Phái Bộ Macartney Ghé Đàng Trong
Nguyễn Duy Chính
MỞ ÐẦU
Một trong những thời điểm “bản lề” trong cuộc nội chiến ở nước ta cuối thế kỷ XVIII là cái chết tương đối đột ngột của vua Quang Trung. Nhiều sử gia khẳng định rằng nếu Nguyễn Huệ không qua đời quá sớm, tình hình nước ta sẽ có nhiều thay đổi, cả trong cuộc chiến với Nguyễn Ánh ở Gia Ðịnh lẫn chính sách đối ngoại với Trung Hoa. Những giả thiết dẫu sao cũng chỉ dựa trên một số sự kiện không thể kiểm chứng nên kết quả cũng tuỳ thuộc vào nhãn quan của từng người mà không thể nào biết chắc việc gì sẽ xảy ra.
Sau khi vua Quang Trung băng hà không lâu, một biến cố chính trị không mấy nổi bật và cũng ít người để ý nhưng lại mang khá nhiều tính chất thời đại có thể giúp chúng ta tìm hiểu thêm về đường lối chiến lược liên tục của Nguyễn Huệ trong những năm sau cùng, ít ra cũng là một chế độ “Nguyễn Huệ mà không có Nguyễn Huệ” như lối nói của thời đại mới. Chính sách đó là dự tính thống nhất đất nước bằng cả tương nhượng đối với vương quốc của Nguyễn Nhạc và bằng võ lực để thu hồi khu vực do chúa Nguyễn kiểm soát. Ðể có thể tập trung toàn lực thực hiện cuộc hành quân Nam tiến, vua Quang Trung cũng thoả hiệp – hay ít nhất cũng cố gắng vô hiệu hoá – sự can thiệp của nước ngoài, tìm một đường lối đối ngoại thân thiện không riêng gì Trung Hoa mà cả Xiêm La và Miến Ðiện, đồng thời lôi kéo và khống chế những tiểu quốc như Ai Lao, Cao Miên. Quan trọng hơn nữa, ông cũng nhắm vào mở rộng giao lưu với các quốc gia Tây phương để du nhập một số kỹ thuật mới ngõ hầu quân bằng với các thế lực trong vùng Ðông Nam Á. Thực tình mà nói, dù bất cứ nhân vật nào, nếu làm chủ được từ Nam ra Bắc thì cũng tạo được một tư cách đáng kể nếu không hơn thì cũng không thể nào dưới Xiêm La hay Miến Ðiện, nhất là nước ta lại có một vị trí chiến lược càng lúc càng quan trọng khi thế giới di chuyển từ những cường quốc đất liền sang những thế lực đại dương.
Biến cố chúng tôi nhắc tới đây là một sự việc có vẻ như hơi bất ngờ nhưng đã sắp xếp trước, không chính thức nhưng cũng không ngoài dự liệu. Ðó là việc phái đoàn của vương quốc Anh – do bá tước Macartney (Earl of Macartney) dẫn đầu – sang Trung Hoa để triều kiến vua Càn Long nhà Thanh, yêu cầu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức qua một toà lãnh sự đặt tại Bắc Kinh. Chuyến đi lịch sử này được nhiều sử gia Tây phương coi như cuộc tấn công đầu tiên của các quốc gia tư bản vào đường lối “bế quan toả cảng” của một số quốc gia Ðông Á. Trên đường đi, phái đoàn Macartney đã ghé hai địa điểm của nước ta, quần đảo Côn Lôn (Pulo Condore) và sau đó là hải cảng Tourane (Ðà Nẵng) với lý do tránh bão, mua thêm lương thực và tạm dừng để chữa trị cho một số thuỷ thủ gặp tai nạn bất ngờ.
Không phải ngẫu nhiên mà phái đoàn Anh ghé bến Tourane trong khoảng 3 tuần lễ từ ngày 26 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 năm 1793. Thực ra họ đã để ý đến cửa biển này từ lâu, tiến hành nhiều nghiên cứu khá tỉ mỉ về Ðàng Trong và dự định sẽ can thiệp vào Ðại Việt khi có cơ hội.
Lý do khiến người Anh chưa hành động cụ thể vì họ còn nhiều việc cấp bách và ưu tiên hơn như cải thiện giao thương với Trung Hoa, chuẩn bị chiến tranh với Pháp và tái phối trí lực lượng trên toàn thế giới cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ.
Một lý do được nhiều người nêu ra là trong khoảng vài mươi năm sau cùng của thế kỷ XVIII, vai trò của Pháp tại Ấn Ðộ và Viễn Ðông suy giảm và thế lực của họ bớt đe doạ hơn nên người Anh cũng không cần phải tiến hành những kế hoạch xâm lăng nhằm mục tiêu phỗng tay trên kẻ đối đầu. Chính vì thế, người Anh luôn luôn trông chừng động tĩnh của các thế lực tại Việt Nam và khi thấy người Pháp đã gắn bó được với chúa Nguyễn thì họ nghĩ ngay tới việc kết thân với nhà Tây Sơn.
Cuối thế kỷ XVIII, tình hình khu vực Ðông Nam Á xem ra đã rõ rệt và người Anh cũng sẵn sàng nên bá tước Macartney đã cầm một quốc thư của vua Anh George III gửi vua An Nam trong tay nhưng chưa vội đưa ra vì muốn để sau khi đàm phán với nhà Thanh sẽ có những chi tiết cụ thể hơn để thương lượng với triều đình Cảnh Thịnh như thế nào. Cũng cần nói thêm, bức thư của Anh hoàng có lẽ muốn gửi cho vua Quang Trung (phái đoàn Macartney rời nước Anh từ tháng 9 năm 1792 khi đó Nguyễn Huệ còn sống) nhằm vào hai mục tiêu, vừa khai thông những bế tắc thương mại với Thanh triều, vừa thiết lập một đầu cầu căn bản tại vùng Ðông Nam Á.
Một số lý do bên ngoài tuy không thấy ai nhắc đến nhưng cũng rất có thể tác động đến những giao tiếp sơ khởi giữa người Anh và triều đình Cảnh Thịnh. Phái bộ Macartney khi đó không có một thông ngôn chính thức để liên lạc với nước ta mà phải nhờ đến những giáo sĩ Trung Hoa vốn dĩ được sử dụng trong các liên lạc với quan lại nhà Thanh. Những giáo sĩ đó chỉ tiếp xúc được với người Việt theo lối bút đàm.
Trong khi tuyển mộ người để đi trong phái đoàn, người Anh đã rất kỹ lưỡng không muốn dùng những giáo sĩ người Pháp, e ngại rằng họ có thể vì quyền lợi của tổ quốc mà có ý đồ riêng tư. Vào thế kỷ XVIII, những giáo sĩ truyền đạo tại Á Châu chủ yếu thuộc giáo hội Thiên Chúa La Mã, phần lớn là người Pháp, Ý, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha … chứ không có giáo sĩ người Anh vì họ theo một chi nhánh khác.
Chính vì thế, sau một cuộc tìm kiếm gắt gao, phái đoàn Anh đã phải sử dụng hai giáo sĩ Thiên Chúa Giáo người Trung Hoa ở Ý Ðại Lợi đang có ý muốn về nước và hai giáo sĩ khác đi nhờ về Macao.[1]Những tin tức về Ðàng Trong mà họ thu nhận tại chỗ lại do một số người Bồ Ðào Nha đang neo thuyền buôn bán tại Tourane và họ ngại người Anh đến tranh giành ảnh hưởng với họ nên ít nhiều cũng ngăn trở việc giao hảo giữa hai bên như Barrow đã ám chỉ. [2] Việc đó rất có thể xảy ra khi chính một tu sĩ Bồ Ðào Nha, giám mục Teixeira cũng gay gắt kết án rằng “phái bộ Macartney chuẩn bị một cuộc tấn công để chiếm Macao cũng như mở cửa buôn bán với Trung quốc”.[3]
Ðối với các giáo sĩ tại Ý Ðại Lợi, liệu họ có nắm vững các cuộc vận động của giám mục Bá Ða Lộc trước đó mấy năm hay không? Rất có thể có vì nếu người Anh biết được ý định của người Pháp trong hiệp ước Versailles thì giáo hội La Mã hẳn là còn tường tận hơn nhiều và các thừa sai Trung Hoa sinh sống tại Ý không thể không để mắt đến. Chúng ta không thể biết chắc những cá nhân đó đã ảnh hưởng thế nào đến việc người Anh liên lạc với nhà Tây Sơn nhưng cũng đáng đặt ra thành một nghi vấn trong chuyến ghé thăm Ðàng Trong của phái bộ Anh.
TÀI LIỆU
Ghi chép về chuyến đi của Macartney tương đối còn khá nhiều kể cả những nhật ký (journals) của từng cá nhân đến các văn thư chính thức. Tuy việc ghé Ðàng Trong chỉ là một công tác “ăn theo” nhưng chúng ta cũng có được nhiều chi tiết khá thú vị.
Quan trọng hơn hết là ghi chép những gì nghe và thấy tại Ðàng Trong của trưởng đoàn Macartney. Tuy nhật ký của ông không được chính thức in ra nhưng một số tác phẩm viết về chính sách ngoại giao của Anh đã ghi lại nguyên văn nhiều đoạn, đáng kể nhất là Our First Ambassador to China, An Account of the Life of George, Earl of Macartney (with extracts from his letters, and the narrative of his experiences in China, as told by himself 1737-1806) của Helen H. Robbins in năm 1908 tại New York. Chúng tôi đã phiên dịch toàn bộ nhật ký của Macartney khi ghé lại nước ta trích từ tác phẩm này (từ trang 231 đến trang 243) ở phần Phụ Lục.
Phó trưởng phái bộ là George Staunton cũng ghi chép tường tận về Ðàng Trong ở tác phẩm An Authentic Account of an Embassy from the King of Great Britain to the Emperor of China in tại London năm 1797 (gồm 2 cuốn và các hình ảnh thành một tập phụ riêng). Trong bộ sách này, phần viết về Việt Nam bao gồm 73 trang (309-382) ghi nhiều chi tiết về sinh hoạt kinh tế và xã hội tại Quảng Nam.
John Barrow, bác sĩ, luật gia là quản trị viên của phái bộ cũng viết lại toàn bộ hành trình và diễn tiến việc triều kiến vua Thanh trong Travels in China in năm 1804. Riêng về chuyến ghé thăm Ðàng Trong, ông đã ghi lại kỹ càng trong A Voyage to Cochinchina in năm 1806. Tuy nhan đề như vậy, viết riêng về nước ta chỉ bao gồm từ trang 243 đến trang 360 trong đó có một số chi tiết về chúa Nguyễn được bổ túc trước khi in ra. Chính vì xuất bản sau khi vua Gia Long đã lên ngôi nên rất có thể những nhận định của ông về nhà Tây Sơn cũng không còn hoàn toàn trung thực.
Trong một tác phẩm khác, Some Account of the Public Life, and a Selection from the Writings of the Earl of Macartney cũng do John Barrow soạn (2 Vol.) in năm 1807 tại London, trong tập II, phần “A Journal of an Embassy from the King of Great Britain to the Emperor of China, in the years 1792, 1793, and 1794 by the Earl of Macartney” cũng có khoảng 2 trang viết về Ðàng Trong, tuy không có gì mới mẻ nhưng lại kèm một đoạn ghi lại nhật ký của chính Macartney đã ra lệnh cho khảo sát vùng vịnh Tourane mà các tác phẩm khác không nhắc đến chỉ coi như một hành động cá nhân của một số sĩ quan trên tàu. Ngoài ra Barrow cũng ghi nhận xét riêng của Macartney về ý định xây dựng một căn cứ phòng thủ trên bộ chứng tỏ người Anh có ý định xâm chiếm khu vực này để làm một căn cứ giống như các vùng đất thuộc địa tại Ấn Ðộ và Mã Lai giúp chúng ta xác định được những “âm mưu hậu trường” của các quốc gia tư bản trong giai đoạn đó.
Ngoài những ghi chép, chúng ta không thể quên được những bức tranh tuyệt vời của hoạ sĩ William Alexander mà chúng tôi đã giới thiệu qua một bài viết khác.[4] Hầu hết những tranh màu về Ðàng Trong được in kèm làm phụ bản trong A Voyage to Cochinchina (1806) của John Barrow. Một số tranh khác xuất hiện như những bản rời đen trắng in theo lối đồng bản (plates) trong tập III của bộ An Authentic Account of an Embassy from the King of Great Britain to the Emperor of China (George Staunton, 1797) chúng tôi đã nhắc ở trên. Những hình vẽ này cho ta hình dung một cách sống động sinh hoạt của Ðàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII, các loại y phục, nhân dáng, kể cả đời sống khá thoải mái của dân chúng.
Việc tiếp xúc với phái bộ Anh tuy lúc đầu có một số nghi ngại nhưng khi biết rằng họ không phải là đồng minh của người Pháp là quốc gia đang có những liên hệ với chúa Nguyễn Ánh thì triều đình Cảnh Thịnh liền đổi thái độ và tỏ ra rất hào phóng. Ngoài những quà cáp khá hậu hĩ, viên trấn thủ Quảng Nam còn tổ chức một ngày hội lớn để kỷ niệm sinh nhật Anh hoàng George III, một lối tỏ tình thân mật rất khác thường trong nghi lễ ngoại giao nước ta thời đó. Hiện nay văn khố Anh còn lưu trữ hai lá thư của vua Cảnh Thịnh gửi phái bộ Macartney, một bản bị mất ngày – mà chúng tôi đoán chừng là ngày 20 tháng tư năm Quí Sửu (AL), Cảnh Thịnh nguyên niên (1793) và một lá thư khác đề ngày mồng 1 tháng 5, sau lá thư thứ nhất khoảng 10 ngày. Chúng ta còn biết triều đình Tây Sơn cũng mời phái đoàn ghé kinh đô Huế nhưng họ từ chối lấy cớ là hạn kỳ sang Trung Hoa đã cận kề và chỉ hứa sẽ liên lạc thêm khi trở lại.
Trên đây là một số sách vở viết về sứ bộ có tài liệu về Việt Nam. Nhiều tác phẩm khác đặt trọng tâm vào chuyến đi của Macartney đến Trung Hoa tuy mang nhiều chi tiết thú vị về khu vực Ðông Á nhưng lại không liên quan trực tiếp đến nước ta nên chúng tôi không nhắc đến. Tổng hợp các chi tiết nhất là các tác phẩm của Barrow và Staunton, chúng ta có một số dữ kiện khá phong phú về tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XVIII với nhiều điểm khác hơn những gì chúng ta đã biết qua chính sử.
NGƯỜI ANH ÐẾN ÐÀNG TRONG
—
THĂM DÒ CỦA NGƯỜI ANH CUỐI THẾ KỶ XVIII
Ngay từ năm 1778, khi Charles Chapman, một viên chức của Công Ty Ðông Ấn (English East India Company) đến Ðàng Trong, vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc đã hai lần đề nghị liên minh với người Anh, một mặt để buôn bán và mua súng đạn, mặt khác để nhờ họ tiếp tay loại trừ Nguyễn Ánh ở trong Nam và chống lại quân Trịnh ở miền Bắc (khi đó đã chiếm Huế từ 1774).
Cũng trong chuyến đi này, Chapman đã nhận định như sau:
… Vị trí của Ðàng Trong (Cochin China) cực kỳ thuận tiện cho thương mại. Xứ này gần kế Trung Hoa, Bắc Hà, Nhật Bản, Chân Lạp, Xiêm La, bờ biển Mã Lai, Phi Luật Tân, Borneo, quần đảo Molucca … là giao lộ để qua lại với mọi quốc gia vừa gần gũi, vừa dễ dàng. Những hải cảng khoảng khoát dọc theo duyên hải, nhất là Turon, là nơi trú ẩn an toàn cho tàu bè đủ loại trọng tải vào những mùa giông bão nhất trong năm.[5]
Tuy nhiên, vì nội chiến kéo dài trong suốt mấy chục năm tại Ðông Nam Á, các tranh chấp liên tục giữa các thế lực tại Việt Nam, Xiêm La, Miến Ðiện … và biến động tại Âu Châu (chiến tranh Anh – Pháp) khiến cho dự tính bước chân vào khai thác khu vực này của người Anh phải đình trệ.
Cuối thế kỷ thứ XVIII, nước Anh lâm vào một khủng hoảng tài chánh chủ yếu là việc buôn bán với Trung Hoa càng lúc càng khó khăn thêm. Cũng theo báo cáo của Chapman thì:
… Thương mại của chúng ta (tức nước Anh) với Trung Hoa đã chịu nhiều gánh nặng về cả thuế khoá lẫn sách nhiễu. Những đòi hỏi đủ loại càng lúc càng gia tăng và rồi đây sẽ không thể nào kham nổi. Hiện nay nhiều người đã nghĩ rằng người Trung Hoa có ý bế quan không cho bất cứ người Âu Châu nào đến nước họ.[6]
Khi nghiên cứu về tình hình khu vực, Ðàng Trong trở thành một vị trí lý tưởng nhất là càng lúc càng có đông người Trung Hoa di cư đến sinh sống. Trong trường hợp Trung Hoa hoàn toàn “bế quan toả cảng” với người Tây phương và chỉ buôn bán với các xứ “phiên thuộc” thì muốn bán hay mua hàng hoá của Trung Hoa không thể không sử dụng các quốc gia này làm trung gian. Qua chính sách ưu đãi dành cho phiên thuộc – thông qua hệ thống triều cống để có thể dễ dàng biến thành thương mại trá hình – những quốc gia Tây phương lại có thể mua hàng của Trung Hoa với giá rẻ hơn giá mua trực tiếp. Người Âu châu cũng có thể thiết lập ngay tại Ðàng Trong những cơ xưởng để sản xuất hàng hoá rồi chở thẳng sang Quảng Châu hay Macao. Mạng lưới đông đảo và chặt chẽ của Hoa kiều trong vùng Ðông Nam Á sẽ khiến cho việc mãi dịch và thông thương dễ dàng hơn, tạo môi trường cạnh tranh với những quốc gia hiện đang có những cơ sở đầu cầu tại Phi Luật Tân và Java.
Một lý do khác cũng rất đáng kể là Anh quốc khi đó đang ở vào thời kỳ phát triển của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (The Industrial Revolution) cần tiêu thụ nhiều loại sản phẩm và có nguồn cung cấp nguyên liệu. Trước đây tơ lụa của Trung Hoa là một mẫu hàng được ưa chuộng nay dần dần chuyển sang hàng bông vải do người Anh sản xuất tại Ấn Ðộ. Xứ Ðàng Trong cũng còn nổi tiếng là giàu có về khoáng sản, nhất những mỏ vàng mà người ta đồn rằng khai thác vừa dễ dàng, vừa phong phú.
… Thế nhưng triển vọng đáng kể nhất của việc thiết lập một căn cứ tại xứ này là những mỏ mà từ lâu nghe nói là sản xuất quặng nhiều tuổi vàng nhất, tinh ròng đến nỗi chỉ cần dùng lửa không thôi cũng đủ lọc ra được rồi. Tôi không bỏ lỡ cơ hội để dò hỏi về khoáng chất quí giá này và được biết là có nhiều mỏ tại các tỉnh phía bắc, nhất là tại Huế, nơi đó quặng nằm gần mặt đất đến mức chỉ cần đào sơ là lấy được nếu có một nhà luyện kim khéo chỉ huy. Nguồn như thế thì còn đòi hỏi gì hơn! [7]
Người Anh cũng không quên vị trí chiến lược của Ðàng Trong và khu vực biển đông là nơi có thể kiểm soát được các thương thuyền qua lại buôn bán với Trung Hoa cũng như có thể đối phó với các hạm đội của các quốc gia thù nghịch như Hoà Lan hay Tây Ban Nha.
Trong hoàn cảnh đó, người Anh cũng có ý định giống như người Pháp, nếu không nói rằng còn đi trước một bước về tầm nhìn chính trị. Chapman sau khi tìm hiểu kỹ càng tình hình chính trị từ nam chí bắc đã đề nghị chính phủ Anh trực tiếp giúp đỡ chúa Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền lực nhân danh một dòng chính thống.
… Khôi phục vương triều hợp pháp của họ trở lại ngai vàng là một lý do được nhiều người hưởng ứng và không ai có thể nghi ngờ gì về sự thành tâm của đề nghị đó. Giải thoát một dân tộc bất hạnh đang rên xiết dưới gánh nặng cai trị hà khắc nhất[8] cũng còn là một hành vi nhân đạo xứng đáng với vương quốc Anh Cát Lợi.[9]
Nếu chính phủ Anh đi theo đề nghị của Chapman, tình hình rất có thể đã đổi khác. Theo những nhận định và quan sát trực tiếp về chính quyền của cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn và thực lực nhà Tây Sơn lúc đó (1778), người Anh chỉ cần điều động “năm mươi bộ binh Âu Châu, hai mươi lăm pháo thủ và hai trăm lính Ấn”[10] cũng đủ giúp Nguyễn Ánh lật ngược tình thế. Ông ta cũng dự tính sẽ sử dụng một số lính bản xứ vào công tác trị an và trấn đóng những vùng đất đã chiếm giống như họ đã dùng lính Ấn khi lấy một số thuộc địa tại đây. Trong thời điểm chúa Nguyễn còn đang giằng dai vào ra đất Gia Ðịnh, nhà Tây Sơn cũng còn phải đối phó với họ Trịnh ở miền Bắc chưa dám tập trung toàn lực đánh xuống phương nam, tính toán của Chapman không phải là một kế hoạch viển vông hay quá ngạo nghễ nếu so sánh với những lực lượng của Âu Châu được đưa đi để tranh giành thuộc địa trên thế giới trong cùng thời kỳ này.[11]
Trong những năm sau đó, khi Nguyễn Ánh và Tây Sơn giành qua giành lại đất Ðồng Nai, các giáo sĩ người Pháp ở Ðàng Trong cũng đề xướng một dự tính tương tự. Ngay từ đầu thập niên 80s của thế kỷ XVIII, giám mục Bá Ða Lộc[12] đã làm trung gian để liên lạc tìm mua khí giới và quân cụ của người Pháp cho chúa Nguyễn. Ông cũng đặt một số giáo dân đang làm việc cho Nguyễn Ánh canh chừng tại quần đảo Côn Lôn để hướng dẫn tàu Pháp khi họ muốn đi theo đường sông để lên Saigon.[13]
Những năm sau đó, lực lượng của chúa Nguyễn không chống nổi với nhà Tây Sơn, nhiều lần phải vong gia thất thổ chạy sang Xiêm nương náu. Sau cùng trong tình thế nan giải, giám mục Bá Ða Lộc đã đề nghị ông cầu viện nước Pháp và Nguyễn Ánh giao con trưởng của ông là hoàng tử Cảnh làm con tin để thương lượng. Sau đây là trích đoạn luận điểm của Bá Ða Lộc gửi Pháp hoàng Louis XVI:
Cân bằng lực lượng chính trị ở Ấn Ðộ vào thời điểm này rõ ràng nghiêng về phía người Anh và người ta thấy rõ là vấn đề đưa trở lại quân bình không dễ dàng. Theo ý tôi (tức giám mục Bá Ða Lộc) thì việc thiết lập một thuộc địa ở Ðàng Trong (nói chung toàn cõi nước ta chứ không phải chỉ riêng đất Gia Ðịnh) là phương cách chắc chắn nhất và cũng hữu hiệu nhất. Thực ra, nếu tính cả mức sản xuất và vị trí của các cửa biển ở quốc gia này, trong thời chiến cũng như thời bình thì việc chiếm đóng nơi đây sẽ đem lại lợi ích to lớn hơn cả.
Lợi điểm thứ nhất
Phương cách chắc chắn nhất để làm hại người Anh ở Ấn Ðộ là phá huỷ hay làm sao để thương mại của họ suy sụp. Trong thời bình, vì ở kế cận với Trung Hoa, chúng ta sẽ thu hút một phần lớn thương mại của họ không còn ngờ gì nữa; hành trình sẽ ngắn hơn và phí tổn chuyên chở sẽ rẻ hơn của Ấn Ðộ nên thương nhân người Hoa sẽ ưa thích các cửa biển của Pháp tại Ðàng Trong hơn những nơi xa xôi ở Calcutta và Madras.
Lợi điểm thứ hai
Vào thời chiến, việc ngăn chặn các hoạt động thương mại giữa Trung Hoa và các quốc gia thù nghịch sẽ dễ dàng hơn; vị trí của các hải cảng của ta sẽ cấm đoán bất cứ tàu bè nào vào hay ra khỏi các hải cảng của Trung Hoa.
Lợi điểm thứ ba
Các cửa biển của Ðàng Trong là nơi trú ẩn tuyệt vời để các tàu buôn của chúng ta có thể dừng lại và rừng của xứ này sẽ cho phép chúng ta đóng tàu mới ngay tại chỗ.
Lợi điểm thứ tư
Chúng ta có thể tìm kiếm được tất cả những gì cần thiết để bổ xung cho các chiến đoàn ở vùng Viễn Ðông và để tiếp vận cho các thuộc địa ở xa.
Lợi điểm thứ năm
Từ góc độ này chúng ta có thể dễ dàng can thiệp với những toan tính của người Anh đang hiển nhiên bành trướng biên giới của họ sang phía đông.
Những lợi điểm khác tự nó đã thấy, tuy hiện tại chưa rõ rệt nhưng trong tương lai càng lúc càng quan trọng hơn là chúng ta có thể khai thác tài nguyên phong phú của xứ này từ đó chúng ta có thể thiết lập một con đường buôn bán sang Trung Hoa và sẽ mở cửa cho chúng ta vào sự giàu có của quốc gia mà chúng ta chưa biết tới.[14]
Ngày 20 tháng 11 năm 1787, Giám Mục Bá Ða Lộc thay mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước Versailles trong đó người Pháp sẽ trợ giúp về quân sự để đổi lấy hai địa điểm Côn Lôn và Ðà Nẵng và ràng buộc bằng nhiều nhiệm vụ song phương khác. Tuy nhiên, bất ổn chính trị và nhất là cuộc Cách Mạng Pháp 1789 khiến các giao kết giữa hai bên không thể thi hành và Bá Ða Lộc phải vận động riêng để giúp chúa Nguyễn một số tàu chiến và lính đánh thuê. Tất cả những liên hệ đó không thoát khỏi ánh mắt nghi ngại của người Anh nhất là họ đã chủ trương nếu không thể chiếm đóng nước ta bằng vũ lực thì cũng tìm cách giúp cho lực lượng phía bên kia (tức triều đình Tây Sơn) để quân bằng sức mạnh của người Pháp.
Chính vì thế, tuy không có những minh định chính thức về nhiệm vụ của phái bộ Macartney ghé Ðàng Trong để thương thảo nhưng việc thiết lập một đầu cầu tại Ðàng Trong cũng là một trong những chủ đích của người Anh. Lẽ dĩ nhiên, tình hình hiện tại không còn đơn giản như thời kỳ 15 năm trước khi Chapman gặp Nguyễn Nhạc để được đề nghị một cách thẳng thừng là ông muốn “chinh phục vương quốc Cambodia và toàn thể bán đảo cho tới tận Xiêm La, cùng [lấy lại] những tỉnh thuộc Ðàng Trong ở phía bắc nay đang ở trong tay người Ðàng Ngoài. Và để thực hiện dự tính đó, ông (Nguyễn Nhạc) mong được người Anh giúp cho một số tàu chiến, và để trả lại thì ông sẵn lòng nhường cho họ mảnh đất nào họ thấy thích hợp để trú đóng.” [15]
PHÁI BỘ MACARTNEY GHÉ ÐÀNG TRONG
Tháng 4 năm Quí Sửu (1793), Nguyễn Ánh đích thân cùng các tướng Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Ðức, Nguyễn Văn Thành đem quân ra lấy Phan Rí. Tháng 5 năm đó, Nguyễn Ánh lấy được Phú Yên rồi đem quân đánh cửa Thị Nại, Nguyễn Nhạc phải lui về cố thủ Qui Nhơn. Trong tình hình phải đối phó với nguy cơ càng lúc càng gia tăng, các tàu lớn của Anh Cát Lợi xuất hiện tại vịnh Ðà Nẵng (Tourane) đã đem đến nhiều nghi ngại và cảnh giác cho triều đình Cảnh Thịnh. Cho đến thời điểm đó, triều đình Nguyễn Quang Toản cũng biết được Nguyễn Ánh đã liên minh với một số thế lực Âu Châu, và những tin tức bất lợi từ vương quốc của Nguyễn Nhạc truyền ra nên việc vua tôi nhà Tây Sơn hoảng hốt khi thấy tàu chiến ngoại quốc là điều dễ hiểu.
Sau khi biết rằng nước Hồng Mao không phải là đồng minh của đối phương, triều đình Tây Sơn đã hết sức tìm cách mua chuộc ngõ hầu mua được của họ khí giới, tàu bè chống lại Nguyễn Ánh, khi đó đã được trang bị một số tàu chiến và kỹ thuật mới của Pháp.
Nguyên do chuyến đi của phái bộ Macartney
Việc phái bộ Macartney ghé Ðàng Trong dường như ít được nhắc tới trong lịch sử nước ta. Biến cố đó xảy ra dưới triều Cảnh Thịnh và không được ghi trong chính sử nhà Nguyễn. Sử Tây Phương thường chỉ miêu tả phái bộ Macartney như một nỗ lực không thành trong việc mở rộng giao thương với Trung Hoa, còn việc phái đoàn này ghé lại Ðàng Trong chỉ là một chuyện phụ trên đường đi nên thường chỉ được ghi lại như một trạm dừng để tránh bão và mua thêm thực phẩm chứ không chính thức nằm trên hải trình.
Tuy nhiên, nhiều chi tiết cho ta thấy sự việc không hoàn toàn đơn giản như vậy. Có nhiều lý lẽ để chúng ta tin rằng nếu người Anh không thành công trong việc giao thương trực tiếp với Trung Hoa, họ có dự tính sẽ mở hai đầu cầu trung gian ở Ðà Nẵng và Macao vì không thể thiết lập thương điếm tại Bắc Kinh hay Thượng Hải.
Như đã đề cập, khiếm ngạch mậu dịch giữa Anh và Trung Hoa là lý do chính mà anh hoàng George III, qua sự vận động của Công Ty Ðông Ấn (Bristish East India Company), quyết định “điều chỉnh lại tình trạng theo một hướng đi mới phù hợp với tư cách một đại cường”[16] bằng cách đòi hỏi Trung Hoa cho họ mở một đại diện thường trực tại Bắc Kinh. Theo tài liệu còn ghi lại, người Anh đưa ra 7 mục tiêu cho chuyến đi quan trọng này:
– Mở thêm các hải cảng ở bờ biển Trung Hoa cho người ngoại quốc buôn bán,
– Thiết lập một nhượng địa (cession of a piece of territory) hay một hòn đảo, càng gần khu vực sản xuất trà hay tơ lụa, một địa điểm thương gia Anh có thể sinh sống quanh năm[17] và áp dụng luật nước Anh,
– Bãi bỏ hệ thống bất bình đẳng hiện đang áp dụng tại Quảng Châu (Canton),
– Khai mở thêm thị trường tại Trung Hoa, nhất là ở Bắc Kinh,
– Khai mở thêm các vùng đất khác tại Viễn Ðông cho người Anh buôn bán qua những hiệp ước song phương,
– Yêu cầu Trung Hoa bằng lòng cho thiết lập một phái đoàn thường trực tại Bắc Kinh,
– Thu thập các tin tức càng nhiều càng tốt miễn là đừng tạo nghi kỵ cho người Trung Hoa …[18]
Phái đoàn Anh rời Luân Ðôn vào tháng 9 năm 1792 và ghé đến quần đảo Condore (Côn Lôn) vào giữa tháng 5 năm 1793, đậu tại Tourane vào đêm 25 tháng 5 năm 1793 sau 8 tháng lênh đênh trên biển và ở lại đây 20 ngày trước khi lên đường sang Trung Hoa. Nếu không vì những bất trắc ngoài dự tính, người Anh sẽ đi xa hơn nếu không bắt tay với triều đình Cảnh Thịnh thì cũng sẽ dùng võ lực chiếm cứ một khu vực trọng yếu, rất có thể là hải cảng Ðà Nẵng giống như yêu cầu của người Pháp trong hiệp ước Versailles. Nhà ngoại giao Pháp Alain Peyrefitte, người thực hiện một công trình nghiên cứu hầu như qui mô nhất về chuyến đi này đã khẳng định như sau:
… Macartney cũng còn được giao phó việc tiếp xúc với các vương quốc trong vùng Viễn Ðông: quốc vương các nước Nhật Bản và An Nam, vua nước Triều Tiên, Mania và Moluccas. Ông có thẩm quyền ghé thăm bất cứ quốc gia nào có thể giúp ông trong sứ mạng chính yếu: mở được cánh cửa giao thương với Trung Hoa. Anh Cát Lợi đã là một cường quốc thế giới, triều đình Luân Ðôn không dại gì mà bỏ tất cả trứng trong cùng một đại lục. Người Anh có một cái nhìn xa, và nay là lúc phải đầu tư vào tương lai.[19]
Mặc dầu tường trình của Charles Chapman chỉ được in ra trong Annual Asiatic Register năm 1801 và Asiatic Journal and Monthly Register for British India and its Dependencies (vol. III và IV, 1817) nhưng một số đoạn đã thấy nhắc đến trong nhật ký của George Staunton (phó trưởng phái đoàn Macartney) in năm 1797 nên chúng ta tin chắc rằng người Anh đã tham khảo rất kỹ các tài liệu này trước khi dong thuyền qua Trung Hoa.
Thành phần phái đoàn
Sau nhiều năm tháng chuẩn bị về nhân sự cũng như tiền bạc, quà cáp phái đoàn Anh lên đường ngày 26 tháng 9 năm 1792 từ hải cảng Portsmouth. Trưởng phái đoàn là Lord Macarney, một nhà ngoại giao đầy kinh nghiệm đã từng làm đặc sứ Anh tại Nga và là thống đốc ở các xứ thuộc địa Grenada (vùng Caribbean) và Madras (Ấn Ðộ). Phái đoàn tổng cộng gần 100 người kể cả nhân viên ngoại giao, giới quí tộc, học giả, y sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, kỹ sư, binh sĩ và nhân viên phục vụ. Nếu tính luôn cả các thuỷ thủ trên các tàu thì đoàn người lên đến gần 700 người.
Phương tiện di chuyển của họ bao gồm hai thuyền lớn, chiếc Lion là loại chiến thuyền (man-of-war) sáu-mươi-bốn súng (sixty-four-gun) do Sir Erasmus Gower làm hạm trưởng, chiếc Hindostan là loại tàu ba-cột-buồm (three-masted vessel) trọng tải 1,248 tấn do William Mackintosh làm hạm trưởng, là tài sản thuộc công ty Ðông Ấn và một chiếc tàu nhỏ (brig) tên là Jackall.
Theo phân loại của hải quân Anh thời đó, trước khi tàu chạy bằng hơn nước ra đời, các tiêu chuẩn chiến thuyền được qui định rất chặt chẽ và chi tiết. Hải quân Hoàng gia (Royal Navy) chia thành sáu loại:
| HẠNG | SÚNG TRANG BỊ | NHÂN SỰ |
| Hạng nhất | 100-112 súng | 841 người |
| Hạng nhì | 90-98 súng | 743 người |
| Hạng ba | 64 súng 74 súng 80 súng | 494 người 620 người 724 người |
| Hạng tư | 50 súng | 345 người |
| Hạng năm | 32 súng 36 súng 38 súng | 217-297 người |
| Hạng sáu | 20 súng 24 súng 28 súng | 138 người 158 người 198 người |
Chiến thuyền loại nhỏ trang bị dưới 20 súng được gọi dưới nhiều tên khác nhau như sloop, brig, bomb-ketch, fire-ship, cutter … không được xếp loại. Tên gọi vị chỉ huy cũng khác nhau tuỳ theo mỗi loại và cấp bậc (post-captain, master, lieutenant …) [20]
Như vậy, chiến thuyền của phái bộ Macartney sử dụng thuộc hạng ba. Hai chiếc tàu kia được dùng để chở những quà tặng đắt tiền cốt để phô bày kỹ thuật của Anh quốc tổng cộng trị giá lên đến 13,124 bảng Anh.[21]
Phái bộ Macartney bao gồm những khuôn mặt nổi bật sau đây:
– Macartney, George Lord (1737-1806) nguyên thuỷ là Nam tước (Baron) xứ Lisanoure về sau được thăng lên Tử tước (Viscount) xứ Dervock. Ông vốn là giới quí tộc Ái Nhĩ Lan, có danh hiệu hiệp sĩ (Knight of the Order of Bath), từng là đặc sứ của Anh hoàng tại triều đình Nga, thống đốc xứ Tây Ấn thuộc Anh (British West Indies) và toàn quyền xứ Madras. Sau chuyến đi Trung Hoa, Macartney được thăng lên bá tước (Earl). Ông nổi tiếng là một người học rộng và có tài ngoại giao.
– Staunton, George Leonard (1737-1801) là một bác sĩ tốt nghiệp từ đại học Montpellier lại có bằng tiến sĩ Luật đại học Oxford là cánh tay mặt của Macartney trong nhiều năm, qua nhiều nhiệm sở được mang danh hiệp hiệp sĩ (knighthood). Trong chuyến đi Trung Hoa, ông đảm trách vai trò phó trưởng phái đoàn kiêm đặc mệnh toàn quyền. Những điều ông ghi chép trong chuyến đi này được in thành sách năm 1797 và được dịch ra nhiều thứ tiếng.
– Staunton, George Thomas (1781-1859) có thể coi là người Anh đầu tiên nghiên cứu sâu xa về Trung Hoa. Con của George Leonard Staunton, đóng vai “tiểu đồng” (page) cho đặc sứ Macartney nên đặc biệt có mặt khi phái đoàn triều kiến vua Càn Long. Ông được vua Thanh ban cho một hà bao (bao đựng hương liệu) mà nhà vua đang đeo trong người (ngự dụng hà bao) như một ân sủng đặc biệt. Về sau ông làm giám đốc công ty Ðông Ấn ở Quảng Châu, phụ tá cho Amherst trong chuyến đi năm 1816 sang Trung Hoa. Khi làm nghị viên trong Quốc Hội Anh, ông là người đề nghị đánh Trung Hoa mà sau này sử gọi là Chiến Tranh Nha Phiến. Ông cũng là dịch giả bộ Ðại Thanh Luật Lệ sang tiếng Anh.
– Barrow, John (1764-1848) là quản trị viên (comptroller) của phái bộ, cũng là thầy dạy kèm toán cho cậu bé Thomas Staunton. Ông viết nhiều bộ du ký kể cả hai cuốn về phái bộ Macartney. Barrow được chúng ta biết đến nhiều vì ông đã ghi chép khá tường tận về Ðàng Trong trong tác phẩm A Voyage to Cochinchina (London: Cadell and Davis, 1806). Ông cũng là sáng lập viên của Hiệp Hội Ðịa Lý Hoàng Gia Anh (Royal Society of Geography).
– Gower, Sir Erasmus (1742-1814) thuyền trưởng tàu Lion và chỉ huy tất cả các chiến thuyền đi trong phái bộ Macartney, được phong tước hiệp sĩ để gia tăng uy vọng cho phái đoàn. Ông về sau được thăng lên đến đô đốc (admiral) năm 1809.
– Mackintosh, William là người của công ty Ðông Ấn, thuyền trưởng tàu Hindostan.
– Maxwell, Acheson (1750-?) là thư ký riêng cho Macartney trong phái đoàn.
– Winder, Edward (1760-?) cũng là thư ký riêng của Macartney.
– Gillan, Hugh (1745-1798) là y sĩ trong phái đoàn Macartney được giao nhiệm vụ theo dõi và sưu tầm các tài liệu về y khoa của Trung Hoa trong đó bao gồm cả dược thảo và hoá chất.
– Parish, William Henry (?-1798) là sĩ quan pháo binh và trắc địa (geometer) điều khiển các vụ tác xạ trong suốt cuộc hành trình. Ông là người đã đo đạc và vẽ bản đồ vịnh Tourane, đảo Chu San, Vạn Lý Trường Thành và vịnh Hongkong.
– Scott, William là y sĩ giải phẫu của phái đoàn.
– Alexander, William (1767-1816) là hoạ sĩ có tài ghi lại rất nhiều hình ảnh của chuyến đi trong đó có một số tranh vẽ Ðàng Trong.
– Hickey, Thomas (1741-1824) cũng là hoạ sĩ trong phái đoàn Macartney.
– Dinwiddie, James (1746-1815) là một toán học gia, khoa học gia lỗi lạc là nhà thiên văn đi trong phái đoàn.
THÁI ÐỘ CỦA TRIỀU ÐÌNH CẢNH THỊNH
Theo các tài liệu của phái bộ Macartney, sự xuất hiện của hai chiếc tàu Anh ngoài khơi vịnh Tourane đã khiến cho triều đình Cảnh Thịnh nói chung và quan lại tại Ðà Nẵng phải đặt trong tình trạng báo động. Tuy nhiên khi thấy phái đoàn Anh tỏ những cử chỉ thân thiện thì quan lại nhà Tây Sơn đang ở vùng vịnh Tourane tưởng họ cũng chỉ là những thương thuyền như các nước Tây phương khác vẫn qua lại buôn bán, phần lớn là đem những hàng hoá không bán được cho Trung Hoa nên đem đến bán cho Ðại Việt để khỏi phải mang về nơi xuất phát.


Một viên quan nhỏ và tên tiểu đồng
Việc hiểu một cách sai lạc như thế đã khiến cho những viên quan nhỏ đến xem xét tàu Anh có nhiều hành vi khiếm nhã, kể cả hạnh hoẹ, sách nhiễu, có khi lấy đồ một cách trắng trợn khiến cho người ngoại quốc nghĩ rằng dân ta có thói quen hay trộm cắp. Cũng theo các tường thuật của phái đoàn, khi họ mua hàng thì không những rất ít ỏi mà giá cả đều vô cùng đắt đỏ. Người Anh nhận xét rằng việc thách giá đó xem chừng là một chỉ thị của quan trấn thủ địa phương trước khi được lệnh từ triều đình.
Theo ghi nhận của Aeneas Anderson trong “Tường thuật về sứ bộ đi Trung Hoa” (Narrative of Embassy to China) thì:
“ … Ðặc Sứ (tức ông Macartney) được mấy viên quan đến thăm đem theo một đoàn tuỳ tùng đông đảo. Họ được tiếp bằng rượu và nhiều loại thức uống nhưng tỏ ra dè dặt không dám thử, cho đến khi chính Lord Macartney uống trước thì họ mới hết ngại ngùng. Thế là họ uống tràn cung mây không còn kiêng nể gì nữa và xem ra thích loại rượu anh đào (cherry) và rượu raspberry (ta gọi là quả mâm xôi). Những người này đa số mặc áo dài bằng nhiễu đen, quần lụa, đi dép và một loại khăn quấn. Họ cũng thắt đai bạc ngang lưng. Ðám gia nhân mặc áo vải thô, quần xắn lên đến đầu gối, chân không mang giày dép.” (Cước chú số 1 trang 236 trong sách The First Ambassador to China)
Thái độ đó đã không còn nữa khi triều đình tại Huế biết được đây là những tàu Anh, một phái bộ có tầm vóc quan trọng và là một cơ hội tốt để mở rộng giao thương nhất là tìm cách mua một số tàu chiến hay vũ khí để đương cự lại với trang bị mới của chúa Nguyễn ở Gia Ðịnh. Thực lực đáng gờm của Nguyễn Ánh đã chứng tỏ qua một số chiến dịch đánh vào bộ chỉ huy đầu não của vua Thái Ðức và sớm muộn gì cũng sẽ đánh ra Ðàng Ngoài. Mấy ngày sau, một khâm sai của vua Cảnh Thịnh đến Tourane như sau đây:
… Một nhân vật có vẻ cao cấp đến Turon, gửi đến ngài Ðặc Sứ những lời chúc tụng rất nồng nhiệt từ chủ nhân của y. Ông ta đến bằng một chiếc thuyền lớn có lát sàn, chế tạo rất tinh vi và nhẹ nhàng có thể giương buồm đi nhanh. Những người chèo thuyền rất đông, chèo theo tư thế đứng, đẩy chèo ra phía trước bằng những động tác đều và ngắn.
Một chiếc phòng đóng ngay chính giữa sàn thuyền, sơn màu sắc sống động và hai đầu thuyền trang trí bằng những cờ đuôi nheo với đủ hình thù và đủ màu.[22]
Vị khâm sai đó mặc “áo chùng bằng lụa, cung cách của một người thuộc xã hội có văn hoá và mang theo một thông ngôn người Trung Hoa.”[23] Chiếc đại thuyền của ông ta có chín thuyền khác hộ tống và mang các món quà của triều đình. Vua Cảnh Thịnh tỏ ra rất hoan hỉ và đã gửi thư mời phái đoàn ghé kinh đô cùng gửi tặng một số quà “mọn” để uỷ lạo:
… Lá thư từ ông vua trẻ chứa đầy những lời lẽ đề cao vương quốc Anh, và như chứng cớ về việc đó, ông ta đã sai một trong các quan thượng thư của triều đình mang một món quà nhỏ, như ông ta gọi, cho thuỷ thủ đoàn của các con tàu. Quà đó bao gồm mười con trâu, năm mươi con heo, và vào khoảng ba trăm con gà vịt cùng với trái cây, bí rợ, cà tím, hành và các loại rau cỏ khác.[24]
Từ đó trở về sau, chợ búa tại Tourane lại đầy các loại hàng hoá bán với giá phải chăng. Hiện nay trong văn khố Anh vẫn còn giữ được hai lá thư của vua Cảnh Thịnh gửi phái đoàn Macartney. Tuy lời lẽ có vẻ kẻ cả như bất cứ tờ chiếu nào của Trung Hoa hay Việt Nam nhưng nếu nghiên cứu kỹ cũng cho chúng ta một số chi tiết đáng chú ý. Tạp chí Hán Nôm (Hà Nội) số 3, 1995 có đăng bản dịch của ông Trần Nghĩa như sau:
Tờ chiếu thứ nhất (chính là bức thư đề cập ở trên)
Tờ chiếu gửi tướng quân Mã Kim Ða, đại học sĩ Nghĩa Lan, ngự sử Mã Tư Ích, đại bút sử Bố Tư Ách và Bả La Ni nước Hồng Mao Anh Cát Lợi để biết.
Trẫm nghe từ xưa các nước đi lại với nhau thường có quà tặng cho người từ nơi xa đến. Các khanh vâng mệnh quí quốc vương vào cống thiên triều, bị bão nên thiếu lương thực, hiện đậu thuyền ở xứ Quảng Nam thuộc nước trẫm, quan trấn thủ địa phương đã đề đạt mọi sự lên trên.
Trẫm nghĩ quí quốc ở cách xa hàng nghìn vạn dặm đường biển, vì mến đức mà sai sứ tới, giữa đường bị bão, phải trôi giạt vào đây. Thần tử của quí quốc cũng là thần tử của ta. Các khanh là những bậc tôi hiền, chịu đựng vất vả, trẫm thấy rất đáng khen. Vậy đặc biệt ban chiếu chỉ sai quan trấn thủ địa phương cung cấp thực phẩm cho các khanh để tỏ lòng quí mến, thông cảm với khách đường xa. Các khanh một lòng trung tín, mong được thuận buồm xuôi gió vượt trùng dương đi sứ phương xa. Không bao lâu công việc hoàn thành, được nước nhà tin sủng, đáp lại kỳ vọng của quốc vương, tấm lòng các khanh thật đáng khen. Cung kính thay, đặc biệt ban tờ chiếu!
Ngày 20 tháng …(mất một chữ) năm Cảnh Thịnh …(mất hai chữ)[25]
Một chi tiết nhỏ, bức thư chỉ đề cập đến Mã Kim Ða (Mackintosh) là thuyền trưởng tàu Hindostan, chứng tỏ triều đình Nguyễn Quang Toản chưa biết rõ phái đoàn gồm những ai và khi tìm hiểu kỹ càng về tầm vóc của sứ bộ Macartney, cách tiếp đãi đã tăng cường lên thêm một mức.
Mười ngày sau, triều đình Cảnh Thịnh gửi tặng chính thức 3000 thạch gạo, một đôi ngà voi và 5 gánh (10 thúng) hạt tiêu, một số lượng không thể chỉ coi như quà giao hữu mà phải nghĩ rằng có ý mua chuộc sứ bộ Anh.
Tờ chiếu thứ hai
Nguyên văn:
[詔] 英吉利紅毛國王親大丞相頭等欽差嗎梟爾尼呢[][][]等爲風濤所阻泊我境界上表荀陳乏食願買情由并進好好物件鎭臣轉為提達。且本朝囊括南海凡諸國商艚遠涉海程願藏於巿或爲風波漂泊而求安飽者,朕咸推飽與之仁并生并育。卿等奉貴國王命往使天朝途中匱乏朕之情爲何如哉。特攽賜粟子叁千斛以供途程需足安用資易爲也。并加賞貴國王親大丞相象牙壹對,胡椒五但用字好意式慰遠情。欽哉特詔。
景盛元年五月初壹日。
Tờ chiếu gửi Vương thân[26] Ðại Thừa Tướng Ðầu, Khâm sai Ma Khiêu Nhĩ Nê, và … (mất 2 chữ) thuộc nước Hồng Mao Anh Cát Lợi.
Vì sóng to gió lớn, các khanh phải ghé thuyền vào biên cảnh nước trẫm để trú ẩn, có làm tờ biểu tâu lên, nói rằng hiện đang thiếu lương thực, ngỏ ý muốn mua. Lại gửi một số quà tặng nhằm tỏ tình giao hảo. Quan Trấn thủ địa phương đã vì các khanh mà chuyển đạt mọi ý kiến với trẫm rồi.
Vả lại bản triều bao trùm cả Nam Hải. Phàm tàu viễn dương các nước muốn đến náu nơi chợ búa vùng này để buôn bán, hoặc vì sóng to mà trôi giạt tới đây, mong được yên ổn, no đủ, trẫm đều lấy lòng nhân mà đối xử, cùng sinh cùng nuôi, con người trong bốn bể như anh em một nhà.
Huống chi các khanh vâng lệnh quý quốc đi sứ Thiên triều, giữa đường thiếu thốn, trẫm biết làm sao đây? Ðặc biệt cấp cho các khanh 3,000 hộc gạo để dùng vào việc đi đường cũng như tiến hành buôn bán. Và thưởng thêm cho Vương thân Ðại thừa tướng của quý quốc một đôi ngà voi cùng năm gánh hạt tiêu để tỏ lòng quý mến, thông cảm với khách đường xa. Cung kính thay, đặc biệt ban tờ chiếu!
Ngày 1 tháng 5 năm Cảnh Thịnh 1 (1793) [27]
Vua Cảnh Thịnh cũng viết thư và cử một đại quan đến mời phái đoàn Anh “quá bộ” ra Huế nhưng Macartney đã từ chối vì nhiều lý do cụ thể lấy cớ là có thể làm trễ chuyến đi chính yếu là sang Trung Hoa. Macartney chỉ hứa sẽ ghé lại Huế khi trở về nhưng lời hứa này không thực hiện được không phải vì người Anh nuốt lời mà vì cuộc chiến Anh Pháp nổ ra tại Âu Châu nên tình hình biến chuyển, các thuyền bè hai bên ngại chuyện đụng độ ở những nơi xa lạ.
Bức thư đầu tiên của vua Cảnh Thịnh đề ngày Cảnh Thịnh (nguyên niên, tứ nguyệt) nhị thập nhật [28]
Bức thư thứ hai của vua Cảnh Thịnh đề ngày Cảnh Thịnh nguyên niên, ngũ nguyệt sơ nhất nhật[29]
Một bộ phận của lá thư thứ hai[30]
Ngày mồng 4 tháng sáu năm 1793 (24-4 năm Quí Sửu, Cảnh Thịnh nguyên niên) để tìm cách mời cho bằng được sứ thần Macartney của người Anh lên đất liền, viên trấn thủ Quảng Nam đã cho tổ chức một ngày đại lễ kỷ niệm sinh nhật hoàng đế George đệ Tam để tỏ lòng tôn kính, một nghi lễ ngoại giao hơi khác thường trong lịch sử nước ta.[31]
Tuy đón tiếp rất long trọng và rầm rộ, triều đình Cảnh Thịnh không phải không e ngại một cuộc tập kích bất ngờ nên đã điều động khá đông binh sĩ và một số chiến tượng đến khu vực “lễ hội” để phòng ngự. Phía người Anh cũng đưa hai chiếc tàu nhỏ vào trên sông đối diện với thị xã để có thể rút lui nếu cần.[32] Người Anh cũng nhận thấy một số vải vóc của họ được dùng trang trí phòng tiếp khách và có lẽ là loại hàng xấu không bán được sang Trung Hoa nên người Bồ Ðào Nha đem vào bán cho Ðàng Trong. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, việc đón tiếp phái bộ Macartney một cách long trọng không phải phát xuất từ lòng hiếu khách mà vì nhu cầu trang bị quân sự để đối phó với người Pháp đang đứng về phe chúa Nguyễn. Tuy chưa phải là một nghị trình chính thức nhưng hai bên đã xúc tiến việc mua bán vũ khí:
… Việc thương lượng để mua vũ khí và đạn dược đã xúc tiến; và cũng dễ dàng nhận ra ông hoàng (tức Cảnh Thịnh), khi đó đang cai trị Turon, cũng như kinh đô và phía bắc của vương quốc sẽ trả bất cứ giá nào cho mọi loại trợ giúp. Tình trạng của ông ta quả thực hết sức chông chênh.[33]
Tuy Ðại Việt trong thời kỳ này chưa có những trận đánh lớn và khốc liệt nhưng Macartney đã nhận ra những cơn sóng ngầm của tình thế và người Anh cũng biết rằng họ còn phải chờ thêm một thời gian trước khi tiến tới những thương thảo chính thức. Chính vì thế, Macarney đã không chuyển uỷ nhiệm thư (credential letter) của Anh Hoàng cho vua Cảnh Thịnh.[34]
CHI TIẾT VỀ ÐÀNG TRONG
Lính Ðàng Trong
Ngoài những chi tiết về ngoại giao, các nhân viên trong phái bộ Macartney cũng cho chúng ta nhiều chi tiết quan trọng về sinh hoạt ở Ðàng Trong mà một số phong tục và hình ảnh chúng tôi đã trình bày trong một biên khảo khác.[35] Quan trọng nhất có lẽ là về tổ chức, trang bị và phòng thủ của triều đình Cảnh Thịnh. Những đề cập ở đây giúp chúng ta hình dung được phần nào cơ cấu binh bị của thời đại Quang Trung vì những ghi nhận này là điều mắt thấy tai nghe chỉ vài tháng sau khi Nguyễn Huệ qua đời.
Lính Ðàng Trong được trang bị ngoài đao kiếm còn giáo thật dài, có đính một chùm lông nhuộm đỏ là màu mà không một thần dân nào – ngoài những người đang trong quân ngũ hay do lệnh của hoàng đế – được quyền dùng trong các đồ dùng hay quần áo.[36]
Người lính Tây Sơn
Lính Ðàng Trong, những người trong dinh trấn thủ Quảng Nam thì mặc áo chẽn ngoài “màu đỏ và xem ra cũng nhập cảng của Anh”.[37] Số quân vua Cảnh Thịnh trú đóng tại Huế để bảo vệ kinh đô cũng khá lớn, vào khoảng “ba vạn người trong doanh ngũ, thường xuyên tập luyện bằng súng hoả mai và súng trường mỗi ngày”.[38]
Lực lượng quan trọng – và cũng là một nét đặc thù của các dân tộc Nam Á – là tượng binh, có bộ binh đi cùng. Người Anh cũng ghi nhận rằng thịt voi là món ăn được dân Ðàng Trong ưa thích và chỉ những đại thần mới được chia phần khi nhà vua giết voi để ăn.
Những sinh hoạt quần chúng cũng được ghi nhận khá tỉ mỉ kể cả các thú vui (đá cầu) mà họ cho rằng rất khéo léo hay những vở tuồng hát, những vũ công có lẽ còn chịu ảnh hưởng của người Chàm vì sau này không hề thấy những trình diễn tương tự tại Trung Hoa.
Phong cảnh vịnh Tourane
Sinh hoạt kinh tế cũng là một quan tâm đặc biệt. Người Anh cho biết Ðàng Trong có nhiều mỏ kim loại, đặc biệt là vàng, thời trước khi có cuộc nội chiến và kinh đô Huế bị quân Trịnh tàn phá. Vàng có rất nhiều ở các dòng sông, tinh ròng đến nỗi chỉ cần luyện bằng lửa sơ sài đã lấy được nên hầu hết các vật dụng đều khảm vàng kể cả cán gươm, bao gươm. Mua bán với thuyền buôn nước ngoài cũng trả bằng vàng, mỗi đĩnh chừng 100 gr. Người Kinh cũng thường lợi dụng sự ngờ nghệch của người miền núi để đổi gạo, đường, vải vóc, sắt … lấy vàng quặng và các loại lâm sản quí như trầm hương, quế, tiêu, ngà voi, mật ong …
Ở Ðàng Trong, đàn bà đông hơn đàn ông nhiều, ngoài lý do hầu như mọi người đều phải vào lính cũng còn vì số người tử trận rất nhiều trong những cuộc chiến tranh giữa các phe. Ðàn bà đảm trách mọi việc và rất khéo léo trong việc nội trợ, chăn nuôi.
Ðàn ông Ðàng Trong hầu như ai cũng hút thuốc và tục đa thê rất thông thường. Y phục nam nữ không phân biệt vì ai ai cũng mặc áo dài. Ðàn bà khá giả mặc nhiều lớp áo, áo dài nhất ở trong cùng, rồi ngắn dần ra đến ngoài. Hầu hết người ta đi chân trần, không mang giày dép.
Staunton cũng nhận định rằng người Việt khéo léo và giỏi về khoa học và có nhiều kỹ thuật độc đáo không thấy ở một nơi khác, chẳng hạn kỹ thuật làm đường trắng và xốp như một tổ ong. Loại đường bổi này tan trong nước mà không để lại một chút cặn nào. Những dân tộc khác không thể làm được đường tinh khiết như tại Ðàng Trong.
Người Việt cũng còn giỏi về luyện thép và chế tạo được các loại súng hoả mai, giáo mác cùng nhiều vũ khí. Về nghệ thuật, hội hoạ và điêu khắc không thấy nhiều nhưng âm nhạc thì rất điêu luyện.
Vịnh Tourane
Vịnh Tourane tức cửa biển Ðà Nẵng là vị trí mà hầu hết các quốc gia Âu Châu có ý định bành trướng thế lực sang Á Ðông đều để ý đến. Một trong những điều kiện để Pháp giúp chúa Nguyễn các trang bị quân sự là phải nhường cho họ vịnh Tourane và các khu vực chung quanh. Sau đây là sơ lược những gì Staunton ghi nhận về vịnh Ðà Nẵng[39]:
Lối vào của vịnh Tourane không quá hẹp nhưng cũng không dễ phòng ngự như vịnh Rio de Janeiro, cũng không khoảng khoát và sâu bằng nhưng là chiếc vịnh an toàn, rộng rãi nhất mà họ biết. Vịnh Tourane có những đảo nhỏ giúp cho tàu bè có thể dừng lại để tránh những cơn gió mạnh.
Ðáy vịnh có nhiều bùn tiện cho việc bỏ neo. Vào mùa bình thường, tàu đậu ở đây được hưởng gió biển thổi vào cửa khẩu và qua mũi đất Sơn Chà từ ba, bốn giờ sáng đến ba bốn giờ chiều và sau đó là gió từ đất liền đi ra. Gió đại lục mát mẻ vì từ núi xuống, lại không qua một nơi có cát, cũng không bị nhiễm mùi vì phải qua một khu đầm lầy. Chung quanh hòn cù lao trong vịnh nước sâu nên tàu có thể dừng nơi đây. Những thung lũng quanh vùng đều trồng lúa và nuôi trâu bò rất thư thả.
Thuyền trên sông Tourane
Vịnh Tourane cũng là nơi có nhiều cá biển. Những ghe thuyền nơi đây có cả ngư dân sống lẫn với vợ con dưới một mui cong thay vì ván lát phẳng. Trẻ con buộc một trái bầu khô vào cổ đề phòng nếu té xuống nước thì đầu không chìm. Mỗi khi đi đánh cá về, ngư dân thường lên bờ cúng kiến tại mấy đền miễu thường làm trên chạc cây hay đất trống. Họ bày gạo đường, trái cây và đốt hương.
Ở phía cực nam vịnh là một cửa sông dẫn đến thành phố. Ngay giáp giới biển người ta dựng một chòi canh trên bốn cái cột gỗ cao, có mái tranh. Người tuần đinh trèo lên trên này bằng một cái thang dài và từ nơi đây có thể nhìn chung quanh đến tận mỏm đất. Gần chòi canh đó là một đồn quan, các tàu bè ra vào phải dừng lại để khám xét. Con sông rộng chừng 200 thước, nước chảy vào vịnh đủ mạnh để tạo thành hai bờ cát và khi thuỷ triều xuống, những con bồ nông, đầu to, mỏ lớn tụ tập nơi đó. Nước sông sâu đến 2 fathoms (chừng gần 4 thước) nên nhiều tàu buôn Trung Hoa và thuyền lớn vào được.
Ở bờ phía tây vào chừng một dặm nơi có thị trấn Tourane là một triền cát, trẻ con từ các nhà xung quanh đến tắm cả bầy, bơi ỳ uồm như một đàn vịt.
Thành phố Tourane, cũng như con sông và cửa biển, dân địa phương gọi là Hàn San, chỉ lớn hơn cái làng một chút nhưng nghe nói khi còn thời bình là một nơi rất sầm uất. Nhà cửa hầu hết làm bằng tre, mái lợp tranh chung quanh trồng cây. Nhiều ngôi nhà nằm ngay giữa vườn cau và những bụi cây trái. Phía sau thị trấn là những vườn cam, chanh, cau … có nơi còn nhà cửa nhưng cũng nhiều nơi bỏ hoang. Bên kia sông là những ruộng vườn có rào trồng thuốc lá, lúa hay mía. Chợ nơi đây có đủ các loại rau trái nhiệt đới và cũng rất nhiều gia cầm, nhất là vịt. Trong số chim muông có bán một loại cò bụng đen mà người ta bảo rằng sẽ mổ mù mắt ai đến gần nên khi bắt được đem ra chợ bán đều phải khâu mắt lại.
Trong chợ không có nơi giết hay bán thịt súc vật nhưng khi đãi tiệc thì có rất nhiều món thịt heo, thịt bò, cá, gà vịt … tính ra phải đến hàng trăm bát. Thịt cắt thành miếng vuông chấm nước mắm.
KẾT LUẬN
Chưa đầy một năm trước, một biến chuyển khá quan trọng trước đây các sử gia vẫn coi như không liên hệ gì với nhau. Ðó là cuộc tiến quân của vua Quang Trung sang đánh liên quân Lào – Xiêm tại Phuan và chiến dịch Thị Nại mà chúa Nguyễn Ánh đã phá huỷ gần như toàn bộ thuỷ quân của vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc.
Chiến dịch đánh Lào do đích thân Nguyễn Huệ cầm quân trước đây vẫn chỉ được xem như một công tác bình định, vừa khuất phục một số tiểu quốc vốn dĩ bị Xiêm La khống chế, vừa tiêu diệt dư đảng nhà Lê. Chúng ta cũng biết thêm rằng Nguyễn Huệ còn âm mưu chuyển một đạo quân lớn theo đường Lào xuống Cao Miên để đánh chặn sau lưng chúa Nguyễn.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ khi ông đi dự lễ bát tuần thượng thọ từ Trung Hoa trở về (cuối năm Canh Tuất 1790) đến đầu năm Nhâm Tí 1792) là năm ông qua đời, vua Quang Trung hết sức tích cực trong việc tăng cường quân đội, bổ xung khí giới và đạn dược. Theo những thư từ của các giáo sĩ Tây phương gửi cho nhau, Nguyễn Huệ đã áp đặt lên dân chúng nhiều khoản thu trong đó có một số lớn là đồng để đúc súng.[40] Cũng vào năm 1791, vua Quang Trung định gửi giáo sĩ Girald sang Macao để chiêu dụ người Âu Châu đến buôn bán tại An Nam. Ông cũng mua từ các thuyền buôn của Macao và Manille 100,000 livres (tức 50,000 kg) thuốc súng.[41]
Chúng ta chỉ có thể biết được phần nào những chủ trương của vua Quang Trung dựa vào một số thái độ của triều đình Cảnh Thịnh đối với bên ngoài, từ việc lạnh nhạt với các tàu buôn Bồ Ðào Nha và những sinh hoạt qui mô nhỏ của các tàu buôn Trung Hoa nhưng lại vồ vập đối với phái đoàn Anh Cát Lợi.
Macartney sau khi tiếp xúc với triều đình Cảnh Thịnh cũng có ý định sẽ tiến xa hơn trong việc thiết lập quan hệ với nhà Tây Sơn, nếu không vì vị trí chiến lược của Ðại Việt trong vùng thì cũng vì lợi ích thương mại. Ông dự tính sẽ trở lại thêm một lần nữa trên đường từ Trung Hoa về Anh mặc dù trước đó họ chỉ gửi những lá thư mang tính thân thiện ngoại giao mà không trình uỷ nhiệm thư để tránh những hứa hẹn và ràng buộc chưa cần thiết. Macartney vì thế đã quyết định rằng sẽ chỉ giới hạn trong những thư từ ngoại giao và qua lại quà cáp để đáp lễ.
Tuy nhiên, một phần vì công tác mà phái đoàn được giao phó tại Bắc Kinh đã không đạt kết quả mong muốn, phần khác quan trọng hơn là ngay khi đó chiến tranh giữa Anh và Pháp bùng nổ và Macartney e ngại sẽ đụng độ với tàu Pháp trong vùng Viễn Ðông nên ông đã về thẳng Âu châu. Ông tới London vào ngày 5 tháng 9 năm 1794.[42]
Tuy không đưa ra một đề nghị nào chính thức ngoài một số nghi lễ ngoại giao, người Anh tự cho rằng họ cũng thu hoạch một số thành quả trong đó việc vẽ bản đồ khu vực vịnh Tourane được coi như hàng đầu. Chính Macartney đã ra lệnh cho thuộc hạ đo đạc và nghiên cứu về hải cảng Tourane kể cả nghiên cứu một số vị trí để đóng quân phòng thủ với mục đích là Công Ty Ðông Ấn có sẵn tài liệu khi cần đến. Theo chính nhật ký của ông ta thì:
… địa điểm này cho ta một hải cảng tuyệt vời và có một vị trí có thể xây một phòng tuyến và đóng quân mà phí tổn rất ít và đủ sức để chống trả bất cứ lực lượng nào trên thế giới đến tấn công …[43]
Cho tới thời điểm đó, người Anh chưa có những tài liệu chi tiết nhưng việc Bá Ða Lộc ghi trong hiệp ước Versailles đòi hỏi triều đình Ðại Việt nhường đứt cho Pháp hải cảng Tourane và cù lao Chàm (Callao Island)[44] cho thấy đây là một địa điểm không phải mới được chú ý. Chính vì thế, tuy việc trắc địa chỉ là một chi tiết nhỏ được đề cập không mấy rõ rệt nhưng bản đồ mà chúng ta còn có được ngày nay cho thấy đây là một công trình khá quan trọng, do những chuyên viên hàng đầu thực hiện trong mục tiêu quân sự và chính trị.
Những quan tâm của người Âu châu đến khu vực bờ biển nước ta trong vị thế chiến lược quốc tế của thời đại “giương buồm” (the age of sail) cho thấy việc bảo tồn được quyền lợi quốc gia trong thời kỳ đấu tranh quyết liệt để đuổi hươu tranh đỉnh không dễ dàng chút nào. Ngay từ thời kỳ mà người Pháp chưa có một hành động quân sự cụ thể nào để biến Việt Nam thành thuộc địa, John Barrow đã có những nhận định khá tinh tế như sau:
… Thực tế cho thấy mũi đất bán đảo Turon (hay Hansan) đối với Cochinchina (Ðàng Trong) cũng không khác gì eo biển Gibraltar đối với Tây Ban Nha, khác biệt chăng là Turon ngoài vị thế kiên cố khó chiếm được còn ưu điểm là một hải cảng và cửa khẩu rất thuận lợi, được che chở an toàn tất cả các chiều gió trong cả bốn mùa một năm, có đầy đủ điều kiện để thành một căn cứ hải quân lớn, một nơi mà tàu bè đến tu bổ hay tiếp tế, một nơi có rất nhiều giòng suối trong vắt tưới bón cho vô số thung lũng mở ra đến tận bờ biển …[45]
Chỉ vài tháng sau khi phái đoàn Macartney rời Tourane, quân chúa Nguyễn tiến ra vây đánh Qui Nhơn khiến Nguyễn Nhạc phải đưa thư cầu cứu Nguyễn Quang Toản. Vua Cảnh Thịnh sai Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung, Ngô Văn Sở đem 17 vạn quân, 80 thớt voi và 30 chiến thuyền vào cứu. Ngoài ra, một đạo quân theo đường núi Salung (Bình Ðịnh) cũng tiến vào giáp công khiến Nguyễn Ánh phải bỏ Qui Nhơn rút về Gia Ðịnh nhưng vẫn giữ từ Phú Yên đổ vào. Nguyễn Quang Toản thừa cơ chiếm luôn vương quốc của Nguyễn Nhạc khiến ông tức giận mà chết.
Cuộc hành quân qui mô và nhanh chóng của vua Cảnh Thịnh (chỉ sau khi cha ông từ trần một thời gian ngắn) khiến chúng ta có thể tin rằng kế hoạch tiếp thu Qui Nhơn chính là một phần của kế hoạch vua Quang Trung đã vẽ ra khi ban bố tờ hịch cho quan dân hai tỉnh Qui Nhơn, Quảng Ngãi, một mặt đe doạ, một mặt khuyến dụ nhưng cũng có thể để mỉa mai sự hoảng hốt của vua Thái Ðức trước những trang bị mới của chúa Nguyễn ở Gia Ðịnh.
Vào những thập niên sau cùng của thế kỷ XVIII, nước ta rơi vào một cuộc nội chiến trong khi thế giới đang chuyển mình mãnh liệt. Cuộc tranh chấp giữa người Việt với người Việt khiến những thế lực trong cuộc tranh bá đồ vương chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là khai thác triệt để khu vực mình đang cai trị để củng cố sức mạnh hay cầu viện từ bên ngoài nếu có cơ hội.
Lê Duy Kỳ, tức vua Chiêu Thống nhà Lê đã bị lên án nặng nề về tội “cõng rắn cắn gà nhà” khi ông kêu gọi nhà Thanh đem quân giúp mình lấy lại ngai vàng mặc dù lời kêu cứu của tôn thất nhà Lê được nhà Thanh dựng lên (hay mớm lời?) và ý định của vua Lê chỉ xảy ra sau khi Tôn Sĩ Nghị đã chuẩn bị sẵn sàng tiến vào nước ta.
Chúa Nguyễn Ánh cũng bị nghiêm khắc kết tội “bán nước” khi ông nhờ giáo sĩ Bá Ða Lộc đem hoàng tử Cảnh sang Pháp để xin viện trợ một số vũ khí và phương tiện quân sự. Thế nhưng khi nhìn lại hoàn cảnh của chúa Nguyễn và tình hình cũng như phương tiện thời đó, chúng ta thấy ông cũng bất đắc dĩ phải nương nhờ vào một thế lực mà ông chưa từng quen biết, ngoài tình bằng hữu đối với một vài thừa sai trong lãnh thổ của ông. Có lẽ ông cũng biết rằng việc cầu viện nước Pháp có lợi lớn cho nước Pháp, lợi lâu dài cho giáo hội và chỉ là thang thuốc nhất thời cho chính mình, tuy chữa được bệnh nhưng nếu không khéo sẽ lại vướng mắc vào những thế lực khác có phần nguy hiểm hơn.
Tuy vậy cũng không có nghĩa rằng chỉ một mình Nguyễn Ánh bị rơi vào thế khó xử. Các sử gia hầu như dành trọn tiếng thơm cho hai thế lực khác còn lại là triều đình Thái Ðức của Nguyễn Nhạc và triều đình Quang Trung của Nguyễn Huệ – một người là thủ lãnh nông dân khởi nghĩa chống phong kiến, một người là anh hùng áo vải chống ngoại xâm. Thế nhưng khi đọc đến những lời tường thuật buổi nói chuyện giữa Charles Chapman và vua Thái Ðức khi ông vừa lên ngôi (1778) thì chúng ta lại có một suy nghĩ khác. Nguyễn Nhạc cũng thẳng thắn công khai kêu gọi người Anh buôn bán với Ðàng Trong và sẵn lòng thiết lập những nhượng địa hay tô giới để bảo đảm cho việc ra vào trao đổi hàng hoá, một mặc cả không khác gì những điều ước mà Bá Ða Lộc ký với nước Pháp (nhân danh chúa Nguyễn) nếu không nói rằng còn có vẻ dễ dãi, ít ràng buộc hơn.
Cuộc tiếp đón phái đoàn Anh lần thứ hai dưới triều Cảnh Thịnh cũng đưa ra những chứng cớ để chúng ta kết luận rằng việc tìm kiếm những đồng minh Âu Châu vào cuối thế kỷ XVIII đã thành một mẫu số chung được thực hiện tại nhiều vương triều, nhiều quốc gia không phải chỉ để mở rộng giao thương mà còn để canh tân kỹ thuật, tìm mua vũ khí và phương tiện quân sự. Trong thời kỳ mà các nước Tây phương đang bành trướng, một mặt tìm kiếm thị trường, một mặt tìm kiếm nguyên liệu, việc giao thiệp với họ cũng là một xu thế tất yếu.
Tuy không có những bằng chứng rõ rệt như lần Chapman tiếp xúc với Nguyễn Nhạc, phái bộ Macartney được hưởng một số biệt đãi mà chúng ta có thể coi như mở đầu cho những thương thuyết để nếu có điều kiện sẽ tiến tới xa hơn.[46] Chúng ta cũng có thể tin rằng vua Cảnh Thịnh chỉ tiếp nối những chủ trương của cha ông, một mặt muốn canh tân quân sự, một mặt muốn có một số quốc gia Âu Châu vào buôn bán, nhất là lại là một quốc gia đối nghịch với người Pháp, không nằm trong hệ thống tôn giáo hiện đang ủng hộ chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.
Nói tóm lại, trong tình thế tranh giành quyền lực và tình hình phức tạp của khu vực Ðông Nam Á ở cuối thế kỷ XVIII, việc mưu cầu những liên minh quân sự đã trở thành không thể thiếu. Những liên minh với các quốc gia lân cận giai đoạn này không những khó khăn hơn mà cũng nguy hiểm hơn. Việc chúa Nguyễn lưu vong sang Xiêm La với nhiều nỗi gian truân, nguy hiểm và lắm khi đắng cay chịu đựng một vai trò khiêm tốn đã khiến cho việc mưu cầu giúp đỡ từ các quốc gia Tây phương trở thành một xu hướng tiến bộ hơn cho mọi phía. Vấn đề là làm thế nào để tiếp xúc được với họ nếu không có những thành phần trung gian tiêu biểu là các giáo sĩ?
Mặc dù việc phái đoàn Anh ghé nước ta chỉ được coi là một biến cố nhỏ trong quan hệ ngoại giao với Âu châu trong thế kỷ XVIII và chính sử nhà Nguyễn không hề nhắc đến nhưng tổng kết lại những chi tiết từ nhiều nguồn khác nhau, so sánh tương quan lực lượng và nhu cầu cải tiến vũ khí chúng ta có thể hình dung được cuộc chạy đua võ trang giữa các thế lực. Cũng thêm rằng, biến cố này xảy ra sau khi vua Quang Trung mất chưa đầy một năm và nếu tìm hiểu tình hình trong thời gian 12 tháng trước và sau cái mốc quan trọng này, chúng ta có thể tin rằng đây là một giai đoạn bản lề trong tương quan lực lượng giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn. Thất bại của phái bộ Macartney tại Trung Hoa đưa tới việc người Anh không tiếp tục liên lạc với vua Cảnh Thịnh và từ đó, nhà Tây Sơn đã không còn cơ hội nào khác để canh tân ngõ hầu vượt trội được Nguyễn Ánh trong cuộc nội chiến cuối thế kỷ XVIII.
Tháng 5-2007
Sắc thư vua Càn Long gửi hoàng đế Anh Cát Lợi
PHỤ LỤC
Our First Ambassador to China,
An Account of the life of George, Earl of Macartney
do
Helen H. Robbins
sưu tập từ những thư từ và lời tường thuật
của chính George Macartney.
New York: E.P. Dutton and Company, 1908 tr. 231-243
Thứ Năm, 16 tháng 5 (1793)
Chúng tôi đã nhìn thấy cù lao Condore sáng nay và đến trưa thì neo thuyền tại một nơi nước sâu khoảng 5 fathom, trong một cái vịnh rộng ở về phía đông nam của hòn đảo, cách một cái làng khoảng 4 dặm. Làng đó nằm ở một bãi biển đẹp, được che phủ bởi một hàng dừa râm mát, còn biển phía tây bắc thì được bảo vệ bằng một bãi san hô.
Cái làng này bao gồm chừng 40 căn nhà, do người Ðàng Trong ở nhưng xem ra họ cũng mới định cư ở đây thôi. Có ba bốn chiếc thuyền kéo lên nằm trên bờ biển và một cái bỏ neo. Họ xem ra đơn sơ nghèo nàn nhưng nhà cửa khá ngăn nắp sạch sẽ và có vẻ như có một hệ thống chính quyền vì có một ông thôn trưởng hay quan mặc áo thẫm màu là người ra lệnh cho họ, nói với họ bằng một giọng uy quyền. Người Trung Hoa của chúng tôi lên bờ với những người khác nhưng không hiểu những người dân ở đây nói gì mà cũng không làm sao nói cho họ hiểu được. Tuy nhiên, ông Nyang, một trong những người Tàu của chúng tôi, viết xuống điều muốn nói, và sau khi xem thì một người dân cầm lấy cây viết chì và viết câu trả lời. Thế là một cách giao thiệp để hai bên có thể hiểu nhau được áp dụng cho đến khi có một người đàn bà đến nói bằng tiếng Trung Hoa. Chúng tôi thấy trên đảo có ngựa, trâu, gà vịt, chanh, dừa, cau, tằm, bông, gạo, thuốc lá, gỗ, cây, cá, dê … và trứng nên cho người dân biết là chúng tôi mong được tiếp tế những món này. Họ hứa hẹn sẽ có đầy đủ những hàng đó vào sáng hôm sau; nhưng thật ngạc nhiên thay, khi chúng tôi lên bờ, thay vì thấy những gì đang mong đợi thì chúng tôi lại chẳng thấy một bóng người. Tất cả hoàn toàn vắng lặng. Dân chúng đã khiếp đảm bỏ nhà chạy trốn lên trên núi ở sâu trong đất liền. Tuy nhiên họ cũng để lại tại một nơi dễ thấy viết bằng chữ Tàu được ông Nyang dịch ra tiếng Latin có nghĩa là dân chúng nơi đây ít ỏi và nghèo nàn lắm nên rất hoảng sợ khi thấy những chiếc tàu to lớn đến thế ghé vào. Họ đành phải bỏ của chạy lấy người và họ cúi lạy quí vị đại nhân một trăm lạy mong rằng người của đại quốc thương xót mà không đốt nhà. Mặc dù họ đã bỏ chạy nhưng họ không mang gì theo ngoài khí giới bao gồm vài ngọn giáo, súng hoả mai và một khẩu súng đồng còn bao nhiêu đồ đạc, vật dụng để lại hết. Người của chúng tôi ở lại thêm vài giờ và lần theo đường mòn của họ đi vào sâu hơn thấy loáng thoáng một vài người dân ở xa xa và ra hiệu cho họ nhưng không một ai dám đến gần. Trong ngôi làng mà chúng tôi đã thấy trước đây còn có một cái miếu với một ngẫu tượng và một bài vị với chữ viết mong người qua đường cầu nguyện cho linh hồn kẻ quá cố. Có một cái hũ ở trong một căn nhà chứa cá nhưng không thấy có suối nước. Có vài cái giếng sâu chừng ba thước và cũng không thấy dấu tích gì của cái luỹ mà nghe nói trước đây người Anh đã dựng lên.
Có những con trâu lớn và vài con ngựa nhỏ đẹp đẽ, có lẽ dùng vào việc canh nông vì trên một hòn đảo nhỏ thế này – dài chừng 10 dặm, ngang chừng 3 dặm – thì chẳng làm được việc gì khác. Mỗi nhà có rất nhiều chó và bốn năm con mèo nên chúng tôi đoán rằng nơi đây hẳn có nhiều chuột bọ. Ngoài ra không thấy sinh vật nào khác trên bờ biển ngoài một con rắn độc rất đẹp dài chừng 1.2 mét.
Sau khi đợi chừng vài giờ nhưng không thấy một cư dân nào dám mon men xuống, người của chúng tôi ra đi để lại một lá thư viết bằng chữ Tàu giải thích cho họ biết lý do chúng tôi ghé đảo, cho họ biết chúng tôi là người Anh Cát Lợi và khuyến khích họ tin tưởng vào dân nước tôi nếu một khi đến đây.
Chúng tôi không đụng chạm đến một thứ gì và để nguyên như khi chúng tôi tìm thấy, cũng không tơ hào một chút gì ở thiên nhiên mặc dù có nhiều loại rất hấp dẫn chẳng hạn như chanh, trứng, gà vịt …Chúng tôi ngờ rằng đã có tàu bè (mà đoán chừng là tàu Mỹ) đã ghé đây, đối xử không được tốt với dân chúng nên người bản xứ mới tỏ ra sợ hãi và ngờ vực mặc dầu thoạt đầu họ có vẻ hiền hoà và văn minh. Người Mỹ rất giống người Anh và đi đến đâu họ cũng giương cờ Anh nên chúng tôi mới nghĩ rằng họ đã đến đây rồi.
Thứ Sáu, 17 tháng 5.[1][45]
Chiếc tàu Hindostan nhổ neo ra biển trong thời tiết hiện đang giông tố mà chúng tôi quan sát thấy quả rất gần những hòn đảo này. Bầu trời buổi tối chỗ nào cũng có sấm chớp.
Trong khi rời đảo Pulo Condore một chuyện không may đã xảy ra trên tàu Hindostan. Khi kéo neo, sợi dây chão buộc neo với trục quay đứt rời ra từng mảnh. Thanh gỗ của trục quay, chừng 6 inches vuông và dài 16 feet, mà các thuỷ thủ dồn sức vào để chịu đồng thời làm đòn bẩy để cản lại sức kéo của cái neo, bất thần vỡ tung, văng ra tứ phía với một sức mạnh khủng khiếp. Khắp sàn tàu lập tức ngổn ngang những thuỷ thuỷ trúng miểng bị thương nằm rên la vì một số đông người đã được điều động để làm công việc này. Bao nhiêu người chết, bị thương hay bị tàn phế không biết chắc nhưng cảnh tượng đã khiến cho viên thuyền trưởng xúc động vì chính ông ta có mặt ở đó nên mặc dù có đến ba y sĩ ở trên tàu nhưng vẫn kêu lên thảng thốt:
– Coi sóc người bị gãy chân tay trước còn người bị thương để sau.
Sự kinh hoàng quả còn hơn cả trên chiến trường vì nơi đây ít ra người ta đã chuẩn bị tinh thần trước. May là chúng tôi không mất người nào và tất cả số người bị gãy chân tay hay bị thương về sau đều hồi phục.
Chủ Nhật, 26 tháng 5.
Khuya đêm trước chúng tôi vào bỏ neo trong vịnh Touron. Trên hải trình chúng tôi gặp một chiếc tàu Bồ Ðào Nha đến từ Macao do viên thuyền trưởng tên là Mansel Houme Cawalho chỉ huy. Chiếc tàu này đã đến đây mấy ngày rồi để buôn bán với người Ðàng Trong, trao đổi bông vải, lưu huỳnh, diêm tiêu (saltpetre), súng, gươm, thuốc súng, đạn và các dụng cụ quân sư để lấy bạc, tiêu và đường. Người xứ này sợ hãi khi thấy chúng tôi xuất hiện nên yêu cầu viên thuyền trưởng đưa một chiếc ghe sang hỏi và vì thế chúng tôi biết rằng vị quốc vương nơi đây chỉ là một cậu bé chừng 13, 14 tuổi, ở tại một nơi khá xa nhưng vị quan trấn thủ nơi đây là người có chức vụ cao và được toàn quyền nên chúng tôi có thể có rất nhiều vật dụng cần thiết …
Thứ Hai, 27 tháng 5.
Sáng nay viên thuyền trưởng Bồ Ðào Nha và một người khác sang tàu và tỏ ý muốn đến chào tôi. Họ có vẻ sốt sắng và cũng rất bẻm mép. Trái với những gì mà người ở chiếc ghe nói với tôi hôm qua, họ lại bảo rằng xứ này nghèo lắm và điêu tàn và không thể có những vật dụng mà tàu chúng tôi cần đến. Tuy nhiên họ lại đề nghị giúp chúng tôi và bảo rằng nếu như cho họ một danh sách những đồ cần thiết thì họ có người có thể giúp chúng tôi những gì cần đến. Chúng tôi cám ơn y vì lòng tốt đó và cho y hay rằng đã cử người lên bờ để xem xét và sẽ báo cáo lại. Chẳng bao lâu một chiếc thuyền từ thị trấn ra chỗ chúng tôi, do một gã say mèm chỉ huy mà họ gọi là quan lớn. Y đưa ra một tờ giấy mà chúng tôi hiểu rằng đây là một uỷ nhiệm thư của viên trấn thủ trao cho quyền hạn để hỏi xem chúng tôi là ai, từ đâu đến, có công việc gì, là bạn hay là thù …
Gã này, sau khi đi loạng choạng vài nơi trên sàn tàu, uống vài ly rượu rum rồi quay trở lại chiếc thuyền của y, được che bằng những tấm bửng quay về bờ coi như đã hoàn tất công tác được giao phó. Những người tuỳ tòng của y báo cáo những gì đã thấy và đã làm cho một hội đồng quan chức được thành lập để tiếp đón ông Maxwell và bác sĩ Gillan là hai người tôi gửi lên bờ hồi sáng sớm để tìm mua thực phẩm tươi mà chúng tôi đang rất cần đồng thời để quan sát về nơi chốn và dân tình ở đây.
Những viên quan này xem ra rất lịch sự vì họ không những mời hai người ăn một bữa ngon mà còn giới thiệu với vợ họ nữa. Hai bên nói chuyện rất lâu và qua cuộc đàm luận những người đó ra chừng ngạc nhiên tại sao người Anh lại biết nhiều về lịch sử và những mối quan tâm của họ. Những viên quan đó đều mặc áo dài lụa và khi ra về đều đi bằng những chiếc cáng đẹp đẽ đến tận nhà ở một nơi khá xa làng.
Trong dịp đón khách họ bắn ba khẩu súng để chào mà theo báo cáo của họ thì đây là những súng có thể xoay chuyển được. Ông Maxwell đem về cho tôi một lá thư khen ngợi từ quan trấn thủ và tin rằng chúng tôi sẽ thu mua được đủ những loại cần dùng.
Thứ Ba, 28 tháng 5.
Ngài George Staunton, ông Maxwell, thuyền trưởng Mackintosh, bác sĩ Gillan … cùng lên bờ. Ngài George không muốn cho ai biết chân diện mục nhưng Padre Nyang lại bảo cho dân chúng biết ông ta là ai. Do đó người ta đưa cho ông một bức thư mời ông dự tiệc nhưng ông từ chối. Ông Maxwell, bác sĩ Gillan và hầu hết những vị khác đều nhận lời và được đãi tại hai bàn với rất nhiều món ăn nêm rất nhiều gia vị đựng trong những đồ sứ đẹp đẽ, có điều hơi ngượng ngập khi phải dùng bàn tay quen dùng dao nĩa để cầm đũa. Thế nhưng bọn chúng tôi thì có vụng về trong việc dùng tay thật, chủ nhà và những người dự tiệc lại thuộc hàng cao thủ vì hầu hết bọn chúng tôi trong bữa tiệc đó ai cũng bị móc túi. Thực ra không phải họ không có mà vì máu tham nên người Ðàng Trong nếu không ăn cắp được thì cũng hỏi xin một cách trơ trẽn và nằng nặc đòi những món như kiếm, gậy, khoá thắt lưng hay bất cứ món gì bằng kim loại xem ra đáng giá.
Sau khi các thái độ pha trộn từ hiếu khách đến đạo thiết, xin xỏ chấm dứt, màn được kéo lên và một vở hài kịch bắt đầu. Thế nhưng trò vui đáng chú ý nhất trong ngày hôm ấy là một pha đá cầu, trong đó có nhiều người cùng tham gia, thay vì đánh bằng vợt thì đá qua đá lại bằng lòng bàn chân khiến trái cầu bay lên rất cao và rất xa. Trong dịp thao diễn khác thường này, thuyền trưởng Mackintosh có đề cập đến sự điêu luyện, sức mạnh và dẻo dai của người Xiêm La nhất là trong quyền thuật, không phải chỉ dùng nắm tay mà một thuỷ thủ người Anh đã nếm mùi nhưng độc đáo nhất là đá bằng gót chân khiến cho gã Jack Tar đáng thương, vừa kinh ngạc vừa nhục nhã, chỉ một cú đã bị vỡ hàm.
Chiều tối hôm đó viên trấn thủ gửi hai con heo, hai con dê, mười con vịt, một số gia cầm và rau cỏ làm quà cho chúng tôi. Ðể đáp lại, tôi tặng ông ta sáu khẩu súng trường có lưỡi lê, sáu súng ngắn và sáu thanh kiếm ngắn. Ông ta cũng muốn ông Maxwell đưa tiền trước để mua thực phẩm giùm nhưng chúng tôi từ chối.
Thứ Năm, 30 tháng 5.
Ngày hôm nay có họp chợ và có nhiều mặt hàng nhưng thứ nào giá cũng rất cao. Vì thế ông Maxwell và một số người nữa đi qua phía bên kia vịnh là một nơi cảnh trí rất hữu tình và thấy nơi đây cũng có rất nhiều thứ nhưng không sao thuyết phục được người dân bán cho họ. Tôi cho rằng họ bị chính quyền cấm đoán ngặt nghèo. Chúng tôi dựng những chiếc lều trên một hòn đảo và khiêng bảy mươi người bệnh lên bờ. Những người đó thuộc về thuỷ thủ đoàn của chiếc Lion, trong số bệnh nhân có thuyền phó Cox.
Thứ Sáu, 31 tháng 5.
Tôi phải gửi mấy thân binh lên bệnh viện trên bờ. Khi ngài Erasmus Gower chuẩn bị lên bộ để thúc giục những người đang ở trên đó thì một viên quan đi một chiếc thuyền tám tay chèo đến, mang một lá thư và mời ông ta ăn tối. Chợ khi đó trở nên dễ dãi hơn và giá rẻ hơn và chúng tôi mong mọi việc sẽ suông sẻ khi hai bên đã hiểu nhau hơn.
Thứ Bảy, mồng 1 tháng 6.
Một viên quan lớn đến thăm và thông báo là quà của vua nước An Nam gửi chúng tôi bao gồm mười con trâu, mười lăm con heo, một trăm thạch gạo, năm mươi con vịt, năm mươi con gà, năm hũ rượu samshoe (một loại rượu giống như gin).
Chủ Nhật, mồng 2 tháng 6.
Viên đại quan đã mang phong thư của nhà vua và thông báo về quà ngày hôm qua hôm nay lại đến và ở lại lâu chịu không nổi đến 2 giờ rưỡi, trong suốt thời gian đó y và viên võ tướng tháp tùng uống khoảng một chục ly rượu anh đào. Y cũng nếm thử rượu samshoe và chê là rượu dở, không phải loại rượu mà nhà vua gửi tặng chúng tôi đã bị viên khâm sai đánh tráo. Vì thế y muốn đem những hũ rượu đó trở lên bờ và sẽ gửi lại rượu ngon, cùng trừng phạt và đánh đòn viên quan đã mạo hoá. Tôi ngờ rằng chính những tên này cũng thuộc loại lưu manh nên cố gắng dàn hoà để cho vụ này được xếp lại. Bọn họ đều ăn xin, thấy gì là hỏi nấy, từ chiếc khăn tay, cái gối, tờ giấy, đồng hồ cát … Viên võ tướng cho tôi biết y sanh ra ở một vùng gần Quảng Châu (Canton), con của một lái buôn và từng đi buôn ở đảo Hải Nam rồi từ đó đi sang xứ Ðàng Trong. Y được bổ nhiệm làm thầy dạy cho hoàng đế khi còn nhỏ mà theo y hiện nay đã mười bốn tuổi, rất có khả năng, biết đọc, viết, bắn cung, ném phi tiêu … cực giỏi. Lãnh thổ của ông ta bao gồm cả Tonquin, mở rộng tới biên giới Trung Hoa, là phiên thuộc nên hàng năm phải nạp một số lượng ngà voi cho hoàng đế nước này và cống phẩm giao ở Quảng Châu.
Ðất nước này trước đây giàu có và trù phú nhưng vì nội chiến nên điêu tàn. Nội chiến bắt đầu khoảng ba mươi năm trước và cũng chưa chấm dứt nhưng nếu hoà bình được lập lại thì sẽ trở nên thịnh vượng như xưa.
Thứ Ba, mồng 4 tháng 6.
Hôm nay là ngày chúng tôi hẹn đến thăm viên đại quan, tức quan trấn thủ của tỉnh để giao cho ông ta bức thư trả lời nhà vua. Lá thư trả lời này viết bằng tiếng Trung Hoa, viền quanh bằng giấy trắng có trang trí những hình do ông Alexander vẽ, vì chúng tôi không có giấy màu đỏ, là màu xem ra trang trọng nhất dùng trong trường hợp này. Chúng tôi khởi trình từ chiếc Lion trong một đoàn thuyền vĩ đại. Hai chiếc thuyền hai buồm (brig) dẫn đầu đi ngược dòng, một dòng sông rộng như sông Thames tại Woolwich, và chúng tôi đi theo bằng tám chiếc thuyền khác. Ngài George Staunton, ngài Erasmus Gower, thuyền trưởng Mackintosh, và bản thân tôi đi trên một chiếc thuyền lớn loại mười hai tay chèo (barge). Kế đó là chiếc thuyền yawl trên có một giàn nhạc công. Kế đó là chiếc xuồng lớn (launch) chở năm mươi vệ binh của tôi cùng với các sĩ quan chĩ huy, đại tá Benson, hai phụ tá Parish và Crewe. Chiếc thuyền nhẹ (pinnace) và thuyền buồm (cutter) của chiếc yawl đi theo sau chở quí ông Gillan, Maxwell, Barrow, Dinwidie, Scott, Kichey, Alexander … và các sĩ quan tàu Lion. Hai chiếc thuyền của thuyền trưởng Mackintosh đi sau cùng trên có một số sĩ quan của chiếc tàu Hindostan. Tôi ước chừng tổng cộng chúng tôi đi khoảng hai trăm người kể cả những thuỷ thủ chèo thuyền.
Ðến giữa đường chúng tôi gặp đoàn chiến thuyền đẹp nhất của họ, trên đầy những giáo, khiên và cờ để hộ tống tạo thành một cảnh tượng cực kỳ hùng tráng. Khi xuống bến tôi thấy một đạo quân được cử đến đón và một đường mòn dẫn tới dinh quan trấn thủ, tuy không hoa lệ nhưng rất qui mô. Phòng khách nơi họ đón chúng tôi rộng khoảng chừng 70 hay 80 feet, ngang chừng 50 feet, dựng toàn bằng tre tương tự như kiểu cách một giáo đường Gothic. Những rui đan chéo vào nhau trên lợp tranh. Ở cuối sảnh đường là một phòng lớn chia làm ba gian, gian giữa để trống, hai gian hai bên che mành mành là chỗ của phụ nữ mà họ thường vén lên để đi ra nên chúng tôi thấy mặt mũi hình dáng rất rõ ràng. Họ hay mỉm cười và xem chừng thích thú khi biết chúng tôi đang quan sát họ.
Ở gian giữa người ta để một cái bục cao chừng hai feet, phía trong cùng có đặt một tủ sơn son thếp vàng trên đặt hai cây nến đang cháy mà chúng tôi nghe nói là tượng trưng cho uy quyền của nhà vua xứ Cochin China, được đặt nơi đây như một vinh dự đặc biệt cho chúng tôi vì nhà vua còn quá trẻ và quá xa không thân hành tới được nên gửi hai cây nến thay thế.
Viên trấn thủ đứng đón chúng tôi và đưa lá thư (tôi nhờ ông ta chuyển lại cho hoàng thượng) cho một viên thư lại rồi mời tôi ngồi vào chiếc ghế bành ở phía tay trái là nơi coi là chỗ cao quí nhất. Sau đó ông ta ngồi xếp bằng ngay trước bàn thờ giữa hai chiếc đệm, miệng ngậm một chiếu điếu dài và hút thuốc với một vẻ thản nhiên. Ngài George Staunton ngồi cạnh tôi còn ngài Erasmus Gower và đại tá Benson thì ngồi đối diện, phía dưới hơn nữa là quí ông và tuỳ tùng. Các món quà khi đó mới đem lên cho hoàng đế và giao lại cho viên trấn thủ. Những món đó bao gồm một đồng hồ vàng tuyệt xảo do Elliot chế tạo, một chiếc súng trường hai nòng với đầy đủ bao thuốc súng, tù và đổ thuốc súng … một cặp súng ngắn có lưỡi lê, một thanh đao bản rộng bằng thép tốt, ba tấm vải lông lạc đà (camblet) màu đỏ, tím và vàng.
Kế đó viên quan được giao nhiệm vụ mang những món quà đó lên nhà vua được đưa ra trình diện trong bộ triều phục là một áo chùng thêu hoa đủ màu sắc và đủ hình thù. Ông ta hành lễ, sau đó người tuỳ tùng bưng những quà đó đi trước, ông ta đi theo sau với một vẻ trịnh trọng gấp đôi khi ông ta bước vào.
Công việc này được xem như một quốc lễ trong ngày đã hoàn tất và chúng tôi được tiếp đãi bằng các trò vui của vùng này. Một vở hát bội, kèm với âm nhạc trình diễn trên một sân khấu được sửa soạn cho việc này ở cuối dãy nhà. Âm nhạc bao gồm cả hát lẫn nhạc khí nhưng không êm tai lắm, nặng phần giọng mũi và na ná như âm điệu Psalmody của các dân tộc Presbyterians vùng bắc Ái Nhĩ Lan. Vở tuồng diễn cảnh ông vua và hoàng hậu đang sống một cách đầm ấm thì bỗng dưng thuộc hạ nổi loạn. Cuộc chiến kéo dài, nhiều trận đánh diễn ra và sau cùng thủ lãnh của loạn quân – mà người ta diễn tả như một kỵ sĩ vì y cầm một cái roi trong tay, chỉ một mình mà giết được nhà vua và toàn bộ binh sĩ chiếm được vương quốc. Bà hoàng hậu bị địch bắt xuất hiện trên sân khấu với đầy nỗi thống khổ của kẻ bị mất chồng, mất trinh tiết và bị sỉ nhục. Trong khi bà ta vò đầu ngửng đầu lên than trách với trời đất thì kẻ chiến thắng xuất hiện, đối xử với bà ta đầy vẻ lễ độ, nói năng dịu dàng, an ủi và thương xót bằng lời lẽ yêu thương, ngọt ngào. Cũng như Richard đệ Tam và Lady Anne trong Shakespeare, chỉ chưa đầy nửa giờ sau nàng ta đã lau nước mắt, quên người chồng vừa qua đời và vui vầy với một phu quân mới. Vở kịch chấm dứt bằng đám cưới và diễn hành.
Trong khi trình diễn người ta để dưới chân tôi vài chuỗi tiền đồng để tôi ném lên sân khấu cho các diễn viên chứng tỏ tôi hài lòng và tán thưởng tài nghệ của họ.
Sau đó họ dọn lên bàn một bữa ăn thịnh soạn để cho tôi, ngài George Staunton, ngài Erasmus Gower, đại tá Benson … cùng với dao, nĩa, muỗng … mà chúng tôi biết rằng mượn từ người Bồ Ðào Nha cũng đang có mặt trong vịnh để dùng trong dịp đặc biệt này cùng với Madeira, rượu vang, phó mát cùng những thứ khác. Những người đồng hành khác được dọn trên hai dãy bàn dài ở hai bên và cũng lịch sự chu đáo như thế. Chủ nhân cũng không quên các đầy tớ, thuỷ thủ … và ai nấy đều được tiếp đãi chu đáo và linh đình. Sau khoảng ba giờ chúng tôi đứng lên kiếu từ, viên trấn thủ và các quan lại đi theo để thấy vệ binh của tôi bắn ba loạt súng chào và tiễn chúng tôi xuống tận thuyền. Tất cả chúng tôi lên tàu cũng theo thứ tự lúc đi lên. Thế là kết thúc một ngày bận rộn và chúng tôi cảm thấy hài lòng vì cung cách và thái độ đã tạo cho viên trấn thủ và tuỳ viên một thiện cảm và mong rằng việc đó sẽ xây dựng được một cơ sở tốt đẹp cho việc bang giao và thương mại sau này.
Thực vậy, chúng tôi cũng tạo cho họ một ấn tượng tốt đẹp cần thiết về mục tiêu của mình vì chúng tôi biết rằng họ rất nghi ngại, thoạt đầu chỉ coi chúng tôi hơn bọn cướp biển và thổ phỉ một chút vì thấy bề ngoài có vẻ hiếu chiến, lại không tỏ ra có ý định thương mại mà chỉ mua lương thực bằng tiền mặt, cũng chẳng bán hay trao đổi hàng hoá gì để đáp lại. Những ông bạn Bồ Ðào Nha, tuy bề ngoài đối với chúng tôi ra vẻ lịch sự, nhưng không thể không buông lời xúc xiểm hay lặng thinh một cách bóng gió. Chúng tôi biết được điều ấy vì ngoài một trăm năm mươi binh sĩ cầm giáo đi tuần quanh nhà của viên trấn thủ lại còn sáu con voi chiến và một số khá lớn kỵ binh ở trong tỉnh, tuy không lộ diện, và còn thêm một số lượng bộ binh lớn được triều đình điều động đến quanh đây khi vừa thấy chúng tôi xuất hiện trong vịnh.
Chúng tôi nghe kể rằng khoảng chừng ba năm trước, vị vua chính thống của Bắc Hà, tức An Nam, mà nước này bây giờ thuộc về vua của xứ Ðàng Trong, chạy sang Bắc Kinh để van nài hoàng đế Trung Hoa giúp cho ông ta lấy lại ngôi vua đã bị cha của ông hoàng hiện đang cai trị này đánh đuổi. Vì thế hoàng đế đã gửi một lực lượng lớn sang An Nam để thực hiện mục tiêu này. Thế nhưng họ đã không thành công mà còn bị đánh bại trong vài lần đụng độ và sau cùng bị đánh tan tác không còn manh giáp. Viên tướng Trung Hoa đã báo cáo lên triều đình là quân sĩ của y bị chết vì bệnh và mệt mỏi. Hoàng đế Trung Hoa thấy đất nước này xa xôi và những nguy cơ của việc khởi binh phục thù, đồng thời lại muốn giữ một vị thế kẻ cả nên đã hạ chiếu nói rằng vị phế đế kia không xứng đáng làm vua nên trao ngôi vị lại cho người chủ nhân hiện tại là người đã chấp nhận làm phiên thuộc và triều cống hàng năm một số ngà voi, hồ tiêu và những sản vật địa phương như bằng chứng là đã thần phục. Ðây là những tin tức mà chúng tôi nghe ngóng được để tìm hiểu về hiện trạng chính trị của xứ này nhưng chắc chắn phải được tiếp nhận một cách hoài nghi và khiếm khuyết vì người bản xứ rất dè dặt và kín đáo, lại thêm những thông ngôn thường hiểu sai lạc và nhầm lẫn.
Thứ Tư, mồng 5 tháng 6.
Ngài Erasmus Gower, đại tá Benson và tôi lên bờ đi thăm bệnh viện dã chiến chúng tôi đặt tại một địa điểm hữu tình trên bán đảo này mà chúng tôi đặt tên là Gibraltar vì trông rất giống địa điểm nổi danh của Âu Châu. Trong những lều do các thuỷ thủ dựng lên bằng cột buồm, mái chèo, cột, buồm cũ, cờ cũ rất là linh hoạt khiến có cảm tưởng như một trò ảo thuật, bệnh nhân được sắp xếp một cách thuận tiện và chu đáo. Sau khi xong việc nơi đây, chúng tôi chèo thuyền đến một làng đẹp đẽ cách chừng một dặm ở phía đông nam và rồi trở về thuyền trong vui vẻ đã qua một cuộc du hành thú vị.
Thứ Năm, mồng 6 tháng 6.
Ngày hôm nay không có gì đáng nói nhưng tôi gửi một lá thư ngợi khen viên trấn thủ và một món quà gồm vài khẩu súng trường, lưỡi lê, súng ngắn và đoản kiếm.
Thứ Sáu, mồng 7 tháng 6.
Chiều hôm nay ngài Erasmus Gower, đại tá Benson và tôi thấy trời đẹp quá, cảnh vật chung quanh lại thật tuyệt vời nên lại một lần nữa dạo chơi bằng chiếc thuyền tám tay chèo. Chúng tôi đưa thuyền đến phía tây bắc của hải cảng và vào cửa một sông lớn, rộng chẳng kém gì sông Thames ở Woolwich mà chúng tôi chưa từng biết. Mặt trời đã lặn và chúng tôi còn cách xa tàu khoảng 3 giờ chèo tay nên phải cẩn thận dẫn thuyền đi. Chúng tôi vừa chèo thuyền vừa nói chuyện, hồi tưởng lại phong cảnh đã qua cho đến khi lên được tàu và thấy những người bạn đã tỏ ra lo âu về sự vắng mặt quá lâu của chúng tôi mà sau này mới biết rằng họ băn khoăn cũng có lý do của nó. Bây giờ đã đến gần nửa đêm nhưng chiếc tàu con (cutter) vẫn chưa thấy tăm hơi đâu cả. Ông Jackson, kỹ sư trưởng tàu Lion đã lên chiếc tàu này lúc sáng sớm, dự tính sẽ quan sát thêm về thuỷ triều và độ sâu của sông Hội An (Faifo) và từ đó đến giờ không nghe tin tức gì cả. Xem chừng như Jackson hiểu sai về lệnh giao cho ông ta nên đã đi nhầm nhánh sông khiến cho thổ dân nghi ngờ và bị bắt đưa về một làng gần đó. Về việc này ngày hôm sau (mồng 8 tháng 6) chúng tôi cũng nhận được tin tức về vụ rắc rối nên vội vàng viết thư cho viên trấn thủ để xác định chiếc thuyền và thuỷ thủ trên đó là của chúng tôi. Chúng tôi nhận được một lá thư trả lời rất lễ độ bảo đảm rằng sẽ cho điều tra ngay lập tức và công việc sẽ tiến hành một cách thân thiện.
Thực ra ông Jackson và đoàn tuỳ tùng đã bị bắt giữ và tống giam theo lệnh của viên trấn thủ nhưng theo thủ tục và luật lệ của nước này, ông ta không dám trao trả chúng tôi nếu chưa biết chắc rằng triều đình bằng lòng và vì thế chối phăng là không hề biết gì cả.
Thứ Hai, mồng 10 tháng 6.
Ngày hôm nay chúng tôi nhận được một lá thư từ quốc vương xứ Ðàng Trong hiện đang đóng đô tại một nơi cách đây chừng 30 dặm, kèm theo những món quà hậu hĩ bao gồm hai chiếc ngà voi, một thùng hồ tiêu lớn, vài ngàn thạch gạo xem ra vượt xa nhu cầu của chúng tôi. Tôi ra lệnh để riêng những thứ đó ra và sau đó bán lại ở Macao để gây quĩ cho công ty Ðông Ấn.
Thứ Ba, 11 tháng 6.
Viên trấn thủ gửi một lá thư chiều hôm nay cho biết là các tù nhân sẽ được thả và giao lại cho chúng tôi trong ba ngày.
Thứ Tư, 12 tháng 6.
Chiếc tàu và ông Jackson cùng thuỷ thủ đoàn được trao về cho chúng tôi. (Theo cước chú trong sách trích từ “Tường thuật về phái đoàn sang Trung Hoa” của Aeneas Anderson thì “ Vào lúc 4 giờ chiều, ông Jackson cùng chiếc tàu và thuỷ thủ được phóng thích và trong suốt thời gian đó họ chịu đựng rất nhiều khổ nạn về cả thể xác lẫn tinh thần, và nếu họ không phải là người trong phái bộ Anh thì chắc chắn không thoát khỏi tử hình. Việc này không phải chỉ là việc không vui duy nhất xảy ra cho chúng tôi. Chúng tôi cũng mất một nhân vật đáng kính, ông Tothill, thủ quĩ tàu Lion, chết hôm 12 sau mấy ngày ốm nặng và được chôn trên bờ với đủ lễ nghi cung cách.”)
Thứ Năm, 13 tháng 6.
Tôi hồi âm lá thư của quốc vương nước Nam và gửi biếu ông ta một số quà để đáp lại những vật dụng hậu hĩ mà ông ta tặng chúng tôi. Trong thư tôi cũng hứa là trên đường trở về sẽ ghé thăm nhà vua và hi vọng tình hữu nghị khởi đầu giữa hai bên thêm đẹp đẽ.
Thứ Sáu, 14 tháng 6.
Suốt cả ngày chúng tôi bận rộn việc lấy thêm nước, thực phẩm và chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới.
Thứ Bảy, 15 tháng 6.
Ngày này chúng tôi giương buồm từ vịnh Touron đi Trung Hoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barrow, John. A Voyage to Cochinchina. Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975 (in lại theo lối chụp ảnh từ nguyên bản A Voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793, John Barrow, Esq. F.R.S. London, 1806)
2. Barrow, John. Some Account of The Public Life, and a Selection from the Unpublished Writings of the Earl of Macartney (Vol II) London: 1807
3. Chaophraya Thiphakorawong. The Dynastic Chronicles Bangkok Era The First Reign (dịch và hiệu đính bởi Thadeus và Chandin Flood) Vol. One: Text. Tokyo: The Centre for East Asian Cultural Studies, 1978
4. Diệp Ðốc Nghĩa (叶笃义) (dịch). Anh Sứ Yết Kiến Càn Long Kỷ Thực (英使谒见乾隆 紀实) (bản Hán dịch của An Authentic Account Of An Embassy From The King Of Great Britain To The Emperor Of China) (Thượng Hải: Thượng Hải thư điếm, 1997)
5. Kerr, Robert. A General History and Collection of Voyages and Travels, arranged in systematic order: Forming a complete history of the origin and progress of navigation, discovery, and commerce, by sea and land, from the earliest ages to the present time. Vol. XVII. London: Edinburgh, 1816
6. Lamb, Alastair. The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest. London: Chatto & Windus, 1970.
7. Launay, Adrien. Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823: Documents Historiques III 1771-1823. Paris: Anciennes Maisons Charles Douniol et Retaux, 1925
8. Mai Quốc Liên (chủ biên) Ngô Thì Nhậm tác phẩm I. Hà Nội: Văn Học, 2001
9. Mantienne, Frédéric. “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyễn” Journal of Southeast Asian Studies, Cambridge University Press, Vol 34, No. 3, October, 2003
10. Mantienne, Frédéric. Les relations politiques et commerciales entre la France et la pénisule Indochinoise (XVIIIe siècle) Paris: les Indes savantes, 2003
11. Maybon, Charles B. La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr. De La Bissachère. Paris: Librairie Ancienne Honoré Champion, 1919
12. Nhiều tác giả. Tây Sơn Nguyễn Huệ. Nghĩa Bình: Ty Văn Hoá & Thông Tin, 1978
13. Norman, C. B. Tonkin or France in the Far East. London: Chapman & Hall. Lt., 1884
14. O’Brian, Patrick. Men-Of-War, Life in Nelson’s Navy. New York: W.W. Norton & Company, 1995
15. Peyrefitte, Alain. The Collision of two Civilisations: The British Expedition to China 1792-4. London: Harvill, 1992 (bản dịch tiếng Anh của Jon Rothschild từ nguyên tác L’Empire Immobile ou Le Choc des Mondes, Librairie Arthème Fayard, 1989)
16. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Ðại Nam Thực Lục, tập Một (bản dịch Nguyễn Ngọc Tỉnh) Hà Nội: nxb Giáo Dục, 2001
17. Robbins, Helen H. Our First Ambassador to China: An Account of the life of George, Earl of Macartney with Extracts from his Letters, and the Narrative of his Experiences in China, as told by himself 1737-1806. New York: E. P. Dutton and Company, 1908
18. Singer, Aubrey. The Lion & The Dragon: The Story of the first Bristish Embassy to the Court of the Emperor Qianlong in Peking 1792-94. London: Barrie & Jenkins,1992
19. Spence, Jonathan D. The Search for Modern China. New York: W.W. Norton & Company, 1990
20. Staunton, George. An Authentic Account of an Embassy from the King of Great Britain to the Emperor of China, Vol. I, Part II. London: Elibron Classics, 2005 (chụp lại nguyên bản theo tác phẩm cùng tên, Vol I, London: Bulmer and Co., 1797)
21. Viện Nghiên Cứu Hán Nôm. Tạp chí Hán Nôm số 3. Hà Nội, 1995
22. Wenk, Klaus. The Restoration of Thailand Under Rama I 1782-1809 (nguyên tác tiếng Ðức, bản dịch ra tiếng Anh của Greeley Stahl) Tuscon: The University of Arizona Press, 1968
[1] Alain Peyrefitte, The Collision of two Civilisations: The British Expedition to China 1792-4 (London: Harvill, 1992) tr. 5
[2] It was not, therefore, in the least surprizing that our ships should have created an alarm and a degree of distrust which, I have observed, our Portugueze friend Manuel Duomé had endeavoured to improve to his own advantage, in order that he might not be interrupted in the exclusive and lucrative trade which he had for some time been carrying on with the natives … John Barrow, A Voyage to Cochinchina (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975) tr. 270 (Thành thử cũng không lấy gì làm ngạc nhiên – như tôi nhận thấy – khi những chiếc tàu của chúng ta đã khiến cho người bạn Bồ Ðào Nha Manuel Duomé phải cảnh giác và nghi ngại nên đã phải cố gắng làm tăng gia uy tín, cốt để không bị gián đoạn việc buôn bán có lợi và độc quyền với dân địa phương của y …)
[3] … the object of the Macartney mission was to prepare a raid against Macao as much as to open China to trade. Alain Peyrefitte, sđd. tr xxiii
[4] Xem thêm William Alexander và hoạ phẩm về Ðàng Trong của Nguyễn Duy Chính.
[5] … The situation of Cochin China is excellently well adapted to commmerce. Its vicinity to China, Tonquin, Japan, Cambodia, Siam, the Malay Coast, the Philippines, Borneo, the Moluccas &c., renders the intercourse with all these countries short and easy. The commodious harbours found on the coast, particularly that of Turon, afford a safe retreat for ships of any burthen during the most tempestuous seasons of the year. Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest (London: Chatto & Windus, 1970) tr. 134
[6] … Our trade to China has ever been burdened with enormous imposts and exactions. These under various pretences are annually increasing, and in process of time may become insurportable. It is an opinion latterly grown current that the Chinese are desirous of totally excluding all Europeans from their country. Alastair Lamb, sđd. tr. 135
[7] … But what inspires the most flattering hopes from an establishment in this country is its rich gold mines celebrated for ages as producing the richest ore, so pure that the simple action of fire is said to be sufficient to refine it. I omitted no opportunity of making enquiries respecting this valuable article and was informed that mines were formed in different parts of the northern provinces, particularly in Hue, where the ore lay so near the surface of the earth that is was dug up with little labour, under the direction of a skilful metallurgist. What might not be expected from such a source! Alastair Lamb, sđd. tr. 136
[8] nói về chính sách của nhà Tây Sơn và họ Trịnh
[9] … To restore their lawful sovereign to the throne would be now a measure so popular, that the sincerity of their offers cannot be doubted. To relieve an unhappy people groaning under the weight of the most cruel oppression would be an act worthy of the humanity of the British nation. Alastair Lamb, sđd. tr. 136
[10] Alastair Lamb, sđd. tr. 136
[11] Chapman gặp vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc tại kinh đô Qui Nhơn, sau đó lại ra Ðà Nẵng và Huế và sau cùng ra cả Ðàng Ngoài (khi đó còn dưới quyền chúa Trịnh). Tình hình khi đó rất bi đát, nạn đói ở nhiều nơi nên những nhận xét của Chapman có phần đúng.
[12] Bá (Bách) Ða Lộc là phiên âm tiếng Hán tên Pierre Joseph George khi đó ông đang làm giám mục xứ Adran (Evêque d’Adran)
[13] Tháng giêng năm 1780, một chiếc tàu Anh tên là Resolution do thuyền trưởng Gore chỉ huy đã ghé Côn Lôn (Pulo Condore) và gặp một viên quan nhỏ cho coi một uỷ nhiệm thư bằng tiếng Pháp của giám mục Bá Ða Lộc nguyên văn như sau:
Pierre Joseph George, Evêque d’Adran, Vicaire Apost. de Cochin China, &c. &c.
Le petit Mandarin, porteur de cet écrit, est véritablement Envoyé de la cour à Pulo Condore, pour y attendre et recevoir tout vaisseau European qui auroit sa destination d’approcher ici. Le Capitaine, en consequence, pourroit se fier ou pour conduire le vaisseau au port, ou pour faire passer les nouvelles qu’ll pouroit croire nécessaire.
Pierre Joseph George, Evêque d’Adran.
A Sai-Gon, 10 d’Aout, 1779.
(Pierre Joseph George, giám mục xứ Adran, khâm mạng toà thánh tại Ðàng Trong, …
Viên quan nhỏ, người mang văn bản này, quả thực là sứ giả của triều đình tại đảo Côn Lôn, chờ để đón tất cả các tàu Âu châu có ý định đến Ðàng Trong. Vì vậy quí thuyền trưởng hãy tin cẩn để y đưa đường cho tàu vào bến, hay cung cấp cho y những tin tức cần thiết.
Làm tại Sai Gon ngày 10 tháng 8, năm 1779.
Pierre Joseph George, giám mục xứ Adran)
Robert Kerr, A General History and Collection of Voyages and Travels, Vol. XVII (London: Edinburgh, 1816) tr. 275-6
[14] Nguyên văn:
The balance of political power in India appears at the present moment to be largely in favour of the English, and one may be justified in looking upon it as a matter of no little difficulty to restore the equilibrium. In my opinion the establishment of a French colony in Cochin-China will be the surest and most efficacious means to the end. In fact, if the productions of the country and the situation of its ports are taken into consideration, it will easily be seen that the greatest advantages, both in peace and in war will be derived from its occupation.
– First Advantage. The most certain way of damaging the English in India is to ruin or at any rate to weaken her commerce. In time of peace, being situated nearer to China, we should undoubtedly absorb much of her trade; the voyage being shorter and the expense of transit cheaper than to India, Chinese merchants would naturally prefer the French ports in Cochin-China to the more distant ones of Calcutta and Madras.
– Second Advantage. In time of war it would be still more easy to stop all commerce between China and any hostile nations; the situation of our harbours would enable us to forbid the entry or departure of any vessel from Chinese ports.
Third Advantage. The harbours of Cochin-China afford excellent refuges in which our merchant sessels could refit, and the forests would permit us to construct new ships on the spot.
– Fourth Advantage. In Cochin-China we should phind all necessaries of life for the revictualling of our squadrons in the extrem East, and for the supply of our distant colonies.
– Fifth Advantage. From such a coign of vantage it would be easy to interfere with the designs which the English evidently have of extending their frontier more to the East.
Other advantages also present themselves, more important in the future though perhaps not so pressing in the present, and these are the immense benefits to be derived from the natural wealth of the country, and from establishing a commercial highway into Central China, which shall open to us the riches of that unknown country.
C. B. Norman, Tonkin or France in the Far East (London: Chapman & Hall. Lt., 1884) tr. 43-4
[15] …They were no less than to subdue the Kingdom of Cambodia with the whole peninsula as far as Siam, and the Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the Tonquinese. To effect these (and indeed it would be requisite) he wished much for the assisstance of some English vessels, in recompense for which he would make them such grants of land for settlement as they might think proper. Alastair Lamb, sđd. tr. 100
[16] …rectify the situation in a direction they believed was consonant with the new dignity of Britain as a world power. Jonathan D. Spence, The Search for Modern China (New York: W.W. Norton & Company, 1990) tr. 122
[17] Luật nhà Thanh chỉ cho phép người ngoại quốc sống tại Quảng Châu (Canton) từ mùa thu đến Tết Nguyên Ðán, sau đó phải đi sang Macao và trở lại khi gió mùa. Việc di chuyển thường xuyên đó càng lúc càng phiền toái và tốn kém.
[18] Alain Peyrefitte, sđd. tr. 10
[19] … Macartney was also accredited to approach other sovereigns of the Far East: the emperors of Japan and Annam and the kings of Korea, Manila, and the Moluccas. He was authorized to visit any country that might help in his principal mission: to open China to British trade. England was already a global power, and London had no intention of putting all its eggs in a single Continental basket. The British state took the long view, and it was now investing in its future. Alain Peyrefitte, sđd. tr. 4
[20] Patrick O’Brian, Men-Of-War, Life in Nelson’s Navy (New York: W.W. Norton & Company, 1995) tr. 13-5
[21] Alastair Lamb, sđd. tr. 150
[22] George Staunton, An Authentic Account of an Embassy from the King of Great Britain to the Emperor of China, Vol. I, Part II (Elibron Classics, 2005) tr. 330 (chụp lại nguyên bản theo tác phẩm cùng tên, Vol I, London: Bulmer and Co., 1797)
[23] Sđd. tr. 330. Trước đây khi tiếp xúc với người Ðàng Trong, phái đoàn Anh phải nhờ hai linh mục người Trung Hoa bút đàm.
[24] The letter from the young King was filled with expressions of the high regard he entertained for the British nation, as a proof of which, it was observed, he had sent one of his officers of state with a small present, as he termed it, for the use of the ships’companies. It consisted of ten young buffalos, fifty hogs, and about three hundred ducks and fowls, with fruit, pumpkins, brinjalls, onions, and other vegetables. John, Barrow, sđd. tr. 290
[25] chúng tôi đoán là Cảnh Thịnh nguyên [niên], tứ nguyệt, nhị thập nhật (ngày 20 tháng 4 năm Cảnh Thịnh nguyên niên)
[26] Vương thân vì Macartney là em họ (cousin) của vua nước Anh
[27] hai bản dịch tờ chiếu là của tác giả Trần Nghĩa, Viện Hán Nôm Hà Nội.
[29] Bức thư này trong sách The Lion & The Dragon: The Story of the First Bristish Embassy to the Court of the Emperor Qianlong in Peking 1792-1794, tác giả Aubrey Singer (London: Barrie & Jenkins, 1992) phụ trang giữa 48-9 đã nhầm lẫn ghi rằng của vua Càn Long gửi phái bộ Macartney khi neo tàu ở Sơn Đông ngày 20 tháng 7, 1793 (July 20th, 1793).
[30] Nguồn như trên
[31] Theo lời tường thuật của John Barrow thì Macartney đã chọn ngày 4 tháng 6 là ngày sinh nhật của vua Anh để viên trấn thủ Quảng Nam tổ chức đón tiếp phái đoàn lên đất liền lần đầu tiên nhưng rất có thể mỗi bên hiểu ngày hội này theo một ý nghĩa khác
[32] Whether through accident, or in consequence of former suspicions, or to give eclat to the entertainment, did not appear, but on the evening preceding we observed an unusual bustle about the place, an increased number of troops in and about the town, besides several huge elephants of war. We therefore, on our part, took the precaution of sending the two armed brigs up the river opposite to the town, to make a retreat, if necessary, the more secure. John Barrow, sđd. tr. 293
[33] Overtures were made for the purchase of arms and ammunition; and it was easy to perceive that any assisstance given to the cause of the prince, then reigning at Turon, as well as at the capital and northern parts of the kingdom, would have been willingly purchased on any terms. George Staunton, sđd. tr. 331
[34] The state of rebellion on civil warfare in Cochinchina had begun upwards of twenty years before, in the course of which so very many of the combatants were slain, the country was so exhausted, and the surviving parties so balanced, that, at this time, no considerable enterprize was undertaken by any of them; tho each was busy in preparing new plans for the support of himself and the overthrow of his enemies. In the meantime the people began, in some degree, to breathe; but had the kingdom even more settled, the Embassador did not think it would have been proper to enter into any sort of negotiation, or even to present the credential letters, with which he had been entrusted for that kingdom, before he had delivered, in the first instance, those he had in charge for the Emperor of China. George Staunton, sđd. 332
[35] Xem thêm “William Alexander và hoạ phẩm Xứ Ðàng Trong” của Nguyễn Duy Chính.
[36] The Cochin-chinese soldiery were generally armed, beside sabres, with pikes of vast length, ornamented with tassels of hair dyed red, which colour no subject, except in service, or by the order, of the sovereign, was allowed to use in dress or equipage. George Staunton, sđd. tr 345
[37] Vào thời kỳ này, các nước ở vùng Ðông Nam Á đã bắt đầu chuộng hàng dệt bằng bông vải của Anh sản xuất tại Bombay (Ấn Ðộ). Người Anh đã nhắm tới thị trường này để bán hàng thay thế tơ lụa mua từ Trung Hoa. Cũng nên thêm dân cư tại đây thường cởi trần nhưng nay đã bắt đầu mặc áo.
[38] At Hué-foo, the capital of the kingdom, about forty miles to the northward of Turon, thirty thousand men were reported to be kept in garrison, and regularly exercised with muskets and match-locks every day. George Staunton, sđd. tr 346
[39] George Staunton, sđd. tr. 333-7
[40] Thư của giáo sĩ Longer gửi các giám đốc hội Truyền Giáo Hải Ngoại. … Au mois de juillet de l’année dernière (1791), le tyran Quang-Trung a ordonné de lever sur nos chrétiens, depuis Phu-xuan (capitale de la Cochinchine septentrionale) jusqu’aux confins du Tonkin, la contribution de 10.000 livres pesant de cuivre (qui maintenant valent environ 23.400 livres de notre monnaie). Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823: Documents Historiques III 1771-1823 (Paris: Anciennes Maisons Charles Douniol et Retaux, 1925) tr. 239 (… Vào tháng bảy năm ngoái, bạo chúa Quang Trung đã ra lệnh cho giáo dân của chúng tôi, từ Phú Xuân (kinh đô của Ðàng Ngoài) đến giáp giới Bắc Hà, phải nạp 10,000 livres (đơn vị cân nặng khoảng 1/2 kg) đồng, trị giá hiện tại tương đương khoảng 23,400 bảng Pháp)
[41] Thư của giáo sĩ Girald gửi giáo sĩ Boiret. Adrien Launay, sđd. tr. 244-5
[42] Alastair Lamb, sđd. tr. 150-1
[43] This place affords a most excellent harbor, and there is a spot where a fort might be built and garrisoned at a small expence, sufficient to withstand any attempt against any force likely to be brought against it from any power of this part of the world. John Barrow, Some Account of The Public Life, and a Selection from the Unpublished Writings of the Earl of Macartney (Vol II), London: 1807 tr. 165
[44] Ðiều 3 của hiệp ước Versailles
[45] In fact, the peninsular promontory of Turon (or Hansan) is to Cochinchina what Gibraltar is to Spain; with the difference in favour of the former that, to its impregnability, it adds the very important advantage of a convenient port and harbour, securely sheltered from all winds and at all seasons of the year, possessing every requisite for a grand naval station, where ships can at all times refresh and refit, and where abundant rills of clear fresh water fertilize the numerous vallies (sic) which open upon the shores of the bay … John Barrow, sđd. tr. 335
[46] Một trong những lý do mà các nước tư bản Tây phương luôn luôn đòi hỏi khi giao thiệp với các quốc gia Ðông Á là phải giao cho họ một số nhượng địa hay tô giới vì tình hình chính trị tại khu vực không ổn định (ở nước ta và một số quốc gia lân cận), chính sách buôn bán bất nhất, thiếu luật lệ công minh và nhiều khi bị cướp đoạt tài hoá trắng trợn (Trung Hoa). Riêng tại Ðàng Trong, năm 1778 hai chiếc tàu buôn của Anh ghé Quảng Nam bị quan họ Trịnh tịch thu nẩy ra xung đột khiến cho họ có ý chiếm lĩnh một số khu vực để bảo vệ kiều dân và thương nhân. Chính sách đó nhiều quốc gia tiếp tục theo đuổi suốt thế kỷ XIX tại Trung Hoa và những quốc gia khác.






