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, TQLC thì lại cùng tôi đi đánh nhau với “kẻ khác”.

Tôi vốn dĩ là dòng dõi con nhà nghèo, có cái áo sơ-mi trắng bị chúng vẩy mực tím loang lổ sau lưng nhưng phải vẫn mặc để đi học, có chỗ rách sau lưng, mẹ chưa kịp vá cũng vẫn phải mặc đi học, những tên Nguyễn này đưa ngón tay vào móc cho rách thêm! Tôi đâu dám thưa thầy, tuy giận tím mật tím gan mà đành mặc áo rách ra về, miệng lẩm bẩm chửi thề những thằng Tư-Lù, Đức Cống. Cả hai tên này hiện nay đang định cư tại Houston TX và chúng tôi vẫn liên lạc với nhau để chửi thề.

thay cu truong xua 02

(Tầng 2 bên tay trái là phòng sinh họat Hiệu Đoàn)

Suốt thời gian đệ nhất tam cá nguyệt của niên học, tôi mất tinh thần, như một con cù-lần lúc nào cũng gục mặt xuống bàn ở cuối lớp học, đội sổ liên tục khiến ông anh vừa ký vào sổ học bạ vừa thở dài lắc đầu buồn bã!

Tôi cũng buồn lắm, nhưng dứt khoát là phải bỏ học thôi, có mấy thằng bạn hàng xóm ở hẻm 172 Lê Quốc Hưng Khánh Hội, Quận Tư, đã chỉ cách đi bán cà-rem hoặc theo bọn chúng ra bến Nhà Rồng bám theo dây leo lên boong các tàu buôn phá phách, cảnh sát thương khẩu bắt gặp thì tụi tôi sẵn sàng “bờ lông-nhông” xuống song. Chúng dậy cho tôi hút thuốc lá. Máu du côn con nít bến tầu Khánh Hội theo tôi vào lớp, không chịu làm con cù-lần nữa mà phải vùng lên để hy vọng “được” đuổi học.

Một buổi sáng, tôi đang bước lên cầu thang mà lòng nặng trĩu, vì giờ Pháp Văn của thày Phạm Văn Ba đang chờ phân tích mệnh đề mà tôi thì có hiểu gì đâu! Đã vậy lại có một thằng cùng lớp, cùng họ là Tô Văn Thình thì giỏi Pháp Văn nhất lớp, khi Tô Văn Cấp dốt đặc cắn mai, đứng im lặng cúi đầu thì thầy Ba gọi Tô Văn Thình giảng cho tôi và cả lớp nghe. Tô này xấu hổ và giận lây sang Tô kia thì tôi bỗng nghe có tiếng chọc ghẹo phía sau lưng:

-“Ê, ê Bắc Kỳ ăn cá rô cây ..”.

Con giun xéo lắm cũng phải quằn, như một cái máy, không cần biết người nói câu đó là ai, tôi vung mạnh cái cặc-táp về phía sau lưng và trúng mặt hắn, đang đứng ở bậc thang phía trên, tôi quay lại co chân đạp vào ngực, nó lăn xuống chân cầu thang và gẫy mất một răng cửa nên sau này nó có biệt danh là Thanh sún. Tôi bị trình diện thầy tổng giám thị và thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Trương.

Tuy mới chỉ học lớp đệ thất thôi, nhưng vì muốn “được” đuổi học nên tôi không còn sợ như trước nữa mà cãi lung tung, nào ngờ… đã không bị đuổi mà các thầy còn bắt trò Thanh xin lỗi tôi và hứa không được kỳ thị chọc phá tôi nữa. Nhưng để duy trì kỷ luật, hai chúng tôi cùng bị “cồng-sin” 2 hột vịt đựng trong hộp (0-0), sáng Chủ Nhật vào trường ngồi học 4 tiếng.

Kể từ sau ngày đánh lộn, tôi hết bị chọc ghẹo, chuyện kỳ thị Bắc-Nam không còn trong đám học trò, chúng tôi chơi thân với nhau hơn, nhờ đó, từ vị trí đội sổ, thứ hạng trong học bạ của tôi nhích dần lên và trụ lại ở hàng “top-ten”, rồi đậu trung học, tú tài 1, tú tài 2. Nếu như ở môi trường khác, không có tình thương và kỷ luật nghiêm minh thì có lẽ tôi đã trở thành đứa trẻ bụi đời ở bến tầu 6 kho Khánh Hội Sai Gòn rồi, làm sao có được niềm hãnh diện là cựu hoc sinh L. Petrus Ký để viết lại những kỷ niệm này.

– “Con xin tạ ơn thầy Hiệu Trưởng, thầy Tổng Giám Thị và tất cả các thầy cô đã dạy con trong 7 năm trời, xin kính dâng những nén nhang lòng lên quý thầy cô đã quy tiên, xin kính gửi lời chào, thăm hỏi và nhắc đến những thầy cô mà đã hơn 60 năm mà con vẫn chưa quên quý danh và hình dáng quý thầy cô.”

Thầy Pháp Văn Phạm Văn Ba là giáo sư tôi sợ nhất trong số các thầy cô mà tôi được học, vì lý do tôi rất dốt môn này, nhưng nhờ con trai của thầy là Phạm Thượng Chí (Chí Tây lai) khuyến khích tôi học thêm Pháp Văn tại gia mà sau này tôi khá hơn, biết chia vẹc-bờ “ira, irong, irê”, tuy nhiên tôi vẫn không hiểu tại sao cái cà-vạt ông Tây mang trên cổ là giống cái “la”, còn cái “sắc” bà Đầm cầm tay thì lại là giống đực “le”?

Một kỷ niệm khó quên với thầy Ba mà có lẽ nó ảnh hưởng đến cái tính “tối dạ” của tôi sau này. Khi thày bảo tôi dịch câu “table libre” ra tiếng Việt, mặc dù tôi hiểu nghĩa “table” là cái bàn, còn “libre” là tự do, nhưng không biết dịch ra tiếng Việt sao cho xuôi tai. Không lẽ lại dịch là “cái bàn tự do”! Nghe tôi trình bày, thày nhíu mày nói:

-Sao trò tối dạ thế, “cái bàn tự do” là cái bàn còn trống, chưa có ai ngồi, người nào muốn ngồi vào thì cứ tự do, có thế thôi mà cũng không hiểu.

Quả thực là tôi tối dạ và cho mãi đến bây giờ tôi vẫn còn tối dạ như thế, chẳng hiểu được lý do tại sao cộng đồng người Việt bị VC đuổi chạy té khói ra hải ngoại mà vẫn còn những người tai to mặt lon lòn quỳ gối để xin chúng cho cái danh “Zịt-Cừu iêu lước”?

Môn Anh Văn có thầy Đồ và thầy Thái, thầy Đồ không cho học sinh nói tiếng Việt trong giờ học, thầy luôn luôn nhắc nhở: “If you want, put your hand up”. Mới chỉ học bập bẹ: “what is this? This is Jack, Jack is a boy, boy is a person, person is not an animal” thì làm sao biết mở miệng nói bằng tiếng Anh câu muốn hỏi, thôi dành im lặng và vì thế cho đến nay tôi vẫn nói tiếng Mỹ bằng tay!

Thầy Thái thì lúc nào đầu tóc cũng chải láng coóng, sắc diện luôn “hồng hào”, học trò của thầy phải viết lại tất cả những danh từ ở sau cuốn “6eme-bleu” và phần phiên âm quốc tế cong queo rồi thêm nghĩa tiếng Việt vào là thành cuốn tự điển của mình!

Dạy Sử Địa có 3 vị là cô Sâm hiền lành dễ mến, cô Thiên Hương trẻ đẹp, cô Dung nghiêm nghị, cô Dung không bao giờ cười, trò nào lên bảng cầm cục phấn vẽ con sông từ cửa sông trở lên nguồn là cô cho ăn hột-zịt muối. Khi phát bài thi, cô luôn gọi từ điểm thấp lên cao nên các trò hồi hộp ngồi chờ mong cô gọi tên mình cuối cùng.

Thầy Lê Trọng Phỏng còn rất trẻ và phong lưu với áo sơ-mi gài mang-sết, thắt cà-vạt và đi cái xe đạp có vành sau cong-cong. Mỗi khi tan trường về, thày chạy phía trước, trò đạp xe theo sau trên đường Hồng Thập Tự để xem cái bánh xe sau của thầy nó “lắc lắc” thật dễ thương.

Thầy Tạ Ký và thầy Thái Chí dạy Việt Văn, một lần trước giờ học của thầy Tạ Ký, tên Nguyên Xuân Thanh (vẫn là nó) vẽ trên bảng đen một bao gạo với chữ “100 kg” thật to, khi vào lớp thầy Tạ Ký đứng ngắm bao gạo rồi lắc đầu mỉm cười mà không thèm hỏi thủ phạm là ai, chắc hẳn là thầy hài lòng với lối khôi hài của đám học trò quỷ quái.

Thầy Thái Chí rất yêu trò và cũng thương chó, thầy ở độc thân trong một villa cũ kỹ gần trường trung học kỹ thuật Cao Thắng, khi chúng tôi đến thăm thầy thì thấy có quá nhiều chó mèo, thức ăn và đồ phế thải vung vãi khắp nơi, môi trường không được thơm tho nên vài trò có ý định “heo” thầy một tay, bèn hỏi:

-Sao không có ai dọn cứt… vậy thày?

-Tao mà dọn những thứ đó thì ai soạn bài để dọn cái đầu của mấy trò?

Câu hỏi vô duyên của trò được thày giải đáp quá là văn chương và thâm thúy, lúc đó tôi không biết lý do tại sao thầy sống độc thân mà lại nuôi nhiều pet, nay thì tôi hiểu và chắc nhiều trò ở vào tuổi 60 cũng muốn theo gương thầy cũ, pet không bao giờ biết cằn nhằn và trách móc, giận hờn mà luôn vui vẻ dù bị bạc đãi. Trong đặc san L.P.Ký năm 2000, cô (bà) Phượng có viết một đoạn như thế này:

-“If your dog is barking at the back door and your wife is yelling at the front door, who do you let in first?

– “The dog, of course, he will shut up once you let him in”.

Quả là chí lý, không ai hiểu nhau bằng chính các chị. Có thể vì lẽ đó mà thày Thái Chí nuôi nhiều chó mèo.

thay cu truong xua 03

Hành lang nối liền văn phòng trường và phòng họp giáo sư

Lý-Hóa có thầy Đảnh và Đính, cả hai thầy còn rất trẻ và đẹp-zai, hình như mới tốt nghiệp từ trường bên cạnh (Đại Học Sư Phạm). Thầy Đảnh thì tóc tai mượt mà óng ả, miệng lúc nào cũng cười, còn thầy Đính thì mốt hơn, mái tóc bồng bềnh, đôi bốt cao-cao, nghiêm nghị hơn, trò nghe tiếng giầy của thầy kêu “cộp-cộp” ngoài hành lang là ngưng đánh cờ ca-rô ngay, nếu để bị thầy bắt gặp thì thầy sẽ hỏi “HO2” là chất gì? Trò nào nhanh nhẩu đoảng thưa thầy đó là Nước (H2O) là được thầy cho ăn 2 trứng vịt ung ngay. Thú thật cho đến giờ này tôi cũng không biết cái chất ký hiệu “HO2” là cái giống gì, có vẻ như viết tắt của chữ “hột vịt”.

Thày Bích, thày Giỏi, thày Quý, lo về thể chất, tôi nhờ có đôi bàn tay biết “nâng” banh chính xác nên thầy Bích tuyển tôi vào đội bóng chuyền, buổi đầu thi đấu với trường Đại Học Dược Khoa, Petrus Ký thua liền 3 séc

Về thể chất, tôi nhớ lúc đó hình như còn có thày Dương Ngọc Sum. Trong số các thày cô mà tôi đươc học ngày trước thì nay (2020) tôi chỉ còn được gặp thày Sum. Thày và hội LPK Nam CA đã đến tham dự ngày ra mắt cuốn NỬA ĐƯỜNG của tôi. Đây là vị thày cũ đáng kính và duy nhất mà tôi còn được găp lại sau hơn 65 năm. Hiên nay thày là cây tùng trước bão, là cây đại thụ cho hội LPK Nam CA núp bóng.

(Hình: Thày Sum nhắn nhủ trò Cấp ngày trò ra mắt sách Nửa Đường)

Đội tuyển đá banh của thầy Giỏi có Phạm Huỳnh Tam Lang phòng thủ, Duy Toản trung phong còn tôi thì nhờ kinh nghiệm lúc trước leo cửa sổ, trèo tường nhanh để trốn học giờ Pháp Văn nên thầy cho tôi chạy “tả biên và hữu biên ngoại” tức là biên ngoài, chạy ngoài sân để lượm banh.

Vị thày đáng kính và quan trọng đối với lớp đệ nhất B chúng tôi là thày dậy hình học Nguyễn Văn Binh, thày không giảng lý thuyết, cũng không bắt học trò trả bài, nhưng trò nào cũng phải cố giải cho được những bài toán ở trang sau cuốn toán “Le Bốt-Xê”.

Vừa vào lớp là thày gọi một trò lên bảng giải bài toán mà thầy đã cho tuần trước, nhiều khi gặp bài toán khó, cả thày lẫn trò cùng bóp trán suy nghĩ, thày thật bình dân cùng trò tranh luận đúng sai, cuối cùng, nếu không có lối thoát thì lúc đó thày mới mang bửu bối ra, đó là tập tài liệu phương pháp giải những bài toán khó do thầy biên sọan rất công phu và dự tính sẽ in thành sách sau này.

Ban B thì toán là quan trọng nhất, hệ số 3, đi thi tú tài mà làm trúng bài toán thì coi như kết quả đạt 50% đoạn đường. Học với thày Binh không có vấn đề trúng tủ, mà phải biết đủ mọi phương pháp, vì thế kỳ thi tú tài 1B năm 1961, học trò lớp đệ nhị B1 của thầy đậu 95%. Đậu bình và bình thứ là những tên: Trương Bá Hùng, Trương Trung Nguyên, Trương Quang Tuấn, Cao Thanh Tòng, Lê Quan Trường, Phan Ngọc Khải, Trần Xuân Kiêm, Bùi Vĩnh Thạnh v. v..

Đậu hạng thứ gồm có: Tô Văn Cấp, Lê Đình Điển, Đinh Văn Hơn, Ngô Duy Khiêm, Lý Chi Lan, Lý Trần Tôn Thân, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Thành Tư, Phan Chi Hảo, Trần Xuân Lộc, Nguyễn Hữu Nhất, Đoàn Văn Chấp, Đinh Văn Hòa, Phạm Đức Hòa, Nguyễn Tấn Hưng, Trần Văn Quây, Lâm Trường Thương, Đặng Chiếu Điện, Nguyễn Võ Kỵ, Lý Thành Phương, Trịnh Thành, Lê Văn Chiểu, Võ Thạnh Thời, Huỳnh Văn Ngày, Hoàng Luyện Huỳnh Hữu Duy Toản v.v.. đến kỳ thi tú tài 2B năm 1962, lớp của thầy Binh đậu 98%.

Thời 1961-62 các lớp đệ nhị đệ nhất thi tú tài I và II đậu hành bình và bình thứ là cao lắm rồi, rất hiếm hoi có trò đậu hạng ưu. Sau này nghe nói các trò lóp 11 và 12 thi trung học đậu hạng ưu nhiều lắm. Có lẽ thời chúng tôi (55-62) lười học chăng?

Tôi chỉ còn nhớ được bí nhiêu thôi, trong số những người kể trên, có tên đã ra đi ngoài chiến trường, hoặc vì bệnh (dù không hoạn), những người còn lại thì đang từng bước từng bước thầm không cần chờ “người yêu đến” mà từ từ tiến đến mục tiêu cuối cùng! Ước chi gặp nhau để ôn chuyện cũ. Nếu không, xin hẹn tất cả về tề tựu đông đủ vào niên khóa 2055-56, kỷ niệm 100 năm nhập học lớp đệ thất B1 (1955-56) dưới mái trường Lycée Pétrus Trương vĩnh Ký, viết tắt là L.P.K.

Cháu chắt các cụ GL, TV, LVD thường trù ẻo đám L.P.K là “Lũ Phơi Khô”, tưởng họ nói chơi cho vui, nào ngờ độc mồm độc miệng khiến ngày nay chuyện đã trở thành sự thật, đám LPK ngày xưa ấy, nay tuy mới bước vào tuổi thất bát tuần thôi mà trò L.P.Ký nào cũng khô như .. cá mắm, khô kể cả thể xác lẫn tình cảm. Kẹt ở chỗ là đại đa số gia đình cụ P.Ký thường kết thông gia với gia đình các cụ Gia Long, LVD nên nếu chúng tôi bị “khô khan” thì không phải lỗi ở chúng tôi, hai họ cùng bị thiệt hại chung chớ nào phải riêng một mình ai đâu!thay cu truong xua 04.jpg

Bức tượng (hiện nay) không còn là Tượng cụ Trương Vĩnh Ký nữa.

Ngày đến thăm trường, tôi đứng trên lầu hai, tựa vào lan-can, chỗ ngày xưa chúng tôi vẫn dựa vào trong giờ ra chơi, nhìn qua dẫy lầu đối diện, nhìn xuống sân trường, những bộ đồng phục áo trắng quần xanh ngày xưa đi đâu cả rồi? Nay chỉ là một toán em nhỏ quàng khăn đỏ đang tập múa hát theo bản nhạc “Sóc-Măm-Bô”, bản nhạc tôi quá quen thuộc nhớ lại trong những ngày ở tù trên núi rừng thượng du Việt Bắc khiến tôi rung mình, không còn hào hứng chụp những tấm hình như dự định, tôi đi xuống lầu, vòng ra cửa sau, cái cửa mà 60 năm về trước chúng tôi chen chúc xô đẩy tranh nhau mỗi khi tan trường.

Bẩy năm ra vào cổng này mà nay tôi không còn nhận ra đâu là đâu! Tứ bề bị bịt kín bởi những căn nhà lầu của công nhân viên (?), không còn nhìn thấy khu trường đại học, trường Chu văn An (cũ), không thấy thư viện Quốc Gia, sân vận động, bãi dất trống nơi các “vận động viên” của thầy Bích tụ tập ngốn bò khô, đổ xí-ngầu-lắc, uống nước mía, nước đá nhận. Các bạn còn nhớ nước đá nhận là gì không? Nước đá bào nhuyễn, ấn vào ly cho chặt, nhỏ vào đó vài giọt xi-rô đỏ, vừa đi vừa mút là chúng ta có được đôi môi mọng đỏ, đâu cần phải lén bôi tí son lên môi như mấy cô nữ sinh TV, GL, LVD khi đi học.

Hai hàng cây sao cao vút vẫn còn (may quá)! Vẫn thả những cánh hoa xoay chong chóng, nhưng những dẫy nhà để xe đạp của học sinh không còn nữa mà là những dẫy nhà lầu của ai (?). Từ những hàng cây sao vào tới chân tường các lớp học ngày xưa thì nay như bãi hoang với vài mái tôn ngả nghiêng trên những cọc gỗ siêu vẹo!

Nhớ lại khu vưc để xe, ngày xưa đa số là xe đạp, loáng thoáng một vài xe mobylette, solex, sash, torpedo, hồi đó chưa có xe honda, đây là nơi Bê-Ka tôi giải quyết ân oán giang hồ, trò Bê-Ka tôi thế cô nên phục kích “lũ ác ôn”, kẻ yếu dung mưu để trừng trị kẻ mạnh:

Chỉ một cây kim băng thôi, đi nhẹ một đường “nhất kim chỉ”, chích một phát vào cái vỏ xe của tên nào xé áo tôi là tôi có quyền nhếch mép mỉm cười nhìn địch thủ nhăn nhó đẩy xe vê-lô xì-lốp đi vá. Thế võ này gọi là “vê-lô xì-lốp” được mang từ Liên Sô về.

Bây giờ họ không cần nhà để xe nữa, tận dụng lề đường mặt tiền nhà trường làm bãi để xe, còn bộ hành, khách đi đường thì phải đi dưới đường là đúng rồi chớ tại sao “khách đi đường” lại đi trên vỉa hè? Kách (cái) mệnh là như thế!

Trước khi trở về thăm trường, trí tưởng tượng của tôi vẫn là ngôi trường nguy nga nằm trên đường Cộng Hòa với những cậu học trò áo trắng quần xanh, mang trên nắp túi áo “anh-xin” bản đồ nước Việt Nam, cây viết và văn bằng cuốn lại, đẹp hơn huy hiệu hình hoa mai vàng của trường GL nhiều. Những hình ảnh quen thuộc đáng yêu làm tôi háo hức nôn nóng phải về thăm trường cũ như đứa con xa nhà lâu ngày mong về thăm cha mẹ hay lãng mạng một tí, cậu P.Ký đi du học Mỹ mong về để thăm người yêu. Nhưng thật buồn như khi người thân đã mất, trường Mẹ như bị bệnh nan y! Thực ra ai cũng đoán được điều đó nhưng mong quá hóa ảo.

Kính thưa quý thầy cô, thưa các huynh trưởng cùng các bạn đồng môn, có nhìn tận mắt mới thấy xót xa và sự phục hồi sức khỏe cho trường Mẹ là cần thiết. Những ai đã từng dậy và theo học tại ngôi trường này, dù lâu hay mau, dù thành đạt hay chỉ là những công nhân, quân nhân, dù xu hướng chính trị có khác nhau nhưng mọi người đều phải có trách nhiệm ít nhiều về cái tên trường trung học Pétrus Trương vĩnh Ký.

Một lời kêu gọi, nhiều người hưởng ứng, một chữ ký đòi lại tên trường sẽ có ngàn ngàn chữ ký tiếp theo, cho dù người đối thoại với chúng ta luôn luôn mang máy trợ thính với cái nút nghe lúc nào cũng vặn về OFF, nhưng rồi có lúc máy nghe cũng phải hết pin, chắc chắn trong tương lai, chúng ta lại được gọi tên Người. Lúc đó thầy mang hộp sơn, trò cầm cây cọ, chúng ta cùng về sơn lại mái trường, xóa cái tên “Hồng Phong”, trả lại tên trường là Trương Vĩnh Ký.

Một tập thể cựu học sinh L.P.Ký, dưới mái trường chỉ có thày và trò, không có ông nọ bà kia, không có anh năm chị sáu, không có ông “thủ trưởng” bà “vĩ phó, chỉ có thày và trò, tiếng cầu cứu cùa thày-trỏ thì sẽ vọng lên tới Thiên Đình. Tin tưởng vào lòng người, nào xin mời quý thầy cô và đồng môn cùng cất cao giọng:

– “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường, lên đường tươi sáng, ta cùng đồng lòng điểm tô non sông & trường xưa”.

Lời cuối xin quý thầy cô và đồng môn tha thứ cho trò những lầm lỗi và thiếu sót, xin gởi lời chúc lành, thăm hỏi để nhớ lại “những ngày xưa thân ái”./.