6
TIẾNG VIỆT VÀ VĂN HỌC VIỆT TIÊU BIỂU CHO TÍNH THỐNG NHẤT VÀ KHẢ NĂNG THÂU HOÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT
♦
Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt tư tưởng và tình cảm của con người với đồng loại trong điều kiện bắt buộc là con người phải sống thành đoàn thể và phải cộng tác với nhau mới sinh tồn được.
Như vậy, ngay từ buổi sơ khai, con người đã phải có tiếng nói dù còn thô sơ. Các bộ lạc Việt khi kết hợp với nhau thành nước Văn Lang rồi nước Âu Lạc mà địa bàn sinh hoạt trải khắp miền Bắc và bắc Trung Bộ ngày nay, hẳn phải có một ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ ấy biến đổi thế nào từ lúc ấy cho đến nay, ta không có cách nào để biết tườngtận được; một trong những lí do là chữ viết ta có rất trễ, nhất là chữ viết phiên âm ghi lại cách đọc.
Chương này không làm công việc nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt, một công việc ngoài phạm vi và tầm vóc của tập tiểu luận này. Ở đây chúng tôi chỉ tìm hiều để thấy rõ thêm cái khả năng của dân tộc Việt: thâu nhận cái của người rồi chế biến, hoá thành cái của mình để dùng cho tiện lợi. Trong phạm vi ngôn ngữ, văn học thì cái khả năng ấy thật là rõ ràng và lớn lao. Trong khi tìm hiểu, chúng tôi cũng thấy cái tính thống nhất trong tiếng Việt đã khiến nó trở thành chất keo gắn bó đoàn thể người Việt sống trải dài từ Bắc vào Nam, cả người Việt tha hương nữa, thành một khối người có văn hoá chung, không dễ gì bị đồng hoá, không dễ gì quên cội nguồn.
A. Tiếng Việt và văn học Việt: một công trình tổng hợp văn hoá Việt Hán
- Ngôn ngữ
Quá trình hình thành của ngôn ngữ Việt, cũng như lịch sử của dân tộc Việt, là cả một quá trình tranh đấu để tự tồn, để tránh bị ngôn ngữ của ngoại nhân đồng hoá. Trước khi tiếp xúc với người Hán tộc (tạm kể từ Triệu Đà, cuối thế kỉ thứ III đầu thế kỉ thứ II trước tây lịch kỉ nguyên), dân tộc Việt trong nước Văn Lang – Âu Lạc hẳn đã phải có một ngôn ngữ đủ dùng cho mọi ngành sinh hoạt xã hội ở vào giai đoạn cuối cùng của thời kì đồ đồng chuyển sang đồ sắt. Nhưng dù sao thì trình độ văn hoá của Việt tộc lúc ấy cũng thấp hơn trình độ văn hoá của Hán tộc cùng thời, nhất là ta lại chưa có chữ viết. Tiếng Việt vào thời đó chắc gồm đa số là những từ chỉ vật cụ thể trong đời sống hàng ngày, hãy còn đơn sơ giản dị; số lượng từ chỉ những ý niệm trừu tượng, khái quát trong các lãnh vực chính trị, xã hội, luân lí, tín ngưỡng v.v… hẳn còn rất ít.
Cho nên trong thời gian hơn mười thế kỉ Bắc thuộc, người Hán áp đặt mọi chế độ chính trị, xã hội, phong tục, truyền bá tư tưởng luân lí, tín ngưỡng của họ cho dân ta với mục đích biến người Việt thành người Hán về phương diện văn hoá, thì tiếng Việt nhất định cũng là một đối tượng bị mưu đồng hoá như vậy. Ấy thế mà tiếng Việt không những không trở thành một thổ ngữ của Hoa ngữ mà lại còn du nhập Hoa ngữ và Việt hoá nó, làm tiếng Việt phong phú hẳn lên, được nâng cao tới trình độ có thể diễn tả mọi ngành học thuật như ta thấy ngày nay.
a) Thu nhập và Việt hoá kho từ ngữ hán để có một kho vô tận từ ngữ hán việt
Nhất định là bọn quan lại người Tàu, rồi sau các nhà nho, lính tráng, tội nhân bị đày, những đợt người Tàu tránh loạn lạc từ chính quốc sang ở lẫn lộn với nguời Việt bản xứ đã nói tiếng tàu và dạy dân bản xứ nói tiếng nói của họ. Mọi công văn giấy tờ hành chánh, mệnh lệnh từ trên ban xuống cho người Việt thi hành như thuế má, dao dịch cũng phải bằng hán văn. Dĩ nhiên phải có một lớp người thông ngôn phiên dịch. Lớp người ấy có thể gồm cả người Hoa lẫn người Việt. Và như thế là những từ ngữ, thành ngữ, kiểu nói hán, việt được sử dụng song song. Nhưng tiếng hán phải có ưu thế của kẻ thống trị, còn tiếng Việt bị trị hẳn bị lép vế. Nhưng không những không bị Hán ngữ đồng hoá, Việt ngữ còn thu nhận cả một kho từ ngữ hán, việt hoá chúng bằng cách nói trại đi theo âm việt, giọng việt và lâu dần biến chúng thành tiếng hán việt.
Sự việt hoá từ ngữ hán đi theo hai cách: nho hoá và dân hoá. Nho hoá là việt hoá theo cách của nhà nho Việt: đọc chệch tiếng hán theo âm việt, nhưng vẫn dựa vào cách phiên thiết (cách ghép âm để đọc thành tiếng) trong từ điển hán. Còn dân hoá là việt hoá theo cách của đại chúng Việt, chỉ cốt sao cho thuận miệng xuôi tai là được (1).
Kết quả: theo cách thứ nhất, ta có thể việt hoá tất cả các từ ngữ hán. Một người Việt biết một số chữ hán căn bản, muốn tra một chữ hán nào đó trong từ điển hán như bộ Từ Hải chẳng hạn thì chỉ việc tìm chữ rồi đọc phần phiên thiết ở đầu là biết âm của chữ đó, rồi mới tra nghĩa ở phần sau. Theo cách thứ hai, tiếng Việt có thêm được một số từ ngữ để dùng nhưng không theo qui luật nào cả; và nhiều khi lâu dần, chúng biến âm hẳn đến độ ta không nhận ra gốc hán của chúng nữa; chúng đã việt hoá hoàn toàn và hoà lẫn vào số từ ngữ vốn có của tiếng Việt. Thí dụ: “chổi”, “lửa”, cỏ” do tiếng hán việt “trửu”, “hoả”, “cảo” nói trại âm và vần mà ra; “quả”, “hãng”, “chữa” do “quải”, “hàng”, “trừ” đọc trại vần và thanh mà ra. (Theo Bùi Đức Tịnh, “Văn Phạm Việt Nam Cho Các Lớp Trung Học).
Kho từ ngữ hán đã trở nên kho dự trữ từ ngữ khổng lồ của tiếng Việt: khi cần đặt một tiếng mới, ta cứ việc lấy trong kho ra lắp ráp lại mà xài!
Một tiếng hán được dùng làm gốc để tạo ra một tiếng hán việt (việt hoá theo lối nho hoá) và nhiều tiếng nôm (việt hoá theo lối dân hoá): 白 âm hán “pai” tạo ra tiếng hán việt “bạch” (bạch mã, bạch diện) và các tiếng nôm “bạc” (tóc bạc, vàng bạc, bạc màu), “bệch” (trắng bệch), “phếch” (bạc phếch, nhạt phếch). 好 âm hán “hao” tạo ra tiếng hán việt “hiếu” (hiếu danh, hiếu sắc, hiếu thắng, hiếu học, hiếu khách) và các tiếng dân hoá “háo” (háo hức), “háu” (háu đói, hau háu).
Trong cách mượn từ ngữ hán, ta đã việt hoá âm rồi, còn nghĩa ta có thể dùng nguyên nghĩa gốc hoặc mở rộng (như các thí dụ “bạch” “hiếu” ở trên) hoặc biến đổi hẳn nghĩa gốc.
Thí dụ: 仔細 “tử tế”, người Trung Hoa dùng với nghĩa cặn kẽ như tường tế, còn ta dùng với nghĩa (người) tốt bụng, cư xử tốt, chu đáo với người khác. 歷 事 “lịch sự”, người Trung Hoa hiểu là từng trải việc đời, ta dùng với nghĩa (người) ăn mặc sang trọng, hợp thời trang, nói năng lễ độ, nhã nhặn, cư xử khéo léo. (Theo Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê, “Khảo Luận Về Ngữ Pháp Việt Nam”, Đại Học Huế xb., 1963).
b) Làm giàu tiếng Việt
Làm giàu tiếng Việt bằng cách dùng từ ngũ hán việt theo cấu trúc đảo ngược của ngữ pháp Hoa ngữ, nhưng vẫn giữ đặc tình căn bản của ngữ pháp Việt là đặt xuôi. Thật thế, đặc tính căn bản của ngữ pháp Việt là đặt xuôi: tiếng chỉ định đi sau tiếng được chỉ định.
Thí dụ: “áo đen” (áo gì? – áo đen): “áo” là tiếng được chỉ định, “đen” là tiếng chỉ định làm cho rõ nghĩa “áo”.
Cấu trúc hán thì ngược lại: “hắc y”.
Khi thu nhận và việt hoá các từ ngữ hán để biến chúng thành tiếng hán việt, ta vẫn theo trật tự đặt ngược trong cấu trúc hán nhưng lồng vào khuôn phép đặt xuôi của tiếng Việt. Kết quả là ta có thể nói theo nhiều cách tuỳ trường hợp, sao cho lời gọn ý rõ. Thông thường, từ ngữ hán việt được dùng cho gọn, nếu khi dùng từ ngữ nôm thì lời dài dòng, ý không rõ.
Thí dụ ta dùng từ “hiệp sĩ” thì gọn hơn là dùng cả đoạn như là diễn giải cả ý niệm đó “người hay ra tay bênh vực kẻ yếu”.
Nhưng ta có thể nói: “hiệp sĩ áo đen” (hiệp sĩ, hán việt, tiếng được chỉ định; áo đen, nôm, tiếng chỉ định). Cả ngữ “hiệp sĩ áo đen” theo cấu trúc Việt trong đó từ hiệp sĩ là hán việt nên theo cấu trúc hán, còn áo đen là từ nôm nên theo cấu trúc Việt. Ta cũng có thể nói: “hắc y hiệp sĩ”, cả ngữ toàn là hán việt nên phải theo hoàn toàn cấu trúc hán, mà không thể nói “hiệp sĩ hắc y” hoặc “áo đen hiệp sĩ”. Cũng nhằm mục đích nói cho gọn và muốn cho câu thơ có giọng trang trọng, vẻ cổ kính, ta dùng từ “tiều phu” thay cho “người kiếm củi” hoặc “lão tiều” thay vì “ông lão kiếm củi”.
Thí dụ sau đây càng cho thấy nhờ khả năng viết hoá kho từ ngữ hán, tiếng Việt của ta giàu thêm biết bao: cùng một ý, ta có thể dùng nhiều từ, nói nhiều cách:
– Chuyển khẩn cấp bệnh nhân đến bệnh viện! (1)
– Chở gấp người ốm đến nhà thương! (2)
– Chở khẩn cấp người ốm đến bệnh viện! (4)
Chuyển gấp bệnh nhân đến nhà thương! (5)
– Chở khẩn cấp bệnh nhân đến nhà thương! (6)
– Chuyển gấp người bệnh đến bệnh viện! (7)
– Chở gấp bệnh nhân đến bệnh viện! (8)
– Chuyển khẩn cấp người ốm đến nhà thương! (9)
– Chở khẩn cấp người ốm đến nhà thương! (10)
2. Văn tự, văn học
Văn học Việt Nam trước khi tiếp nhận ảnh hưởng Tây phương gồm hai thành phần chính: văn chương truyền miệng trong dân gian như ca dao, tục ngữ, truyện cổ v.v… và văn học ghi chép bằng văn tự (chữ hán và chữ nôm).
Dân tộc Việt là một dân tộc rất yêu thích văn học về cả hai phương diện thưởng thức và sáng tác. Trong mọi hoàn cảnh của đời sống, dù vui, buồn, sướng, khổ… đa số dân ta đều ưa thưởng thức và bằng hình thức nào đó, sáng tác văn học. Bởi vậy, mọi thể loại văn dù do dân ta nghĩ ra hoặc bắt chước người ngoài, đều được tận dụng.
Ở đây chúng tôi chỉ xét đến cái khả năng thâu hoá của dân tộc ta: mượn cái kiểu mẫu của người rồi biến chế thành cái kiểu của mình, từ đó làm giàu kho tàng văn học nước nhà. Tổ tiên ta đã từ cái rủi một ngàn năm nô lệ khổ nhục mà rút ra được cái may: tạo nên nền văn học việt hán.
a) Văn học chữ hán
Dân tộc ta trong thời kì nước Văn Lang và nước Âu Lạc, theo tình hình sử liệu hiện có, coi như chưa có chữ viết. Đến khi Triệu Đà, người Hán, chinh phục nước Âu Lạc, sát nhập vào quận Nam Hải, thành lập nước Nam Việt rồi lên làm vua, hẳn đã dùng chữ hán làm văn tự chính thức, nhất là trong việc giao thiệp với triều Hán bên chính quốc. Chữ hán đã được người Việt biết đến, ít nhất là những người làm quan với họ Triệu. Đến khi Lữ Gia đứng lên chống lại âm mưu của mẹ con Triệu Ai vương dâng đất nước Việt cho nhà Hán, làm bài hịch kể tội kẻ bán nước và kêu gọi nhân dân Việt đứng dậy chống giặc, hẳn đã phải dùng chữ hán để viết bài hịch này. Vậy giới cầm quyền lãnh đạo đất nước thời ấy có tinh thần độc lập tự chủ, đã biết sử dụng chữ hán là văn tự của kẻ thù để chống lại kẻ thù (2).
Trong hơn một nghìn năm cai trị đất Việt, người Tàu đã dạy chữ hán cho một số người Việt để đào tạo một lớp thư lại dùng trong guồng máy hành chính. Song cũng có những người Việt học chữ hán không phải để làm tay sai cho ngoại nhân, mưu cầu vinh hoa phú quí, mà coi đó chỉ là phương tiện nâng cao trình độ văn hoá của mình, nhất là để học đạo. Những người ấy mà nay ta còn biết đến là các vị thiền sư Việt cần biết chữ hán để học kinh sách nhà Phật ghi chép bằng hán văn. Sử sách còn ghi lại tên mấy vị thiền sư Việt đạo cao đức trọng, giỏi hán văn khiến các thi hào Trung Hoa phải thán phục: Duy Giám, Phụng Đình, Vô Ngại v.v…
Suốt thời Bắc thuộc đến đời Tiền Lê, văn học chữ hán mới chỉ nhú mầm. Phải từ triều Lí trở về sau, đất nước được độc lập và có giai đoạn ổn định tương đối lâu, văn học mới có điều kiện phát triển. Thể loại cũng phong phú: từ các bài kệ ngắn của các vị thiền sư đến các bài thơ, phú, văn bia, chiếu, hịch, cáo… là các tác phẩm ngắn, dần dẩn tiến đến các tác phẩm dài như truyện, tuỳ bút, khảo luận mở rộng ra các ngành lịch sử, điạ lí, phong tục, tôn giáo v.v… đủ để tạo nên một nền văn học theo nghĩa rộng được ghi chép và truyền lại cho đời sau. Các vị thiền sư chính là lớp người khai sơn phá thạch cho nền văn học được ghi chép của Việt Nam. Họ cũng là lớp thầy gíáo đầu tiên đạo tạo nên lớp trí thức nho học đầu tiên của nước Việt độc lập.
Vậy là dân “Nam man”, dân thuộc địa cũ của Trung Hoa đã dùng Hán học mà vươn lên để “cựu mẫu quốc” không còn khinh thị được nữa. Sử sách còn ghi lại nhiều nhân tài Hán học Việt hoặc tiếp sứ giả Trung Quốc, hoặc đi sứ sang Trung Quốc đã làm cho người Tàu đi từ ngạc nhiên sang kính phục như sư Ngô Chân Lưu, sư Đỗ Pháp Thuận đời Tiền Lê, các danh nhân đại khoa bảng như trạng nguyên Nguyễn Hiền, trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đời Trần, Phùng Khắc Khoan tức trạng Bùng (3), bàng nhãn Lê Quí Đôn đời Lê Trung hưng.
Sau khi thoát ách nô lệ, các triều đại quân chủ của nước Việt độc lập (kể từ nhà Lí về sau) đã sử dụng thuần thục hán văn, công cụ văn hoá của kẻ xâm lăng thống trị để lại cho mình, trong mọi lãnh vực chính trị, ngoại giao, văn học, quân sự, luật pháp, y dược v.v… đủ để trong nước thì dùng trong các ngành học thuật, trong đời sống văn hoá, ngoài thì đủ để tự hào là một “văn hiến chi bang”.
Song dù đã việt âm hoá, dù đã trở nên quen thuộc đến độ có thời người Việt quen gọi chữ hán là “chữ ta” (4), chữ hán vẫn là thứ văn tự của ngoại nhân, không thể là phương tiện truyền đạt ý nghĩ, tâm tình của đại chúng Việt. Người Việt vẫn cần sáng tác các tác phẩm văn chương bằng tiếng mẹ đẻ để đáp ứng nhu cầu thưởng thức cái hay vẻ đẹp của thứ tiếng nói u-ơ từ thủa đầu đời đến khi lắp bắp nhưng tiếng sau cùng của kiếp sống. Mà các áng văn chương ấy cũng cần được ghi chép và truyền lại cho đời sau. Từ đó nẩy sinh ra chữ nôm, thứ văn tự ghi chép tiếng Việt, và dòng văn chương chữ nôm ─ dòng văn chương tiếng Việt được ghi chép bằng văn tự chứ không chỉ truyền miệng mà thôi ─ được thành hình.
b) Dùng chữ hán để chế tác chữ nôm, từ đó sáng tác văn nôm; vận dụng các thể văn hán vào việc sáng tác văn Việt.
Một thứ văn tự dù còn nhiều khuyết điểm như chữ nôm vẫn phải là công trình của nhiều người và nhiều đời. Chúng ta không bác bỏ già thuyết cho rằng chính các thế hệ quan cai trị người Tàu trong thời kì Bắc thuộc kéo dài, tiêu biểu là Sĩ Nhiếp, làm thái thú Giao Chỉ trong thời gian 187-226 đã khởi đầu việc chế tác chữ nôm để dùng trong việc cai trị và truyền bá học thuật tư tưởng Trung Hoa trong chủ đích đồng hoá người Việt (5). Nhưng chính các thế hệ nho sĩ Việt thời kì độc lập ─ đi tiên phong là Nguyễn (Hàn) Thuyên đời Trần ─ đã biết lợi dụng thứ văn tự thoát thai từ chữ hán này để tạo nên cả một dòng văn chương chữ nôm phong phú rực rỡ với các đỉnh cao như Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh… để lại cho hậu thế chúng ta niềm tự hào với phần di sản tinh thần quí giá này. Các ngôi sao thơ nôm như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương v.v… sẽ mãi mãi ngời sáng trên nền trời văn học Việt Nam.
Ngoài việc mượn chữ của người chế ra chữ của mình, dùng nó để sáng tác nên các tác phẩm văn chương nói lên được tâm tình dân tộc bằng ngôn ngữ dân tộc, ta còn ghi nhận thêm một điều nữa là các thể loại văn chương đa số vẫn là mượn của người rồi vận dụng thành của mình. Các thể loại vay mượn thông dụng trong văn nôm vẫn là thơ, phú đuờng luật, câu đối. Dù âm luật khắt khe, song nhờ đã thành công trong việc việt âm hoá từ ngữ hán, văn gia thi sĩ Việt vẫn ứng dụng khéo léo và thành công luật lệ của các thể loại này trong khi sáng tác. Trong kho tàng văn chương quốc âm, không thiếu những bài thơ, bài phú nôm tuyệt tác. Đó là những bình kiểu tàu, nhưng đất nung, men tráng, tay thợ nặn chuốt cho đến rượu đựng bên trong là của Việt Nam.
Nhưng không phải ta chỉ biết mượn nguyên kiểu của người khác. Ai cũng biết thể thơ lục bát là thuần tuý Việt. Đỉnh cao của thơ nôm cũng là đỉnh cao của thơ Việt là Đoạn Trường Tân Thanh (gọi tắt là Truyện Kiều) được viết theo thể lục bát. Những câu ca dao mang nặng tâm tình Việt được nghe mẹ ru từ thuở nằm nôi nằm võng phần lớn cũng là những câu lục bát. Mỗi khi muợn thể thất ngôn của Trung Hoa, các tác giả Việt đã kết hợp hai thể thơ việt và hán này lại thành thể song thất lục bát với những câu ca dao đầy tình tứ Việt, và rồi cũng đạt tới đỉnh cao chót vót với Chinh Phụ Ngâm Khúc.
Tiếng Việt vốn giàu âm thanh (6), nên thơ Việt giàu vần và giàu nhạc tính hơn thơ Trung Hoa. Chả là thơ Trung Hoa chỉ dùng cuớc vận (vần chân hay vần cuối câu), còn thơ Việt thì dùng cả yêu vận (vần lưng hay vần giữa câu) lẫn cước vận. Cứ đọc một bài thơ tứ tuyệt đường luật văn hán hay văn nôm và một khổ song thất lục bát thì thấy ngay là một đàng bốn câu chỉ có ba vần (có khi chỉ có hai vần), còn đáng kia cũng bốn câu mà có tới năm vần chính thức của đoạn và một vần chờ gieo xuống đoạn sau:
Bỗng thấy chiêm bao thấy những người,
Những người nói nói lại cười cuời.
Tỉnh ra lại tiếc người trong mộng,
Mộng thế thì bằng tỉnh mấy mươi.
(Trần Tế Xương)
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên;
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này. (vần xuống dưới)
(Chinh Phụ Ngâm)
Chính người mẹ song thất lục bát kết hợp mối tình việt hoa này sinh ra đứa con hát nói, thể thơ thông dụng nhất trong lối hát ả đào; lối hát này là món tiêu khiển được giới nho sĩ triều Nguyễn rất ưa thích (7). Đọc thơ nôm thế kỉ XIX, không ai là không biết tới những bài hát nói tuyệt tác của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê v.v… liến hệ tới những giai thoại về mối tình giữa thi nhân với đào nương (8).
Nhưng chữ nôm, dù là thứ văn tự ghi chép tiếng Việt, nó vẫn quá khó học đối với đại chúng, khó hơn cả chữ hán, vì muốn biết chữ nôm phài thông thạo chữ hán trước đã. Bởi vậy các tác phẩm văn nôm phần lớn chỉ được truyền tụng trong giới nho sĩ, còn đại chúng do truyền miệng chỉ thuộc một số đoạn trong Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Lục Vân Tiên… mà thôi. Kết quả là ta có hai dòng văn học song hành mà ta hay gọi là văn chương bác học và văn chương bình dân.
Trong thực tế, các nho sĩ cũng chỉ dùng chữ nôm phần nhiều để sáng tác thơ, phú, truyện, ngâm, hát nói, nói chung là văn vần để ngâm nga di dưỡng tính tình. Giới nho sĩ còn phải dành phần lớn thì giờ và công sức cho việc trau giồi hán văn, vì đó là con đường tiến thân bằng khoa cử, đem lại vinh hoa phú quí cho bản thân và gia đình, làm vẻ vang cho họ hàng làng nước. Ngoài ra, những người muốn nghiên cứu sâu vào các ngành học thuật, viết nên tác phẩm để lại cho đời sau, vẫn phải dùng hán văn. Sở dĩ như vậy là vì các triều đại quân chủ của nước Việt độc lập sau khi gỡ bỏ được ách đô hộ của người Tàu, vẫn tiếp tục dùng chữ hán làm thứ văn tự chính thức của quốc gia, còn chữ nôm bị gạt ra một bên hoặc còn bị một số người khinh thị là “nôm na mách qué” nữa.
B. Ảnh hưởng của đại chúng đối với giới nho sĩ trong sáng tác văn học chứng tỏ sức mạnh của tinh thần dân tộc trước các thế lực ngoại lai
- Ảnh hưởng hán nặng nề lúc đầu
Dân tộc Việt chiến đấu hàng bao thế kỉ chống đế quốc phong kiến Trung Hoa để giành độc lập cho Tổ quốc, song lại vẫn coi các bậc thánh hiền nho học Trung Hoa như Khổng tử, Mạnh tử là các ông thầy văn hoá, đạo đức. Nói cách khác, quốc gia Việt độc lập về phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, nhưng vẫn sùng kính ông thầy văn hoá Trung Hoa, mô phỏng mọi tổ chức, chế độ như tổ chức chính quyền từ trung ương (triều đình) đến địa phương (như tỉnh, phủ, huyện), như chế độ giáo dục, khoa cử, các nghi lễ quan trọng nơi triều miếu (thí dụ tế Nam giao). Đó là ảnh hưởng tất yếu của cả ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa do trình độ văn hoá của Trung Hoa quả có cao hơn của ta vào giai đoạn sớm sủa của lịch sử, do căn bản kinh tế của hai nước cùng là nông nghiệp, do giới cầm quyền của hai nước cùng theo chế độ quân chủ chuyên chế.
Từ đó nhà nước quân chủ Việt cũng phải đào tạo một tầng lớp trí thức nho học trong bộ máy chính quyền dập khuôn theo mẫu mực Trung Hoa. Mà giới nho sĩ cũng lại là tác giả của văn học được ghi chép bằng chữ hán và chữ nôm. Cho nên ảnh hưởng của Hán học trong các tác phẩm của họ thật là nặng nề sâu đậm từ nội dung đến hình thức nghệ thuật.
Nổi bật nhất là tinh thần tập cổ hay bắt chước dập khuôn theo người xưa đưa đến tính cách ước lệtrong nền văn học cồ điển Việt Nam, tức là văn học chữ hán và văn chương chữ nôm từ thế kỉ XIX trở về trước. Thói quen mô phỏng cổ nhân Trung Hoa làm cho một số khá nhiều tác giả Việt đi theo lối mòn của các văn gia thi sĩ Trung quốc, từ việc lựa chọn đề tài như vịnh cảnh thì phong, hoa, tuyết, nguyệt, Tiêu Tương bát cảnh; người thì ngư, tiều, canh, mục (hay ngư, tiều, sô, lạp); nội dung thì luôn luôn đề cao luân lí trung, hiếu, tiết, nghĩa của nho gia do quan niệm “văn dĩ tải đạo”: văn chương chỉ được dùng như phương tiện – con thuyền chẳng hạn – để chuyên chở đạo lí.
Hình thức nghệ thuật thì từ thể loại như thơ, phú đường luật rất được ưa chuộng cho đến cách sử dụng từ ngữ, thành ngữ, điển cố, các tác giả Việt đều thích bắt chước các tác giả Trung Hoa, coi việc thuộc sử sách Trung Hoa làm điều đắc ý. Tình trạng này phổ biến làm cho một số không ít các tác phẩm Việt mang tính ước lệ, nô lệ cổ nhân, lâu dần thành sáo, rỗng, ít đặc sắc cá nhân, thiếu tính độc đáo, không sát với đời sống thực.
Ta có thể lấy một vài thí dụ tiêu biểu: trong truyện Hoa Tiên có đoạn tả tâm trạng nhân vật Dương Dao Tiên đi thuyền về kinh đô để theo cha, lòng sầu khổ vì người yêu là Lương sinh lỗi hẹn. Nàng ngắm cảnh để tiêu sầu mà vẫn thấy đủ tám cảnh của cả hai con sông Tiêu và Tương:
Non sông tám bức sầu treo,
Cảnh mai để chạnh, sắc chiều như xui.
Kìa đâu cát phẳng một doi,
Bình sa lạc nhạn
Mấy chòm lích chích lôi thôi trận nhàn.
Kìa đâu mây tận chân ngàn,
Sơn thị tình lam
Đỉnh đèo xao xác họp tan chợ chiều.
Kìa đâu viễn phố đìu hiu,
Viễn phố qui phàm
Lưng trời rút thẳng con lèo ra khơi.
Kìa đâu sông rộng sóng dồi,
Ngư thôn tịch chiếu
Ngư thôn mấy nóc mặt trời tà dương.
Kìa đâu nghi ngút khói sương,
Sơn tự hàn chung
Vẳng nghe chuông sớm còn vang bên lầu.
Kìa đâu nước lạnh trời thu,
Động Đình thu nguyệt.
Động Đình phẳng lặng một hồ trăng in.
Kìa đâu ban tối đỗ thuyền,
iang thiên mộ tuyết
Bạc bay hoa tuyết giang thiên một màu.
Kìa đâu trúc lệ nhuộm thâu,
Tiêu Tương dạ vũ
Tiêu Tương rả rích mưa mau canh chầy.
Ngay trong Bích Câu Kì Ngộ kể chuyện tình của một đôi trai hạ giới – gái tiên cung xẩy ra ở kinh đô Thăng Long vào triều Hậu Lê, cũng không thiếu những câu tả cảnh mưa tuyết, tuyết đóng (9) như:
Mấy phen hạ tới thu về, (câu 43- 44, bản Hoàng Xuân Hãn)
Suốt mành nắng trỗ, quanh hè tuyết xây.
Khi tuyết phún, lúc hoa bay, (câu 427-428, bản dẫn trên)
Câu thơ trước án, bàn vây bên bình.
Nhân nói đến truyện nôm, ta nhớ đến cả một kho truyện làm bằng thơ lục bát là thể thơ thuần tuý Việt, nhưng cốt truyện, nhân vật, tình tiết đều mượn của Trung Hoa. Hình như giới nho sĩ Việt cho việc “tập cổ” (hiểu là mượn đề tài của cổ nhân Trung Hoa) là một truyền thống biểu hiện lòng khiêm nhượng, vì ngay cả đức Thánh Khổng còn bảo rằng “ngô thuật nhi bất tác” nghĩa là: ta chỉ thuật lại lời người xưa mà không sáng tác điều gì mới. Mở đầu truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu cũng viết “Trước đèn đọc truyện Tây Minh”, mà trong kho tiểu thuyết tàu, khó mà bói ra được truyện Tây Minh nào như vậy cả! Chỉ có hai trường hợp: Bích Câu Kì Ngộ ở trên và truyện Phương Hoa (cốt truyện diễn ra ở Thanh Hoá) là cốt truyện Việt mà thôi (10).
Trong giai thoại về tài ứng đối của các sứ thần Việt sang Trung quốc có nhiều truyện sứ thần Việt phải thuộc lòng sử sách, điển cố Trung Hoa để có thể đối đáp mau lẹ các vế đối ra, hoặc giải những câu đố chữ của người Tàu lấy toàn những chữ những câu, những điển tích xa xôi đòi hỏi người bị thử thách phải đọc rộng nhớ nhiếu mới vượt qua nổi. Có như thế mới giữ vẹn được thể diện quốc gia. Một thí dụ trong truyện trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Người Tàu ra vế đối:
Quích tập chi đầu đàm Lỗ Luận: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri!
Ông Trạng sứ thần của ta lập tức đối lại:
Oa âm trì thương độc Châu Thư: Lạc dữ thiểu lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?
Nghĩa: “Chim chích choè đậu trên cành, bàn sách Luận Ngữ, có câu : biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, ấy là biết”. Có ý chê người Việt nói như tiếng chim. “Con chẫu chuộc trên ao đọc sách Mạnh Tử, có câu: nghe nhạc cùng với ít người làm vui, nghe nhạc cùng với nhiều người làm vui, đàng nào vui hơn?”. Chê lại người Tàu nói như tiếng chẫu chuộc.
Những nhân tài hán học Việt khiến thượng quốc Trung Hoa không còn dám khinh thị tiểu quốc Việt trước kia là thuộc địa của họ nữa; và người Việt cũng lấy đó làm hãnh diện. Song suy cho cùng, sùng bái cổ nhân Trung Hoa, lấy họ làm mẫu mực, các tác giả Việt giỏi lắm cũng chỉ leo lên đến đỉnh cao ngang với người Hán là cùng tột. Mà thực sự chưa có tác phẩm hán văn nào của người Việt có tầm cỡ ngang với các kiệt tác phẩm Trung Hoa. Đó là thân phận tất nhiên của các thế hệ tiền nhân ta đã phải học mướn viết nhờ, lấy chữ của người làm chữ của mình.
2. Ảnh hưởng của đại chúng thắng thế về sau
Nhưng ý thức quốc gia độc lập, tinh thần dân tộc tự chủ tự cường của người Việt lúc nào cũng mạnh mẽ, dù có khi phô trương rõ rệt, hoặc có hồi ẩn náu tiềm tàng. Hai triều Hồ và Nguyễn Tây Sơn đã nhận thức được tầm quan trọng của một nền văn hoá độc lập nên đã làm cách mạng: trả chữ hán cho người Hán, lấy chữ nôm làm văn tự quốc gia. Tiếc rằng thời gian cầm quyền của hai triều đại này quá ngắn ngủi nên tràng pháo hiệu phát khởi cuộc cách mạng văn hoá của họ cũng tịt ngòi.
Nhưng khuynh hướng muốn thoát li ảnh hưởng nặng nề đến độ khách lấn chủ của văn hoá Hán vẫn âm thầm phát triển ngay trong giới tác giả nho sĩ Việt. Sử dụng ngôn ngữ và sáng tác văn học là hiện tượng xã hội sống động. Nó phải đáp ứng nhu cầu truyền thông tư tưởng và tình cảm của quảng đại quần chúng sống trong xã hội đó. Thứ ngôn ngữ và tác phẩm văn học nào tách rời khỏi đời sống đại chúng, dù có đẹp mấy cũng chỉ như thứ cây cảnh trồng trong chậu để trưng bày trong mấy ngày tết thôi, không thể sống được lâu.
Ngay trong giới nho sĩ cũng có nhiều thành phần: hàn sĩ, ẩn sĩ và hiển sĩ. Hiển sĩ là lớp nhà nho hiển đạt, thi đậu và ra làm quan; nếu cuộc đời cao sang của họ được dài lâu và cứ thăng tiến mãi, họ có thể tách xa quần chúng. Hàn sĩ là lớp nhà nho chưa gặp thời ─ thời loạn là chưa gặp minh chủ, thời bình là chưa thi đậu ─ còn ẩn sĩ là lớp nhà nho thích sống tự do, không chịu thi cử, hoặc thi đậu nhưng không ra làm quan để khỏi vướng vòng danh lợi. Cả hai lớp nhà nho kể sau đều có cuộc sống đơn sơ giản dị, gần gũi quần chúng hoặc hoà mình với quần chúng.
Cuộc sống của các tác giả khác nhau thì tác phẩm văn học của họ cũng khác nhau: nếp sống đài các thì lời văn cũng đài các, nếp sống bình dân thì lời văn cũng bình dân. Cho nên ta có thể thấy hai nhánh trong dòng văn chương chữ nôm: một gồm những thi phẩm có lời thơ trau chuốt cầu kì, dùng nhiều từ ngữ, thành ngữ, điển tích hán, đó là tác phẩm của giới nho sĩ hiển đạt, hoặc có cuộc sống cao, gần gũi với tầng lớp quí phái; một gồm những thi phẩm có lời thơ giản dị, dùng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao, đó là tác phẩm của lớp hàn sĩ, ẩn sĩ, mà có khi chính họ xuất thân từ đại chúng, sống cuộc sống của đại chúng. Tiêu biểu cho nhánh văn nôm quí phái, ta có thể kể Cung Oán Ngâm Khúc, Hoa Tiên Truyện, Bích Câu Kì Ngộ…; tiêu biểu cho nhánh văn nôm bình dân, ta có thể kể các truyện như Phạm Công – Cúc Hoa, Lí Công, Thạch Sanh v.v…
Có thể nói dòng văn chương chữ nôm khởi nguồn từ Hàn Thuyên, chảy xuôi thời gian, càng về sau dòng càng lớn rộng ra, có lúc tách nhánh. Nhưng rồi do “thế đất đại chúng”, dòng phải lượn khúc đi về dòng văn chương bình dân để được đại chúng chấp nhận; nếu không sẽ tắc dòng. Cho đến thế kỉ XVIII, giai đoạn thịnh đạt của văn nôm, ta đã thấy trong các kiệt tác phẩm như Chinh Phụ Ngâm Khúc, Đoạn Trương Tân Thanh, yếu tố bình dân như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, lời giản dị len vào rất nhiều. Những câu thơ làm rung động lòng người nhất, khiến độc giả thích thú nhất lại là những câu có nhiều yếu tố Việt hơn là yếu tố Hán:
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
. . .
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
(Chinh Phụ Ngâm)
Vợ chàng quỉ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
(Đoạn Trường Tân Thanh)
Sang đầu thế kỉ XIX thì khuynh hướng bình dân thắng thế hẳn trong ngôn ngữ văn học của các tác giả nho sĩ, dù họ hiển đạt hay không gặp thời. Ngay khi họ sáng tác bằng các thể loại mượn của Trung Hoa như thơ, phú đường luật chẳng hạn, lời thơ, lời văn của họ cũng thiên về tính tự nhiên giản dị, rõ vẻ nôm na:
Chém cha cái khó! Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.
. . .
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
(Nguyễn Công Trứ, phú “Phong vị hàn nho”)
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc, không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
(Nguyễn Khuyến, “Tự trào”)
Thầy đồ thầy đạc, dạy học dạy hành;
Vài quyển sách nát, ba thằng trẻ ranh.
Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng thắm;
Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.
Xem thầy:
Râu rậm bằng chổi, đầu to tầy giành;
Đã lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo;
Cũng có lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh…
(Trần Tế Xương, ; phú “Thầy đồ”)
Như vậy, cùng với lịch sử tranh đấu của dân tộc Việt, ngôn ngữ và văn học Việt cũng đã phải tranh đấu chống sự đồng hoá (cùng nghĩa với tiêu diệt) để sinh tồn và phát triển. Đứng trước các thế lực ngoại lai có sức mạnh bạo tàn, ngôn ngữ và văn học Việt không những không chịu khuất phục, để mất cá tính, mà còn có khả năng tiếp thu những yếu tố thích hợp của ngôn ngữ và văn học nước ngoài, việt hoá chúng để trở thành một thứ ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa, và lập nên được một nền văn học đa dạng, đủ đáp ứng được nhu cầu thưởng thức và sáng tác của dân tộc ta vốn yêu thích văn học và quí trọng những giá trị tinh thần.
Đến đây, ta lại thấy nổi lên một đặc điểm nữa của ngôn ngữ và văn học Việt: đó là tính thống nhất. Thu nhận nhiều yếu tố ngoại lai, phát triển theo dòng lịch sử đầy sóng gió: cuộc đô hộ liên miên của người Tàu, cuộc Nam tiến chậm chạp và cũng không ít cam go trong đó sự giao thông cách trở bời hình thể địa lí nhiều núi rừng sông biển, bởi những cuộc nội chiến kéo dài (Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn, Nguyễn phúc- Nguyễn Tây Sơn), ngôn ngữ và văn học Việt đã không nẩy sinh những dị biệt quá đáng đến độ có những thổ ngữ khiến dân trong nước miền này không thể hiểu nổi miền kia, không phải áp đặt một thỏ ngữ nào làm ngôn ngữ chính thức cho cả nước (như tiếng Bắc Kinh ở Trung Hoa), không phải mượn một ngoại ngữ nào làm chuyển ngữ chung (như tiếng Anh ở Ân Độ và ở Philipinnes chẳng hạn).
Tiếng Việt suốt từ Bắc vào Nam là một, chỉ khác nhau về một số rất ít từ ngữ địa phương, hoặc về giọng nói cao thấp nặng nhẹ. Người Việt hễ nói lên là hiểu nhau, các tác phẩm văn chương hay đều được mọi người ở khắp nơi trong nưóc hiểu và thưởng thức. Người Việt dù sống ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam đều cảm thụ được cái hay vẻ đẹp của Truyện Kiều, của Lục Vân Tiên và của các tác phẩm văn học khác.
Đây là một yếu tố quan trọng cho sự đoàn kết nhất trí vào những thời điểm cần thiết của lịch sử. Thật vậy, ngôn ngữ và văn học Việt Nam chính là một chất keo gắn bó người Việt với nhau nhất là về tình cảm, đồng thời cũng là một thành tố trong niềm tự hào về “bốn ngàn năm văn hiến”. Sau cùng chúng tôi thiển nghĩ rằng tiếng Việt và văn học Việt cũng là một bằng cớ cho niềm tin tưởng ở khả năng thâu hoá, dung hoà, tổng hợpnhững dị biệt của dân tộc Việt để vượt qua mọi sóng gió thử thách và đi tới vinh quang.
Chú thích cuối chương thứ sáu
(1) Hai từ “nho hoá” và “dân hoá” được ông Đào Trọng Đủ dùng lần đầu tiên trong sách “Ca Dao Toán Học”. Sau đó các tác giả nghiên cứu chính tả và ngữ pháp dùng theo như Lê Ngọc Trụ trong “Chính Tả Việt Ngữ”, Bùi Đức Tịnh trong “Văn Phạm Việt Nam Cho Các Lớp Trung Học”, Trương văn Chình và Nguyễn Hiến Lê trong “Khảo Luận Về Ngữ Pháp Việt Nam”.
(2) Sau này Lí Thường Kiệt làm bài thơ “Nam quốc sơn hà”, Hưng Đạo Vương viết “Hịch tướng sĩ”, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” cũng đều dùng chữ hán làm lợi khí văn hoá chống đế quốc Hán để bảo vệ độc lập cho đất nước.
(3) Tương truyền Phùng Khắc Khoan là em cùng mẹ khác cha và cũng là học trò của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được anh khuyên vào Thanh Hoá theo giúp nhà Lê đang trung hưng ở đó và được trọng dụng ngay. Vào lúc ấy chắc nhà Lê chưa thể tổ chức thi cử gì được nên không thấy nói ông đỗ học vị nào. Sau ông đi sứ sang Tàu, vua Tàu thấy ông giỏi quá, phong cho ông học vị trạng nguyên (cũng như văn bằng danh dự ngày nay). Ông quê làng Phùng Xá (tên nôm là làng Bùng) nên người đời quen gọi ông là trạng Bùng.
(4) Nửa đầu thế kỉ XX, chúng tôi còn được nghe các cụ nhà nho dùng từ “chữ ta” để đối lại với “chữ quốc ngữ” là thứ chữ do Tây đem đến. Các gia đình nho học còn cấm con cháu không được dùng giấy có viết chữ nho vào các việc lau chùi bẩn thỉu, còn giấy viết chữ tây và chữ quốc ngữ thì tha hồ.
(5) Các thế hệ nho sĩ Việt về sau tôn Sĩ Nhiếp là “Nam Giao Học Tổ”. Điều này cần xét lại.
(6) Bùi Đức Tịnh trong cuốn “Văn Phạm Việt Nam”, đoạn nói về “đặc tính tiếng Việt” có nêu đặc tính thứ nhất là tiếng Việt rất giàu âm thanh. Ông cho rằng về âm vận, tiếng Việt vay mượn rất nhiều của Ấn ngữ và Hoa ngữ, hai thứ tiếng cổ nhất, có thể nói là nòng cốt của văn minh nhân loại. Do đó có thể nói Việt ngữ có hầu hết âm vận của ngôn ngữ loài người (…), Việt ngữ có đủ tám bậc của các thanh bình thượng khứ nhập: phù bình (không dấu), trầm bình (huyền), phù thượng (hỏi), trầm thượng (ngã). phù khứ (sắc), trầm khứ (nặng), phù nhập (tiếng có dấu sắc và có c, ch, p, t ở cuối), trầm nhập (tiếng có dấu nặng và có c, ch, p, t ở cuối).
(7) Sẽ bàn thêm trong chương sau nói về “các thú tiêu khiển…”.
(8) Chẳng hạn giai thoại về sự dan díu giữa Nguyễn Công Trứ với cô đào Hiệu Thư, hoặc khi đã về trí sĩ ông còn đưa ả đào lên chùa hát; hoặc giai thoại về bài hát nói “Gặp cô đầu cũ (Hồng Hồng, Tuyết Tuyết) của Dương Khuê.
(9) Nhà văn Phan Khôi chắc bực mình lắm khi viết trong “Chương Dân Thi Thoại”: “Nước Nam chẳng đời nào thấy tuyết, vậy mà trong thơ nôm thường thấy có những chữ tuyết phủ, tuyết ngậm thì thật là láo quá! Họ không sợ làm vậy rồi con cháu đời sau nó đọc đến nó tưởng đời chúng ta đây có tuyết mà đến đời chúng nó không có!”
(10) Tác phẩm “Sơ Kính Tân Trang” (Gương Lược Kiểu Mới) của Phạm Thái thì gần như là cuốn tự truyện trong đó tác giả kể lại mối tình tuyệt vọng của ông với Trương Quỳnh Như.