A. Bài học lịch sử

            Đọc lịch sử và khảo sát nền văn hoá của dân tộc Việt, nếu lần qua mớ sự kiện rối rắm những chi tiết, ta có thể phăng ra một khuynh hướng chủ yếu như một sợi dây xuyên suốt tất cả: sự cố gắng tột cùng vượt qua mọi thử thách để tồn tại như một thực thể cá biệt, độc lập. Khuynh hướng này biểu lộ ở hai phương diện:

  • Võ trang chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, giữ vững chủ quyền độc lập cho quốc gia, chống lại các cuộc xâm lăng, đô hộ để bóc lột về kinh tế của ngoại bang.
  • Tranh đấu trong hoà bình để bảo tồn nếp sống văn hoá riêng của đoàn thể chủng tộc của mình, chống lại mưu đồ đồng hoá của kẻ dị chủng.

            Chính cuộc tranh đấu thứ hai này mới thật là cam go. Bời vì dầu có lúc phải đổ núi xương sông máu thì những cuộc nổi dậy, những cuộc kháng chiến củng chỉ bùng lên từng lúc hoặc kéo dài một vài chục năm là cùng. Rồi một là thất bại, ông cha ta phải tạm thời nằm im chịu khuất phục, hai là thắng lợi vẻ vang thì đứng thẳng dậy với niềm tự hào, rồi lại căm cụi tiếp tục xây dựng lại đất nước từ những đổ nát điêu tàn.

            Còn cuộc tranh đấu để bảo vệ văn hoá riêng của mình thì liên tục, thường xuyên, từ đời nọ qua đời kia, phức tạp ─ vì là mặt trận vô hình, không có chiến tuyến rõ rệt ─ và cũng không kém phần gay go.

            Trước hết, ông cha ta nhận thức được nhu cầu phải tiến bộ bằng người, vì nếu không sẽ bị người lấn át rồi dần dần đồng hoá, một hình thức bị tiêu diệt. Qua kinh nghiệm lịch sử, ông cha ta hẳn biết rằng mất lãnh thổ thì còn có lúc lấy lại được, chứ một khi đã bị đồng hoá, chủ yếu là về phương diện văn hoá, thì coi như bị tiêu diệt luôn. Có lẽ ông cha ta xưa kia không phát biểu định luật đào thải tự nhiên, nhưng rõ ràng là các Người đã phấn đấu liên tục để tránh bị đào thải.

            Cứ mỗi lần chiến bại trước kẻ thù, hẳn các thế hệ tiền nhân ta đã phải tự hỏi: tại sao mình thua? Mình kém kẻ địch cái gì? Rồi rút kinh nghiệm, học hỏi bù đáp chỗ thua kém đó để lần sau thành công. Nếu không như thế thì đã không còn đất nước Việt, không còn dân tộc Việt. Cho nên chúng tôi không đồng ý với một số người cho rằng thật sự thì dân tộc Việt chỉ giành được độc lập về chính trị, còn về văn hoá thì ta đã bị Tàu đồng hoá rồi (1).

            Bởi vì cuộc chiến đấu vũ trang chỉ là nhất thời, chỉ là phương cách, còn cái mục đích của bao thế hệ tiền nhân ta khi sẵn sàng trả giá máu xương là để tồn tại như nòi giống Việt mà các cụ luôn luôn nhắc tới bằng các mĩ từ lịch sử như dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên v.v… và không lúc nào ông cha ta quên dạy con cháu rằng “chim có tổ, người có tông”, “cây có gốc, nước có nguồn”, rằng Quốc Tổ ta là Hùng vương, ta phải  nhớ công ơn trời biển của tổ tiên ta đã dựng nên dải non sông gấm vóc này mà bảo vệ lấy cho muôn đời con cháu về sau.

            Đã đành phải học cái hay của người để bằng người, để khỏi bị người khinh khi, chà đạp, bắt làm nô lệ; nhưng biên giới giữa cái học để tự chủ với cái học để làm tay sai đắc lực, để theo đuôi rồi tự biến thành người cũng rất mong manh.

            Với hơn một ngàn năm nô lệ, dân tộc Việt ắt phải thấy rõ dã tâm của kẻ thù, đã bao lần vùng dậy và bị quật ngã, nên cũng thấy rõ con đường phải đi là vừa học người, vừa un đúc tinh thần tự chủ, nhằm mục tiêu giành độc lập dân tộc, bảo toàn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Cái tinh thần hiếu học, cầu tiến rất cao của người Việt chính là do cái gốc rễ lịch sử rất sâu xa: đó là cái nhu cầu học cho giỏi để khỏi bị người đè đầu đè cổ.

            Lịch sử đã cho thấy dân tộc ta bao phen giành lại và bảo vệ được nền độc lập bằng tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất, đồng thời cũng giữ được đặc tính văn hoá riêng mà không bị những nền văn hoá cao hơn đồng hoá như thường thấy trong lịch sử thế giới. Thành quả thứ hai này bộc lộ một khả năng tinh thần đặc biệt của dân tộc Việt: đó là tiếp thu có chọn lọc, rồi dung hoà tổng hợp những cái hay của người với cái hay của mình, biến tất cả thành cái của riêng mình, sử dụng thuần thục và từ đó vươn lên bằng người.

            Vậy hoàn cảnh lịch sử đã hun đúc cho dân tộc Việt cái chí tiến thủ mà chúng tôi muốn tạm hiểu là cố gắng tiến kịp người và giữ (thủ) những cái hay để giúp ích cho cuộc sống của mình. Nay ta thử tổng kết xem ta đã học và giữ được những điều gì hay qua chặng đường lịch sử giao tiếp với hai trong số những nền văn hoá cổ xưa và rực rỡ nhất của nhân loại nói chung và của Á Đông nói riêng, đó là nền văn hoá Ấn Độ và nền văn hoá Trung Hoa để từ đó tạo nên những đặc sắc của tinh thần văn hoá Việt.

B. Đặc điểm của tinh thần văn hoá Việt

  1. Về phương diện sinh hoạt xã hội

            Nổi bật nhất là tinh thần gia tộc. Tinh thần này đã chi phối mọi chế độ, tập tục xã hội, chủ yếu là tinh thần tôn trọng trật tự tôn ti, trưởng ấu trong gia tộc.

            Thật vậy, theo tinh thần này thì quốc gia cũng chỉ là gia tộc lớn nhất trong đó huyết thống (chủng tộc) là khởi nguyên và cũng là yếu tố quan trọng trong sự cầu thành quốc gia ở buổi đầu (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc). Mối liên hệ chính quyền – dân chúng trong quốc gia quân chủ thời xưa được coi như mối liên hệ cha – con: vua quan thương dân, chăm sóc dân như con đỏ, dân tôn kính tuân phục vua quan như cha mẹ.

            Ở các tập thể nhỏ hơn quốc gia như quân đội, người ta cũng quan niệm mối liên hệ tướng – quân là “phụ tử chi binh”, nơi làng xóm gồm nhiều họ hợp lại cũng theo trật tự tôn ti như trong gia tộc: bậc bô lão trưởng thượng nắm quyền lãnh đạo, được con em kính trọng, vâng lời; nơi trường học thì thầy cô (cô: vợ thầy) là cha mẹ, học trò là con cái về phương diện tinh thần, bạn học cùng thầy là bạn đồng môn, cũng theo trật tự trong gia đình: người lớn tuổi học lớp trước là anh, người nhỏ tuổi học lớp sau là em; tổ chức phường hội gồm nhiều gia đình cùng làm một nghề, cùng thờ một vị tổ sư thì trật tự tôn ti cũng vẫn là sư đệ, trưởng ấu như trong gia tộc.

            Ta cứ nghe cách xưng hô trong tiếng Việt cũng đủ thấy tinh thần gia tộc chi phối cách giao thiệp cư xử trong toàn xã hội: cụ, ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh, chị, em, con, cháu v.v…

a) Hệ quả thứ nhất của tinh thần gia tộc

Người ta trọng cách xử sự dựa trên tình cảm mà không ưa sự quá thiên về lí trí, cân nhắc tính toán đến “cạn tàu ráo máng”. Ngoài gia tộc cũng là tình đồng bào (người cùng một nước) với cái nghĩa xuất xứ từ truyền thuyết cái bọc một trăm trứng do bà Âu Cơ sinh ra: anh em trong nhà phải thương yêu đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau mà không được đấu đá cầu xé lẫn nhau:

Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. (ca dao)

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng. (ca dao)

            Trong việc xử trí những tranh chấp, sai trái từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội thời xưa, vai trò của luật pháp, sản phẩm của lí trí, kém quan trọng so với vai trò của phong tục, sản phẩm của tình cảm. Quan thòi xưa (hành chánh kiêm tư pháp) xử án theo lối:

Đã đem đến trước cửa công,
Ngoài thì là lí, song trong là tình. (Truyện Kiều)

là việc bình thường. Yếu tố tình cảm trong quan hệ gia đình của dân tộc Việt sâu đậm hơn ở Hán tộc, nên chế độ phụ quyền, phu quyền, nói chung là chế độ tôn nam quyền ở Việt Nam không khắt khe như ở Trung Hoa.

b) Hệ quả thứ hai của tinh thần gia tộc mở rộng

Bốn biển coi nhau như anh em một nhà (tứ hải giai huynh đệ) tức là tinh thần xã hội của nho gia, là tinh thần trọng nghĩa. Một việc nghĩa là một việc làm đúng theo lẽ phải, nên, đáng, và cần làm. Việc nghĩa tuy do lí trí nhận thức, nhưng phải có tình cảm làm động cơ thúc đẩy mạnh mẽ mới thực hiện được. Ở đây ý chí cũng cần, nhưng chỉ là phụ lực cho tình cảm để hành động vượt qua khó khăn nguy hiểm.

            Người nào đã có tinh thần trọng nghĩa, ắt phải khinh tài (tài: tiền của). Một kẻ thấy việc phải, nên và cần làm mà không chịu làm vì sợ thiệt thòi, không dám làm vì sợ nguy hiểm là kẻ bất nghĩa, hèn nhát (kiến nghĩa bất vi vô dũng dã). Như thấy người ta gặp nguy khốn, mình có thể cứu được mà không cứu, tệ hơn nữa nếu người gặp hoạn nạn lại có mối liên hệ tình nghĩa với mình như thầy trò, bạn bè, chủ tớ v.v… mà quay mặt đi thì thật là đáng khinh bỉ.

            Thời xưa, trong những giai đoạn xã hội rối ren loạn lạc, cảnh mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé thường xẩy ra thì người ta đề cao một hạng người có tài năng và nghĩa khí hay ra tay cứu người hoạn nạn, giúp kẻ cô thế chống lại kẻ hung bạo áp bức (hành hiệp). Đó là bậc anh hùng nghĩa hiệp (nghĩa sĩ, hiệp sĩ) như lời Từ Hải trong Truyện Kiều:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường thấy việc bất bằng mà tha!

             Cao hơn nữa là làm việc đại nghĩa như người anh hùng dựng cờ khởi nghĩa để cứu dân cứu nước ra khỏi cảnh lầm than dưới bạo quyền hay dưới ách nô lệ ngoại bang:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

hành động cao cả như vậy phải đặt trên cái nền tình cảm rộng lớn là tình yêu bao la đối vói đồng bào, đồng loại:

Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
(Bình Ngô đại cáo)

c) Tinh thần gia tộc ảnh hưởng cả sang lãnh vực tín ngưỡng

Như tin tưởng phúc ấm gia đình và quả báo thế hệ thật ra không đúng hoàn toàn với thuyết nhân quả và nghiệp báo của nhà Phật (2), nhưng do đời sống nông nghiệp và tình cảm gia đình, người ta mong và tin rằng nếu cha mẹ làm điều phúc đức mà không kịp hưởng thì con cái sẽ được hưởng, cũng như cha mẹ trồng cây trong vườn mà không kịp ăn trái thì con cái thừa kế gia tài sẽ được ăn. Ngược lại, cha mẹ làm điều ác mà chưa kịp chịu quả báo trừng phạt thì con cái sẽ phải chịu thay, cũng như cha mẹ chưa kịp trả nợ thì con cái phải trả thế vậy.

            Một số người nhận xét rằng người Việt chúng ta thiếu tinh thần xã hội, ít chịu làm những việc công ích mà chỉ chăm chăm thu vén cho gia đình con cái, vì chúng ta không có quan niệm lí tưởng như làm một hành vi đạo đức chỉ vì đạo đức, chứ không cầu lợi lộc xa gần, dù là cho bản thân hay gia đình, tương tự như quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” vậy (3).

            Nếu đã coi tất cả mọi người trong nước cùng có nguồn gốc từ một bọc trứng của một bà mẹ sinh ra thì tất cả đều là anh em một nhà. Đó chính là tinh thần xã hội khoác áo gia đình rồi vậy. Trong “Việt Nam Văn Hoá Sử Cương”, học giả Đào Duy Anh phàn nàn là tinh thần gia tộc mạnh thì tinh thần quốc gia xã hội bạc nhược. Chúng tôi không đồng ý với ông Đào về điểm này, vì như thịnh thời của các triều Lí, Trần, tinh thần gia tộc vẫn mạnh mà tinh thần quốc gia có yếu đâu? Chẳng qua vận nước đã đến hồi suy thì mọi mặt đều suy; còn gia đình là đoàn thể thiết thân nhất của con người, là chỗ ẩn náu đầu tiên và cũng là cuối cùng để người ta có được chút hơi ấm hạnh phúc, nếu mất là mất hết, cho nên hạnh phúc gia đình mà tan vỡ thì một người bình thường cũng có thể tự tử. Chỉ những người có chí lớn khi cần làm việc đại nghĩa, thí dụ làm cách mạng để cứu dân cứu nước, mới có gan hi sinh hạnh phúc của cá nhân và gia đình.

            Giữa cá nhân, gia đình và quốc gia xã hội có một mối tương quan mật thiết như giữa đơn vị, bộ phận với toàn thể, không thể một đàng mạnh một đàng yếu mà yên ổn được; và ở đây sự quân bình cũng luôn luôn cần thiết. Trong xã hội xưa, cá nhân quả có bị chìm ngập trong gia đình nhỏ, gia đình lớn (gia tộc, làng xóm, quốc gia), nhưng đạo lí mà đủ mạnh để giữ vững nhân tâm thì vẫn có thể sản sinh ra nhưng anh hùng liệt nữ dẫn dắt đoàn thể vượt qua nghịch cảnh, còn khi nhân tâm bại hoại, đạo lí suy đồi, kỉ cương gia đình rối nát thì tinh thần quốc gia xã hội cũng khó giữ cho khỏi bạc nhược được (4).

2. Về quan niệm sống ở đời

            Dân tộc Việt do cá tính, do hoàn cảnh lịch sử, luôn luôn theo chủ trương “trung dung”, chế hoá bớt những cái “thái” (quá), tránh những cái “cực” để tránh sự nghiêng lệch, mất cân bằng đưa đến đổ vỡ. Chủ trương này biểu lộ ở các khuynh hướng sau đây:

a) Trọng thực tế

Ở người bình dân (trung lưu trở xuống, chiếm đại đa số) là chuộng những giá trị dễ đạt tới, có thể đem lại lợi ích trông thấy được, mà không thích những điều viển vông mơ hồ. Đó là thái độ của thằng Bờm trong bài ca dao “Thằng Bờm có cái quạt mo”, là phản ứng chống lại tinh thần trọng sĩ quá đáng: “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”:

Nhất sĩ, nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ!

            Tiến lên lãnh vực đạo lí cao xa, người dân Việt cũng chuộng những quan niệm thực tiễn là làm lành để phúc đức cho con cháu, là chủ trương thà rằng “ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối”, là cần tu tại gia trước vì tu tại gia khó hơn và đem lại hạnh phúc ngay cho những người thân thiết trong gia đình, sau đó tu để sống lương thiện và hoà mục với tất cả mọi người trong xã hội (tu chợ), cuối cùng mới tu cho riêng mình để giải thoát (tu chùa).

            Hệ quả của tinh thần này là tính chuộng sự giản dị, chất phác, thuần hậu, không thích bày vẽ hình thức, phiền toái, rườm rà. Đặc tính này thấy rõ trong nếp sinh hoạt hàng ngày của đại chúng, cả trong nếp sống vật chất “ăn chắc mặc bền”, “chém to kho mặn” lẫn trong cách cư xử mộc mạc, chân thành, không kiểu cách: “yêu nhau bốc bải giần sàng”.

            Đối với tầng lớp trên thì Nho giáo với chủ trương nhập thế hành đạo tức ngày nay là tinh thần trách nhiệm xã hội đáp ứng nhu cầu của đời sống chung từ gia đình đến quốc gia xã hội: tu, tề, trị, bình; phải có tổ chức trật tự và việc điều hành phải giao cho người có đủ tài, đức thuộc giới nho sĩ. Nhưng dân tộc Việt cũng không chấp nhận những chủ trương thiên lệch, độc đoán như tôn nam quyền quá đáng coi rẻ phụ nữ, xem họ như vị thành niên suốt đời (tam tòng), chủ trương áp chế tình cảm cá nhân. Người bình dân thì chống lại bằng nếp sống tình cảm ─ đặc biệt trong tình yêu nam nữ ─ tự do cởi mở. Chính giới nho sĩ cũng phải châm chế bớt tính cách khô khan gò bó của luân lí Nho giáo bằng khuynh hướng sống phóng khoáng, ảnh hưởng của Lão Trang.

            Còn giới bình dân thì chẳng cần biết đến Lão, Trang, họ cũng đã sống hồn nhiên mộc mạc, cũng biết yêu thiên nhiên qua cánh đồng thẳng cánh cò bay, qua

Làng ta phong cảnh hữu tình,
Dân cư giang khúc như hình con long. (ca dao)

            Dĩ nhiên ở giới nho sĩ học thức thì sự thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên có tính nghệ thuật nhiều hơn: làn khói sương lan toả trên mặt sông, mảnh trăng trong treo lơ lửng trên đầu núi, ánh ráng chiều lờ lững ở chân mây… pha thêm chút hương vị triết lí ngày tháng thoảng qua như giấc mộng hỗ trợ cho chủ trương ưu du hưởng lạc, giũ bỏ những ràng buộc của lợi danh để buông thả cho tình cảm được tự do.

b) Chủ trương trung dung, chấp nhận tính tương đối

            Người bình dân Việt xưa luôn luôn tỏ ra biết điều, không với quá cao, không nuôi những tham vọng vượt quá khả năng của mình để tránh thất bại ê chề “trèo cao thì ngã đau”. Họ chủ trương an phận thủ thường, bằng lòng với cái mình hiện có:

Trông lên thì chẳng bằng ai,
 Trông xuống cũng chẳng thấy ai bằng mình. (tục ngữ)

            Đây cũng là hệ quả của tính trọng thực tế của đại chúng Việt. Chẳng thế mà họ luôn luôn nhìn thấy hai mặt của một vấn đề và giới hạn của mỗi giá trị ở đời này: một chú voi khổng lồ có thể phải co giò chạy trốn trước một đàn kiến đông kín dầy đặc, một đấng anh hào hiên ngang vượt qua rừng guơm dáo nhưng lại không lọt qua được “cửa ải mĩ nhân”, hoặc như nữ sĩ Hồ Xuân Hương miêu tả:

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này!
(Vịnh cái quạt)

Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
(Vịnh đèo Ba Dội)

            Ở tầng lớp nho sĩ học thức, đó là nhận thức về luật bù trừ, một hình thức của luật tương đối thể hiện trong việc đời, người đời lập căn trên triết lí Kinh Dịch với hai yếu tố Âm, Dương vừa đối nghịch nhau, vừa điều hoà với nhau để có sự cân bằng cần thiết cho cuộc sống cá nhân (cần thiết cho sức khoẻ thế chất vì bệnh tật là mất căn bằng giữa âm và dương trong cơ thể, và cần thiết cho sức khoẻ tinh thần vì điên loạn là mất cân bằng về tâm lí), cũng như cho cuộc sống xã hội (rối loạn là vì thiếu công bằng xã hội).

            Thật thế, quan sát việc đời người đời, ta có thể dễ dàng nhận thấy chẳng có gì hoàn toàn, tuyệt đối ở trên đời này cả: được cái nọ, mất cái kia (đắc hồ thử, thất hồ bỉ), cái này ít thì cái kia được bù thêm (bỉ sắc tư phong) (5); ngay ở một con người cũng thế: hơn người về tài sắc thì kém người về số mệnh (tài mệnh tương đố). Ứng dụng vào người đàn ông thì thành lệ đa tài đa luỵ, tài tử đa cùng (6), vào người đàn bà thì thành lệ hồng nhan bạc mệnh, hồng nhan đa truân. Trong cả ba kiệt tác của văn chương cổ điển Việt Nam, tin tưởng này đã thành chủ đề được chứng minh trong tác phẩm:

Thiên địa phong trần,
Hồng nhan đa truân
(Chinh Phụ Ngâm Khúc hán văn của Đặng Trần Côn).

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc bản dịch của Đoàn Thị Điểm).

Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong mà đào.
(Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều).

            Trong “Đoạn Trường Tân Thanh”, Nguyễn Du cũng diễn tả luật tương đối, luật bù trừ ở phần lung khởi để vào truyện chứng minh bằng quãng đời lưu lạc khổ đau của nhân vật chính là Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
 Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen!

            Chả là con người luôn luôn khao khát cái tuyệt đối, nhưng chẳng bao giờ được thấy cái gì toàn vẹn ở đòi này, nên đã trút nỗi oán trách vào “ông Trời”, biến ông thành một kẻ có tật đố kị: “Thiên địa ố toàn”, đặc biệt hay ghen ghét người đàn bà có nhan sắc (!?): “Tạo hoá đố hồng nhan”.

            Đứng trên quan điểm thời gian thì luật bù trừ này được phát biểu thành luật tuần hoàn: “chung nhi phục thuỷ” (quay hết một vòng lại trở lại điểm xuất phát) như ta có thể quan sát ở nhưng hiện tượng thiên nhiên: sáng – trưa – chiều – tối – đêm rồi lại trở lại bình minh, hết xuân sang hạ đến thu qua đông rồi lại trở về xuân. Ứng dụng vào đời người là luật thời vận “bĩ cực thái lai” như người ta hay nói để an ủi nhau và gây niềm hi vọng “hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai”; còn người bình dân thì nói nôm na “sông có khúc, người có lúc” ứng dụng cho cá nhân, hay “đất có tuần, dân có vận” ứng dụng cho tập thể (thí dụ vận nước thịnh suy).

            Chính niềm tin vào thời vận (vận hạn) (7) này đã giúp con người gặp cơn hoạn nạn thì cố gắng chịu đựng qua giai đoạn đen tối và phấn đấu tiến tới một tương lai tươi sáng. Hai câu thơ trong bài “Vịnh cảnh nghèo” của Nguyễn Công Trứ có thể tiêu biểu cho tin tưởng này:

Số khá bĩ rồi, thời lại thái,
Cơ thường đông hết, hẳn sang xuân.

3. Về đặc điểm tâm lí xã hội

a) Xã hội Việt Nam trọng văn thượng lễ, tâm hồn Việt lại đa cảm, yêu văn nghệ

Rải rác đây đó ta đã thấy tâm hồn Việt giàu tình cảm. Nếu sống gần họ lâu, người ta còn thấy rõ hơn là tâm hồn ấy dễ rung động, giàu cảm xúc, và điều này biểu lộ ở lòng yêu thích văn nghệ; nói cụ thể là lòng yêu thơ văn và tính thích giọng hò câu hát. Có thể là đời sống lam lũ vất vả nẩy sinh ra nhu cầu hò hát giải trí để quên mệt và tăng sức làm việc. Tiếng hò giọng hát (cùng với giọng ngâm lời ru) hay thì cũng cần lời hay, âm thanh vần điệu dồi dào thích hợp. Đây cũng là yếu tố căn bản của thơ, mà thể thơ lục bát tỏ ra thích hợp nhất với tâm hồn Việt thời xưa (8).

            Thật thế, lời thơ tiếng hát là vẻ đẹp tạo nên từ ngôn ngữ âm thanh, thứ có sẵn và dễ tạo ra nhất đối với đại chúng Việt. Họ vừa là nghệ sĩ sáng tác, vừa là quần chúng thưởng thức ngay trong khung cảnh lao động sinh hoạt hàng ngày, giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ: đồng ruộng bát ngát, gió mát trăng thanh… Đối cảnh sinh tình, điều này rất đúng với tâm hồn người dân Việt giàu tình cảm, dễ xúc động, rất yêu mến quê hương xứ sở. Cho nên không phải nói quá khi bảo rằng người Việt ai cũng thích thưởng thức thơ văn, và gần như ai cũng có thể làm thơ làm văn được (không nói tới trình độ ở đây).

            Khảo sát kho tàng văn chương dân gian truyền miệng, ta mới thấy dân tộc Việt giàu óc tưởng tượng nghệ thuật, yêu thích thưởng thức và sáng tác thơ văn như thế nào! Xưa kia mà ta có dịp quan sát quang cảnh làm việc ngoài đồng vào những vụ cấy cầy gặt hái, tham dự vào những dịp hội hè đình đám, nhất là vào dịp Tết đến xuân về thì có thể thấy người dân Việt thích giọng hò câu hát như thế nào, bởi vì tiếng Việt lúc nói bình thường cũng đã giàu nhạc tính rồi.

            Nhìn mặt nổi của xã hội Việt Nam, người ta có thể thấy tính trọng văn thượng lễ là do ảnh hưởng của Nho giáo. Đó là vào thời kì Nho học thịnh đạt, triều đình qui chế hoá chủ trương trọng văn trọng sĩ bằng chế độ học hành thi cử, tức là đào tạo, chọn lựa, sử dụng nhân tài hán học qua các khoa thi, ưu đãi những người thi đỗ, làm cho tinh thần trọng văn trọng sĩ dần dần mang tính vụ lợi (chẳng tham ruộng cả ao liền, chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ). Song nhìn kĩ chiều sâu thì phải thấy cái tình yêu văn chương nghệ thuật vô vị lợi của quần chúng mới thực sự góp phần làm cho đời sống nội tâm của dân tộc ta đa dạng phong phú.

b) Song song với tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, tâm hồn Việt lại cởi mở hướng ngoại, ưa sự dung hợp hơn là đối kháng, nhưng cũng hay mỉa mai châm biếm

            Về mặt tâm lí xử thế, dân tộc Việt biết mình thuộc hạng nhỏ yếu, hay bị anh láng giềng khổng lồ phương Bắc bắt nạt, nên khiêm tốn khéo léo đã trở thành cá tính. Cứ sau mỗi lần chiến thắng, đuổi được kẻ xâm lăng ra khỏi bờ cõi, ông cha ta không hề tỏ vẻ ngạo mạn, dương dương tự đắc, mà khiêm tốn cầu hoà: lại tiếp tục xưng thần triều cống đối với “thượng quốc”, tránh làm mất thể diện gây thù hận, chỉ cốt mình được thực sự độc lập tự chủ và sống trong hoà bình để tiết kiệm xương máu và sức lực dùng vào việc xây dựng đất nước là đủ (“Ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi”. (Bình Ngô đại cáo)).

            Hiếu hoà tuy trở thành cá tính, phương châm xử thế của người dân Việt: dĩ hoà vi quí, một sự nhịn là chín sự lành, tránh voi chẳng xấu mặt nào (tục ngữ), nhưng hãy coi chừng, khi bị dồn đến bước đường cùng, họ vẫn sẵn sàng vùng lên chiến đấu quyết liệt: chó cùng (cũng phải) cắn giậu, con giun xéo lắm (nó) cũng phải quằn (tục ngữ).

            Lịch sử cho thấy dân tộc Việt trải qua nhiều cuộc chiến tranh tự vệ, nạn ngoại xâm gần như thường trực đe doạ (Bắc xâm có thể coi như mối đe doạ truyền kiếp), đáng lẽ dân tộc Việt phải có tinh thần thượng võ cao, trong xã hội giới quân nhân phải được trọng vọng hơn giới văn sĩ mới phải. Đáng chú ý là điều trái ngược đã xẩy ra: xã hội Việt xưa kia lại trọng văn khinh võ:

Đoái xem văn võ cả hai đàng,
Bên văn sang, bên võ cũng sang.
Dù tía võng xanh, văn đủng đỉnh,
 Gươm vàng thẻ bạc, võ nghênh ngang.
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương.
Gặp hội thái bình, văn trước võ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương.
(Nguyễn Công Trứ -Vịnh văn võ).

mặc dầu khi tình thế cần đến, ta cũng không thiếu những vị tướng tài, những nhà quân sự giỏi và những chiến sĩ đầy lòng dũng cảm.

            Sự kiện trên lại mở cho thấy một đặc điểm nữa của tâm hồn Việt: đó là lòng sùng thượng những giá trị siêu việt và tinh thần truyền thông văn hoá. Thật vậy, tuy có tinh thần dân tộc mạnh mẽ và đôi lúc vì lí do tự vệ ta cũng có tinh thần bài ngoại, thí dụ như trong vấn đề hôn nhân (9), song dân tộc Việt không có tinh thần quốc gia cực đoan, óc bài ngoại hẹp hòi; trái lại tinh thần Việt là cởi mở, phóng khoáng, nhiều khi hướng ngoại nữa là khác. Ông cha ta sẵn sàng đón nhận và sùng kính những giá trị văn hoá ngoại lai. Cho nên một mặt ta chiến đấu quyết liệt chống quân xâm lăng Trung Hoa, nhưng mặt khác ta vẫn lập văn miếu ở kinh đô (văn chỉ ở các địa phương) để thờ đức Khổng tử, Tứ phối và Thất thập nhị hiền cùng các ông thầy lớn khác của đạo Nho như họ Trình, họ Chu để xuân thu nhị kì tế lễ.

            Sau thời kì bị ngoại nhân đô hộ kéo dài trong đó người dân Việt luôn luôn là kẻ bị áp bức, đến thời độc lập thì chế độ quân chủ chuyên chế lại vẫn đẩy quảng đại quần chúng vào cái thế bị trị lép vế và vào những thời kì chính trị suy đồi thì mối liên hệ chính quyền – dân chúng trở nên mâu thuẫn có khi đến độ gay gắt. Người dân lúc ấy chống lại cường quyền bằng thứ vũ khí của kẻ yếu: sự châm biếm. Cái tính hay mỉa mai châm biếm bằng lời nói xa xôi bóng gió có cỗi rễ từ hoàn cảnh sống kể trên. Cả một kho tàng văn chương trào lộng truyền miệng trong dân gian (vè, ca dao, tục ngữ, truyện cổ) là một bằng chứng sống động.

            Cũng chính vì là kẻ yếu mà nhà lại ở ngã tư đường nên dân tộc Việt bắt buộc phải mở cửa cho sự giao lưu tư tưởng và khi gặp mâu thuẫn thì tìm cách dung hoà, tránh tranh cãi. Trong lãnh vực tinh thần thì cái tính ôn nhu này có nhược điểm là không phát kiến được những tư tưởng độc sáng, vì loại tư tưởng này thường nẩy sinh trong tình huống tranh luận gay go, mâu thuẫn đến bế tắc.

            Nhìn chung thì cuộc sống của quảng đại quần chúng Việt nơi thôn dã là chật vật, phải làm việc vất vả lam lũ mới đủ ăn, chưa kể khi gặp thiên tai mất mùa, nên sinh hoạt vật chất đơn sơ giản dị. Còn ở tầng lớp cao hơn thì đạo lí Đông phương cũng dạy con người sống đạm bạc (tri túc, quả dục) để giữ tinh thần được minh mẫn thanh cao. Nhu cầu ít vì bị hạn chế thì đòi hỏi tìm tòi sáng chế để đáp ứng nhu cấu tất nhiên cũng ít. Việc nghiên cứu cả trong lãnh vực lí thuyết lẫn trong phạm vi thực hành ít được chú trọng cũng một phần do lòng sùng kính cổ nhân, chỉ bắt chước người xưa, bằng lòng với cái mình hiện có, khiến cho xã hội có vẻ trì thủ (10).

            Tóm lại, trải suốt chiều dài của lịch sử dân tộc Việt từ khởi thuỷ cho đến cận đại (tạm tính đến hết nửa đầu thế kỉ XIX, trước khi bị người Pháp xâm lăng đô hộ), văn hoá Việt đã đi qua những chặng đường chính như sau:

  • Thời nước Văn Lang và nước Âu Lạc: Cá tính và tinh thần dân tộc của các bộ lạc Việt kết tụ dần dần và hình thành trong khoảng hai nghìn năm xây dựng được nền văn hoá đồ đồng rực rỡ (các sử gia gọi là nền văn hoá Đông Sơn) với nền tảng kinh tế nông nghiệp (trồng lúa nước) khá phát triển. Các bộ lạc Việt càng gắn bó với nhau khi cùng nhau vượt qua thử thách gian lao như khắc phục trở ngại thiên nhiên (Ngư tinh tượng trưng cho trở ngại ngoài biển, Mộc tinh: trở ngại trên rừng, Hồ tinh: trở ngại dưới đồng bằng – “Lĩnh Nam Chích Quái”), chống ngoại xâm (giặc Ân, quân Tần). Nhờ đó mà sau này trải qua hơn mười thế kỉ bị người Tàu đô hộ và thi hành chính sách đồng hoá, dân tộc Việt vẫn bảo tồn được cá tính và sắc thái văn hoá riêng của mình.
  • Nhà Triệu và tiếp theo là thời kì Bắc thuộc: Kể từ khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc (11), dân tộc Việt đã tiếp xúc với nên văn hoá của Hán tộc (12). Rồi sau đó nhà Hán thôn tính toàn bộ nước Nam Việt và thực hiện dã tâm đồng hoá bộ phận cuối cùng của nhóm Bách Việt tức là tộc Lạc Việt ta (13). Lịch sử đã cho thấy là các triều đại đế chế Trung Hoa đã thất bại trong ý đồ này.

            Dẫu sao thì văn hoá Hán lúc ấy cũng cao hơn văn hoá Việt, chẳng hạn người Hán đã có hán tự hoàn chỉnh, còn người Việt chưa có chữ viết (?). Cho nên sau hơn mười thế kỉ Bắc thuộc, yếu tố văn hoá Hán đã in đậm nét vào văn hoá Việt, nhưng hiển nhiên là văn hoá Việt không bị văn hoá Hán đồng hoá, nuốt chửng; mà ngược lại có những yếu tố văn hoá Hán khi xâm nhập văn hoá Việt lại bị Việt hoá.

  • Trong suốt thời kì độc lập tự chủ: Từ nhà Ngô tới nhà Nguyễn, dân tộc Việt nhờ tinh thần cởi mở phong khoáng và với khả năng tiếp thu, chọn lọc, dung hoà đã hoàn tất công cuộc tổng hợp thành công nền văn hoá Việt Hán đủ dùng cho mọi ngành sinh hoạt của một quốc gia độc lập sống theo kinh tế nông nghiệp: thể chế chính trị, học chế, binh chế, pháp chế, tập tục, luân lí, tín ngưỡng… Trong nền văn hoá tổng hợp này, hai yếu tố Việt và Hán biểu lộ rõ nét nhất trong lãnh vực ngôn ngữ, văn tự (chữ nôm) và văn học được ghi chép (bằng chữ hán và chữ nôm).
  • Cũng chính vì đời đời phải lo chống ngoại xâm để giành lại hay giữ vững độc lập, dân tộc Việt không có được thời kì nào thật yên ồn, thật thịnh vượng cho lâu dài. Lại thêm đất hẹp, khí hậu khắc nghiệt, dân số tăng nhanh, đất đai cần mở rộng; thế mà phía Bắc thì kẻ cường địch luôn luôn rình rập dòm ngó, ta chỉ lo bảo toàn được bờ cõi cũng đã đủ mệt rồi, phía Đông thì biển cả ngăn đường, phía Tây thì núi cao chặn lối, chỉ còn con đường Nam tiến để phát triển mà sống còn. Cuộc Nam tiến kéo dài từ thế kỉ XI (14) đến thế kỉ XVIII mới hoàn tất, và cũng phải trải qua chiến đấu và khai phá gian lao.
  • Cũng vì thế ông cha ta không có điều kiện thuận lợi để ngồi yên suy tư mà nghĩ ra những học thuyết mới lạ. Không có triết gia, cũng không có nhiều công trình lớn lao trong các ngành nghệ thuật như âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, những kiến trúc vĩ đại tầm cỡ thế giới biết đên như Kim Tự tháp, Vạn Lí trường thành v.v… Nước nghèo, dân lam lũ, lúc nào cũng lo phòng lụt, chống giặc, vua quan phần nhiều cũng phải sống cần kiệm, giản dị tương xứng với mức sống của dân chúng nên không có cung điện nguy nga, đền đài tráng lệ để di tích hay tiếng tăm lại đời sau.
  • Đặc trưng biểu kiến của văn hoá Việt sau thời đại Hùng vương với sự du nhập chủ yếu là văn hoá Hán trong và sau thời Bắc thuộc là tinh thần dung nạp với sự điều tiết (chọn lựa cái thích hợp, tránh cực đoan, thái quá); còn biểu hiện cụ thể ─ thí dụ trong các ngành nghề ─ là sự bắt chước khéo léo với ít nhiều sáng kiến nho nhỏ: đó là sự chế biến tiểu xảo cần sự tỉ mỉ kiên nhẫn, nhưng thiếu sự sáng tạo độc đáo.

Có lẽ trong lãnh vực tư tưởng, điều thoả mãn nhất của ta là sự dung hợp tam giáo khiến nền văn hoá Việt có thể được coi là biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa lí tưởng và thực tế, hai khuynh hướng khác biệt nổi rõ của hai nến văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa (15). Quan niệm luân lí, chính trị của Nho giáo kết hợp với tinh thần quốc gia dân tộc đủ dùng cho việc nhập thế; tư tưởng xuất thế của Lão Trang dù chính thống hay biến thể thì cũng đáp ứng niềm ước mơ về một thế giới đẹp đẽ trong đó tình cảm, lòng ước muốn và tự do của cá nhân không bị hạn chế hay tiêu diệt, mà được thanh khiết hoá và thoả mãn.

Nhưng chính Phật giáo mới mở rộng cánh cửa của vũ trụ để cho dân tộc Việt nhìn thấu suốt không gian và thời gian vô tận (16) và góp phần tạo thành quan niệm về nhân sinh, về luân lí tích cực và đúng đắn rất thích hợp với hoàn cảnh và cá tính của dân tộc này: đức nhẫn nhục thích hợp với hoàn cảnh phải lấy nhu thắng cương, luật nhân quả thật đúng với đòi sống nông nghiệp phải cần cù kiên nhẫn gieo trồng mới trông mong gặt hái; thuyết luân hồi nghiệp báo với đức từ bi mở ra cho ước vọng bình đẳng mà phạm vi bao trùm tất cả chúng sinh: phải từ bi không những với đồng loại mà còn với tất cả muôn loài, vì nếu hành hạ, giết hại loài vật, kiếp sau ta có thể phải hoá kiếp làm loài vật để bị đày ải tàn sát lại (17). Đặc biệt thuyết nghiệp báo kết hợp với tinh thần gia tộc, như đã trình bày, tạo nên niềm hi vọng và tin tưởng ở một tương lai gần có thể thấy được hay yên chí là có được (con cháu) kết quả của cả một đời người sống thiện.

Cuối cùng nếu có thể nói gọn lại được cho dễ nhớ thì thiết tưởng Nguyễn Du đã phát biểu giùm cho dân tộc Việt Nam cái triết lí mà họ thấy là sâu sắc, đúng và đáng tin theo nhất:

Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Đó là triết lí chữ TÂM, nói về phương diện tĩnh, còn nói về phương diện động thì sống làm sao cho tâm ta đối nội đạt được sự quân bình (không thiên lệch chao đảo), đối ngoại đạt được sự hoà điệu với tha nhân và với vũ trụ, ấy là CHÂN HẠNH PHÚC vậy.

Chú thích phần tổng kết

(1)  Về quan điểm cho rằng dân tộc Việt đã bị Trung Hoa đồng hoá, có người còn cho rằng ngay cả dòng giống ta cũng đã trở thành Tàu rồi, vì trong hơn 1000 năm đô hộ ta, người Tàu đã có lúc thi hành chính sách đồng hoá triệt để, kể cả cách dã man như giết đàn ông, hiếp đàn bà. Chúng tôi không gạt bỏ là người Tàu không áp dụng biện pháp này, song hiển nhiên là nó không thể được áp dụng đồng bộ và lâu dài, vì mục đích chính của họ là còn bóc lột về kinh tế nữa: thí dụ bắt dân ta lên rừng tìm sừng tê, gỗ trầm hương, xuống biển mò ngọc trai thì chỉ có đàn ông mới làm được. Vả lại càng giở trò dã man thì càng gây căm thù sâu sắc, càng khó khuất phục. Chính vì thấy lợi khí văn hoá hữu hiệu hơn, nên người Tàu mới cố tình đồng hoá ta về phương diện văn hoá.

(2)  Ai gieo nhân thì chính người ấy hái quả. Ở đây phải bổ túc bằng thuyết cộng nghiệp để giải thích.

(3)  Quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” theo chúng tôi, thực tế là không thể có. Tương tự như thế, hành vi đạo đức vô vị lợi thì người làm có quyền nghĩ như vậy (không cầu lợi); song thực ra thì bất cứ hành vi nào cũng là tạo nghiệp nhân, tất phải đưa đến nghiệp quả.

(4)  Chúng tôi sẽ bàn thêm về mối liên hệ tay ba này (cá nhân, gia đình, quốc gia xã hội) trong tập II: tiếp nhận ảnh hưởng Tây phương.

(5)  Lão tử trong “Đạo Đức Kinh” cũng phát biểu định luật này: “bổ bất túc, tổn hữu dư” (bù thêm cho cái không đủ, lấy bớt của cái có thừa).

(6)  Cao Bá Quát làm bài phú “Tài tử đa cùng” để phát biểu quan niệm này và để tự an ủi cho cuộc đời lận đận của ông.

(7)  Trong lá số tử vi chỉ với 12 cung an vị đủ các vì sao để chỉ biến cố trong cả một đời người, luật tuần hoàn này được diễn tả bằng cách tính tiểu hạn (một năm) và đại hạn (mười năm) quay vòng tròn.

(8)  Đại đa số các câu hò điệu hát ngày xưa được sáng tác theo thể lục bát (chính thức hoặc biến thể) và song thất lục bát (chính thức hoặc biến thể). Cũng nói được là hầu hết các câu ca dao làm theo hai thể này đều có thể được dùng để hò, hát, ngâm, ru.

(9)  Trong thời kì đô hộ nước ta, người Tàu sử dụng một trong những biện pháp đồng hoá dân Việt là cho đàn ông Tàu lấy vợ Việt bằng cách dùng quyền thế ép buộc hoặc dùng lợi lộc dụ dỗ. Hậu quả là dân ta có tinh thần bài ngoại trong hôn nhân: người ta vạch ra rằng những cuộc hôn nhân Ngô-Việt như thế chẳng đẹp đẽ gì; thí dụ bài ca dao “Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách”, và khuyên nhau đừng “gánh vàng đi đổ sông Ngô”, mà hãy “ta về ta tắm ao ta” hoặc “trâu ta ăn cỏ đồng ta”. – Sang đầu thế kỉ XX, Tô Hoài trong truyện “Trăng Thề” còn cho thấy cái vị đắng cay của một chàng trai Việt ở quê bị người Tàu ở tỉnh dùng nếp sống xa hoa phỗng tay trên mất người yêu!

(10) Tính chất bảo thủ trì trệ của xã hội Việt Nam thời xưa nổi rõ khi va chạm với văn minh Tây phương.

(11) Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc theo Trần Trọng Kim (“Việt Nam Sử Lược”) là vào năm 207 tr. Tl., còn theo các sử gia sau này tại Hà Nội dựa vào “Sử Kí” của Tư Mã Thiên là sau năm 180, có thể là 179 tr. Tl.

(12) Trước Triệu Đà, trong cuộc chiếm đóng của quân Tần do Đồ Thư chỉ huy, người Việt không chịu sống dưới ách quân Tần, bỏ vào rừng tiếp tục kháng chiến cho đến khi giết được Đồ Thư, đuổi được quân Tần về nưóc. Như vậy không thể có sự tiếp xúc văn hoá bình thường được.

(13) Khoảng năm 1955, tại Sài Gòn xuất hiện một tập sách nhỏ bằng Anh ngữ tựa đề “The Fate of the Last Viêts” (Số Phận của Những Người Việt Cuối Cùng) của kĩ sư Hoàng Văn Chí phục vụ cho kháng chiến mà phải bỏ chạy vào miền Nam kêu gọi chống lại âm mưu đồng hoá của “các đồng chí Trung quốc” đang diễn ra ở miền Bắc lúc ấy.

(14) Vua Lí Thánh Tông đánh Chiêm Thành năm 1069, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm xin dâng ba châu Địa lí, Ma Linh và Bố Chính (nay là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Tri) để chuộc mạng. Trước đó các vua Lê Đại Hành và Lí Thái Tông cũng sang đánh Chiêm, bắt người lấy của mang về, nhưng không chiếm đất.

(15) “Về địa thế ở giữa nước Ấn độ và nước Chi na (Trung hoa) nên người ta gọi là Ấn-độ chi-na. Về phương diện văn hoá, tên ấy lại càng thích đáng bởi vì giải đất Ấn-độ chi-na là nơi gặp nhau của hai nền văn hoá cổ nhất ở Á châu: Ấn độ và Trung hoa. Song hai nền văn hoá ấy truyền bá ở hai khu vực khác nhau có giới hạn thiên nhiên chia cách, tuy thỉnh thoảng có tiếp xúc nhau mà không khi nào dung hoà.” (Đào Duy Anh, “Việt Nam Văn Hoá Sử Cương”, phần Tự luận, tr. 14.)

(16) Không gian vô tận: riêng cõi Sa Bà của đức Phật Thích Ca đã gồm tam giới (dục, sắc và vô sắc giới) hay lục đạo gồm thiên, nhân, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; ngoài ra còn tam thiên đại thiên thế giới hoặc mười phương (bốn phương chính, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới) thế giới của hằng hà sa số chư Phật; thời gian vô tận là tam thế: quá khứ, hiện tại, vị lai hoặc quay vòng luân hồi: sinh, trụ, dị, diệt (thành, trụ, hoại, không) cứ như thế mãi.

(17) Ăn chay, giới sát theo Phật giáo là để đáp ứng niềm tin con người có thể bị hoá kiếp làm loài vật để bị đày ải tàn sát lại.