4
QUAN HỆ NAM NỮ, CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ ĐỊA VỊ NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI XƯA
♦
A. Quan hệ nam nữ và chế độ hôn nhân
- Quan hệ nam nữ tự do trong đời sống nông nghiệp
Đời sống xã hội con người từ thời kì du mục (săn bắn, hái quả tự nhiên) chuyển sang thời kì nông nghiệp định cư định canh thì chế độ gia đình dần dần thành hình với những cặp vợ chồng và con cái của họ ở riêng ra, có hoa lợi được chia hay kiếm ra để dành riêng. Dĩ nhiên gia đình cũng phải trải qua những giai đoạn tiến triển với những hình thức khác nhau trong những xã hội khác nhau. Và chắc chắn các tập tục lễ nghi để nâng cao tầm quan trọng của việc kết hợp nam nữ thành chế độ hôn nhân cũng đồng thời được qui định.
Trong đời sống nông nghiệp ở nước Việt xưa, công việc đồng áng đòi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ giữa nam và nữ, tuy có sự phân công như đàn ông làm việc nặng cần nhiều sức mạnh như cầy sâu cuốc bẫm, chặt cây làm nhà, bắc cầu đắp đường… nói chung là công việc thổ mộc; còn đàn bà làm công việc tương đối nhẹ hơn như cấy lúa, nhổ cỏ, gặt hái và những việc cần sự khéo tay tỉ mỉ như dệt vải, may vá, nấu nướng… Nhưng cũng có nhiều việc nam nữ có thể làm chung như gieo mạ, tát nước, bón phân v.v…
Cảnh trai gái cùng nhau làm việc ngoài đồng như chàng cầy nàng cấy, anh tát nước (gầu sòng), em nhổ mạ, hoặc đôi ta mỗi người một bên tát nước gầu dai là cảnh làm việc đồng áng thường thấy ở nông thôn. Sự cộng tác trong lao động dĩ nhiên phải cho phép nam nữ tiếp xúc tự do:
Bao giờ cho đến tháng hai,
Con gái làm cỏ, con trai be bờ.
cộng thêm với cuộc sống gần gũi thiên nhiên bao la đẹp đẽ, gợi hứng cho tình cảm nẩy nở:
Hỡi anh tát nước bên đàng,
Sao anh múc ánh trăng vàng đổ đi?
Do đó mà ta thấy trong ca dao, tiếng nói tình cảm của dân quê phần nói về tình yêu trai gái rất phong phú. Phong tục ở nhiều nơi vùng đồng bằng Bắc bộ với những hội hè đình đám vào mùa xuân tạo cơ hội cho trai gái tự do gặp gỡ tỏ tình, chọn người vừa mắt đẹp lòng để nên duyên chồng vợ cho thấy quan hệ nam nữ của dân tộc Việt vốn tự do cởi mở. Sinh hoạt xã hội nông nghiệp ở Việt Nam xưa chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết. Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, mở màn với ngày tết cho mọi người hưởng thụ kết quả lao động của cả một năm ròng rã vất vả: nào thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh; quần áo mới được đem ra chưng diện để đi lễ đình chùa, đi dự hội hè, đi chúc tụng nhau nuôi mầm hi vọng về một năm mới tốt lành phú túc hơn năm cũ.
Đầu năm như vậy cũng là địp tốt cho trai gái hẹn hò gặp nhau tỏ tình để trao duyên gởi phận. Tình yêu nam nữ với mục đích đi đến hôn nhân là nội dung chính trong các lối hát đúm, hát quan họ, hát trống quân trong hội hè vùng Bắc Ninh một thời là trung tâm của nền văn minh nông nghiệp vùng đồng bằng sông Nhị. Nét sinh hoạt đặc biệt này đã chính thức hoá và văn nghệ hoá những cuộc gặp gỡ giữa đôi bên trai gái hát đối đáp nhau để thử tài, để tỏ tình và khi hợp nhĩ hợp nhãn thì đi đến hôn nhân, lâu dần đã trở nên bộ môn nghệ thuật (dân ca, dân nhạc) được khuyến khích bằng những cuộc hát được tổ chức có treo giải thưởng đàng hoàng.
Quan hệ nam nữ tương đối tự do với tình yêu đôi lứa chiếm một phần quan trọng trong nội dung các tác phẩm văn chương bình dân như ca dao, truyện cổ, truyện nôm bình dân như Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Lí Công v.v… biểu lộ khuynh hướng tự do tình cảm nằm trong bản chất giàu tình cảm của dân tộc Việt từ thuở xa xưa. Chỉ khi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa với lễ giáo đạo Nho, thoạt đầu chủ trương điều hoà tình cảm, rồi sau đi đến chỗ khắt khe độc đoán, chiết toả tình cảm cá nhân, mới xuất hiện những quan niệm phân biệt nam nữ và ngăn cách hai bên bằng hàng rào lễ giáo.
Rước dâu
Rước dâu
Lễ gia tiên
2. Sự khuôn đúc tình cảm của lễ giáo đạo Nho
a) Sự xâm nhập của lễ giáo đạo Nho vào Việt Nam
Lễ giáo thành hình khi đời sống kinh tế phát triển đẩy nhu cầu văn hoá cao dần lên. Trong xã hội, lớp người quyền quí thấy cần qui định những lề lối cư xử để phân biệt giá trị cao hơn của mình so với đa số quần chúng. Khi tầng lớp người này nắm được quyền hành chính trị, họ muốn toả rộng ảnh hưởng của mình ra ngoài xã hội.
Lễ giáo đạo Nho bắt đầu xâm nhập Việt Nam từ thời Bắc thuộc (1) khi các viên quan cai trị, tức là các nho sĩ Trung Hoa giáo hoá dân thuộc địa An Nam sống theo tập tục nghi lễ Trung Hoa. Sử sách còn ghi lại tên mấy viên quan Thái thú Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên (tk I tr. Tl) “hết lòng lo việc khai hoá, dạy dân lấy điều lễ nghĩa…” và “dạy dân làm lễ cưới hỏi trong khi lấy vợ lấy chồng…” (2). Sau đó Sĩ Nhiếp (cuối tk II đầu tk III Tl) được ghi là có công mở mang Nho học tại Giao Chỉ và được giới nho sĩ Việt Nam sau này suy tôn là “Nam Giao Học Tổ”. Tuy nhiên phải đến thời kì độc lập, nhờ sự đào tạo của các vị thiền sư, tầng lớp nho sĩ Việt mới xuầt hiện và dần dần trưởng thành cùng với sự đứng vững của quốc gia Việt Nam độc lập (Lí, Trần). Khi đã nắm được vai trò lãnh đạo đất nước, họ lo truyền bá luân lĩ lễ giáo đạo Nho, coi đó như sứ mạng cao cả để duy trì một xã hội ổn định trật tự và có văn hoá.
Trong thời kì Nho học độc tôn (Hậu Lê, Nguyễn), nho sĩ được chế độ trọng dụng triệt để thì ảnh hưởng của luân lí lễ giáo đạo Nho trong xã hội phải mạnh. Nhưng mạnh tới đâu, có hoàn toàn chế ngự được cái bản chất giàu tình cảm và khuynh hướng sống tự do phóng khoáng của quảng đại quần chúng không lại là chuyện khác. Trong phạm vi quan hệ nam nữ thì chủ trương “nam nữ hữu biệt”, “nam nữ thụ thụ bất tương thân” của lễ giáo đạo Nho đã là hàng rào cản trở sự tự do tiếp xúc giữa nam và nữ với kết quả là tình yêu và hôn nhân được đặt để dưới sự kiểm soát và quyền quyết định của cha mẹ.
b) Qui tắc “nam nữ hữu biệt” và “nam nữ thụ thụ bất tương thân”
Viêc phân biệt nam nữ trong một số sinh hoạt công cộng có tính cách trang trọng (như các buổi tế lễ), hoặc trong những môi trường dễ khích động lòng vật dục là điều đương nhiên cần có trong một xã hội có văn hoá. Lễ giáo đạo Nho đặt ra qui tắc “nam nữ hữu biệt” cũng là để duy trì trật tự văn hoá, ngăn ngữa tệ tà dâm cẩu hợp. Trong hai mươi bốn điều giáo hoà để sửa phong tục ban hành đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) có hai điều nói rõ qui tắc này:
- Điều 16: Chỗ dân gian có mở trường du hí hoặc cúng tế thì con trai, con gái đến xem không được đứng lẫn lộn để khỏi thói dâm.
- Điều 18: Phủ, huyện phải lập bia ở các nơi sở tại để cấm con trai, con gái không được tắm chung một bến để có phân biệt.
(Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 245).
Ngay trong gia đình, con trai, con gái đến tuổi dậy thì (nữ thập tam, nam thập lục), cha mẹ đã phải cho chúng ngủ riêng giường, riêng phòng. Ngay giữa cha mẹ và con cái cũng phải giữ khoảng cách “con gái mười bảy không được nằm với cha, con trai mười ba không được nằm với mẹ”. Đời sống vợ chồng nơi phòng the cũng không được để lọt vào mắt con cái.
Phạm vi sinh hoạt càng mở rộng thì khoàng cách cần giữ giữa nam và nữ cũng mở rộng theo, hàng rào lễ giáo càng dầy chắc thêm để ngăn ngừa lòng dục cẩn thận hơn, vì các cụ nhà nho cũng rành tâm lí, biết con người dễ sa ngã: “nhân dục thắng, thiên lí vong” (lòng dục của con người mà thắng thì lẽ trời ─ tức luân lí đạo đức ─ phải mất). Câu chuyện trong sách Lã Thị Xuân Thu được tác giả cuốn Cổ Học Tinh Hoa trích dịch cho thấy lễ giáo đạo Nho gìn giữ rất cẩn thận trong việc giao tiếp giữa nam và nữ: một người đàn ông độc thân vào một đêm mưa bão không chịu mở cửa cho một bà hàng xóm cũng độc thân vào trú mặc dầu nhà bà nay bị đổ. Khi bị nói khích là sao không bắt chước ông Liễu Hạ Huệ ôm đàn bà vào lòng mà không “xẩy ra chuyện gì”, người đàn ông trả lời đại ý là vì không có “bản lãnh” như ông Liễu nên phải làm khác để vẫn giữ được như ông ấy. Hành động này được Khổng Tử khen. (Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tử An Trần Lê Nhân, “Cổ Học Tinh Hoa”, tập I, truyện 108 “Mong làm điều phải”).
Nhân truyện này của tàu, ta nhớ đến truyện của ta. Đó là “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên, nhân vật chính trong truyện, trên đường hạ san để về nhà sửa soạn đi thi, đã ra tay hành hiệp, cứu được cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp. Khi cô tiểu thư này định bước ra khỏi xe để tạ ơn ân nhân thì chàng hiệp sĩ kiêm nho sĩ họ Lục như chợt nhớ tới qui tăc “nam nữ thụ thụ bất tương thân” vội vã ngăn lại:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Công dụng của lễ giáo như nói ở trên là cần thiết. Nhưng câu nệ quá khiến qui tắc trở nên cứng nhắc thi lại làm trở ngại cho đời sống vốn phức tạp cần sự uyển chuyển thích nghi. Cho nên nhà nho cũng lại phải đặt ra qui tắc mềm dẻo “xử thường nhi chấp kinh, xử biến nhi tòng quyền” (lúc bình thường thì xử sự theo qui tắc dạy trong kinh sách, lúc nguy biến thì phải tuỳ hoàn cảnh mà xử sự cho thích hợp). Chính thầy Mạnh cũng nói rõ hai trường hợp kinh quyền này: đại ý là lúc bình thường nam nữ trao đồ cho nhau không được chạm tay, nhưng khi chị dâu té xuống nước sắp chết đuối mà em trai chồng không nhẩy xuống ôm cứu chị dâu lên thì là kẻ vô nhân đạo.
Trường hợp Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga ở trên là “biến”, giữ lễ quá là câu chấp, thiếu tự nhiên. Hoặc như một nàng công chúa trong “Đông Chu Liệt Quốc” phải bỏ kinh đô chạy loạn, lúc xuống thuyền vội vã phải vịn vào tay một viên quan hầu, thế là tự cho mình đã “thất tiết” với người ấy và nhất định chỉ lấy người ấy làm chồng để thủ tiết. Đó là kết quả của nền giáo dục Nho giáo trong đó lễ giáo được giữ gìn nghiêm nhặt, đồng thời là tiêu chuẩn để đánh giá cao thấp cá nhân và gia đình. Trong quan hệ nam nữ thì hậu quả là chế độ hôn nhân trong đó hai yếu tố quan trọng gắn liền nhau là tình yêu và tự do trở nên phụ thuộc, lu mờ.
3. Chế độ hôn nhân dưới ảnh hưởng của lễ giáo đạo Nho
a) Hôn nhân do cha mẹ định đoạt
Xuất phát từ chủ trương đề cao quyền tuyệt đối của cha mẹ (thật ra là quyền cha nhiều hơn vì là tôn phụ quyền), việc dựng vợ gả chồng cho con cái là bổn phận, đồng thời là quyền hành của cha mẹ. Cha mẹ chọn vợ cho con trai, kén chồng cho con gái sau khi xét đoán đối tượng theo quan điểm riêng, tiêu chuẩn riêng của các người mà không cần biết rằng con cái có bằng lòng người mà cha mẹ chọn lựa cho chúng hay không. Nếu cha mẹ có hỏi ý kiến con thì cũng là chiếu lệ và luôn luôn chờ đợi sự vâng lời; nhất là đối với con gái thì câu trả lời mà cha mẹ muốn nghe là “phận con là gái, cha mẹ đặt đâu, con xin ngồi đó”.
Tình yêu đối với các bậc cha mẹ thời xưa chỉ là yếu tố phụ, có thể đến sau hôn nhân, chẳng thế mà đã bao thế hệ các cụ lấy nhau, có cần biết nhau trước, có cần yêu nhau trước đâu mà rồi cũng sinh con đẻ cái, ăn đời ở kiếp với nhau, sống hoà thuận với nhau cho đến răng long đầu bạc. Đúng là trường hợp trên phổ biến trong xã hội xưa, song cũng không hiếm những trường hợp việc nhân duyên của con cái tan vỡ lỡ làng, khiến chúng phải hờn duyên tủi phận, ngậm đắng nuốt cay cả một đời vì cha mẹ không để cho chúng có được quyền yêu đương và chọn người bạn đời là người chúng yêu:
Đôi ta làm bạn thong dong,
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng;
Bởi chưng cha mẹ nói ngang,
Làm cho đũa ngọc, mâm vàng cách xa. (ca dao)
Có khi họ hàng ─ theo tinh thần gia tộc xưa ─ cũng có quyền ảnh hưởng đến việc hôn nhân của con trẻ:
Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi!
Bớ bạn nhân tình ơi!
Thân em như cái quả xoài trên cây,
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc
Nó đập lúc la lúc lắc trên cành,
Một mai rụng xuống biết vào tay ai?
Kìa khóm trúc, nọ khóm mai,
Ông Tơ bà Nguyệt se hoài chẳng thương.
Một lần chờ, hai lần đợi,
Sớm lần nhớ, trưa lần thương,
Anh thương em, nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương. (ca dao)
Thời xưa, những cuộc hôn nhân ngoài vòng lễ giáo, con cái vượt quyền cha mẹ, tự do kết hôn mà không được cha mẹ bàng lòng, làm lễ cưới hỏi theo tập tục thì bị chê bai lên án. Những cặp trai gái lấy nhau như thế thường không được họ hàng làng nước công nhận, có khi phải đem nhau đi làm ăn nơi xa, và chỉ trở về khi sự việc đã trở nên “chuyện đã rồi”, đã có con cái và ăn nên làm ra. Lúc đó thì vì thương lũ cháu, cha mẹ phải thừa nhận, và đôi vợ chồng chỉ còn xin nộp cheo cho làng để được chính thức công nhận.
Truyện Kiều có một thời bị các nhà nho cấm không cho phụ nữ đọc “đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều”, nàng Kiều bị nhiều nhà nho lên án là đã nêu gương xấu cho phụ nữ: mới chỉ gặp Kim Trọng một lần trong buổi chiều đi chơi thanh minh, đêm về đã tơ tưởng tới chảng:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Rồi mới chỉ được chàng ngỏ lời lần đầu tiên, Kiều đã ưng thuận đính ước với chàng, cùng chàng trao đổi của làm tin qua hàng rào ngoài vườn mà cha mẹ không hề hay biết. Tệ hơn nữa, thừa lúc cả nhà đi vắng, nàng dọn đồ ăn rồi xé rào sang nhà tình nhân, cùng chàng làm thơ tình tự cả một ngày; chiều đến thấy cha mẹ chưa về, nàng dám cả gan sang nhà tình nhân lần nữa, ở cả buổi tối, viết lời thề, đánh đàn cho chàng nghe cho đến lúc chàng… sóng lòng dào dạt, tỏ vẻ lả lơi, nàng mới lập nghiêm trở lại…
Những chi tiết kể trên trong Truyện Kiều, dầu là hư cấu, song vẫn có thể có thực; và nếu thế thì không thể chấp nhận được đối với lễ giáo đạo Nho; và ngược lại cũng chứng tỏ rằng lễ giáo thời xưa không hoàn toàn trói buộc, kiểm soát được tình cảm.
b) Kết hôn là làm tròn bổn phận hơn là hưởng thụ quyền lợi
Khi con cái đến tuổi lớn khôn, cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho chúng yên bề gia thất để chu toàn bổn phận làm cha mẹ. Về phần con cái, vâng lời cha mẹ lập gia đình cũng là thi hành một bổn phận: để cha mẹ được yên lòng về mình, sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường (đối với con trai), cho cha mẹ có cháu bế, được làm ông bà nội, ông bà ngoại, vì có con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại đông đúc đề huề là một thứ hạnh phúc mà một người bình thường nào cũng mong được hưởng trọn vẹn.
Như vậy hôn nhân trong xã hội theo lễ giáo đạo Nho, ngoài mục đích thông thường là lưu truyền nòi giống, còn có mục đích phục vụ chế độ đại gia đình và nền kinh tế nông nghiệp thô sơ cần nhiều nhân lực: sinh con trai là có thêm lực điền: chữ hán (男) “nam” gồm chữ “điền” là ruộng ở trên và chữ ‘lực’ là sức ở dưới; ở đây ta phải hiểu là nghề làm ruộng đáng quí trọng trong xã hội “dĩ nông vi bản” vì làm ra hạt gạo nuôi sống con người.
Nhưng quyền hành tuyệt đối đưa đến sự lạm dụng, dù trong phạm vi quốc gia (quân chủ chuyên chế: quyền vua tối thượng) hay trong phạm vi gia đình (quyền cha vô hạn) và gây ra những tệ đoan.
c) Những tệ đoan trong chế độ hôn nhân xưa
- Nạn ép duyên
Cha mẹ giữ trọn quyền chọn người phối ngẫu cho con cái, sự lựa chọn do đó tuỳ thuộc vào sự xét đoán của cha mẹ, có thể đúng về mặt lí trí, xuất phát từ những tình toán vị lợi để phục vụ quyền lợi của cả gia đình, hay quyền lợi riêng của cha mẹ, không kể đến ước nguyện tình cảm của con cái, miễn sao cho chúng như “đũa có đôi” là được. Chẳng hạn cha mẹ ép duyên con để được thông gia với nhà giàu có quyền thế để nhờ cậy, hoặc để mở rộng, củng cố thế lực. Việc hôn nhân của con cái được coi như cơ hội, phương tiện để liên kết tài sản, quyền lực, dẫn đến quan niêm “môn đăng hộ đối”.
Một thí dụ điển hình cho quyền độc đoán của cha mẹ trong việc hôn nhân của con cái là trường hợp quyết định theo ngẫu hứng; đôi bạn tri kỉ trong lúc chén tạc chén thù, hỏi đến con cái của nhau: à, bác có đứa con gái bằng ấy tuổi, tôi có thằng con trai xấp xỉ tuổi ấy, hai nhà chúng ta thông gia là đẹp quá rồi! Thế là đội trẻ đương nhiên thành vị hôn phu, vị hôn thê của nhau mà không cần biết mặt mũi, tính tình của nhau ra sao nữa. Có khi hai bà vợ mới chỉ mang thai, hai nhà đã hứa hôn cho hai cái bào thai. Thế là khi chào đời, hai hài nhi đã trở thành đôi vợ chồng chưa cưới nếu một đứa là trai, đứa kia là gái. Đó là trường hợp hai nhân vật Phan Tất Chánh và Trần Kiều Liên trong truyện Phan Trần (bào thai đã hẹn nhân duyên). Đúng là cha mẹ chọn thông gia hơn là chọn vợ kén chồng cho con.
Hậu quả là hôn nhân thiếu tự do, nhiều khi đi ngược lại ý muốn của con cái. Đôi vợ chồng ép uổng ấy khó có được hạnh phúc, dễ đi đến tan vỡ, hoặc nếu cố sồng chung với nhau cũng chỉ là chịu đựng nhau mà thôi. Việc hôn nhân như thế phó cho may rủi: hợp nhau, có hạnh phúc là duyên; xung khắc, phải chịu đựng nhau là nợ:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận.
(Trần Tế Xương)
Nhất là phái nữ thì đúng là trong nhờ đục chịu:
Phận gái như hạt mưa sa,
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng. (ca dao)
Cá nhân trong xã hội xưa bị xoá mờ, thì tình yêu, thứ tình cảm riêng tư nhất của cá nhân, cũng bị đặt xuống hàng thứ yếu.
- Quan niệm “môn đăng hộ đối”
Đó là sự tương xứng về mọi mặt giữa hai gia đình bên trai và bên gái, nhưng chủ yếu là về địa vị xã hội giữa hai ông xuôi gia, cốt để sự giao thiệp ─ tất nhiên là lâu dài ─ giữa đôi bên được xuôi xẻ. Nếu có sự chênh lệch thì cũng không quá đáng (thí dụ bên mười, bên bảy tám) để cho bên cao hơn khỏi mất thể diện. Có thể có sự chênh lệch nhiều giữa đôi bên trai gái mà vẫn nên duyên chồng vợ vì tình yêu cũng có lúc thắng thế:
Yêu nhau vạn sự chẳng nề,
Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. (ca dao)
Trong trường hợp này thì thường là người con trai có tài cao: học giỏi, có tiềm năng thi đỗ cao, làm quan to, tóm lại là có tương lai xán lạn thì mới ở địa vị thấp hèn mà lấy được cô tiểu thư đài các như truyện ông trạng Khiếu, con tên mõ làng mà lấy được con gái ông thượng thư; vả cũng do cô nàng có con mắt tinh đời. Ngoài ra người ta cũng tin ở duyên số nữa. Cũng với một số truyện nôm bình dân như Phạm Công – Cúc Hoa, Lí Công, Thạch Sanh… những truyện có thực hay tưởng tượng kể trên cũng biểu lộ khuynh hướng muốn san bằng giai cấp, đòi tự do luyến ái: nhân vật nam là kẻ khố rách áo ôm mà vẫn được các cô tiểu thư, công chúa yêu và lấy làm chồng; rồi do có tài đức mà phấn đấu vươn lên để xứng đáng với mối tình đẹp đẽ và chung thuỷ.
Trường hợp ngược lại thì thường có hơn: người con gái nghèo hèn nhờ có nhan sắc mà lọt được mắt xanh các cậu công tử, các vị vua chúa để được vào sống nơi đài các, được vời vào cung và trở nên hoàng hậu, vương phi như Ỷ Lan là cô gái hái dâu được vua Lí Thánh Tông đem về cung, rồi sinh hoàng tử mà trở nên hoàng hậu, rồi thái hậu; Đặng thị Huệ là cô gái hái chè trở thành bà chúa Chè (được chúa Trịnh Sâm sủng ái). Cho nên người ta mới nói:
Đàn ông quan tắt thì chầy,
Đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan. (ca dao)
Dù sao những trường hợp ngoại lệ trên cũng là số ít, con thông thường thì dù cho đôi trai gái yêu nhau, đã cùng nhau thề non hẹn biển mà cha mẹ không thuận vì thiếu môn đăng hộ đối thì họ chỉ còn biết nuốt lệ ôm mối hận tình mà cúi đầu vâng lệnh mẹ cha, vì bên tình bên hiếu thì nhất định hiếu phải nặng hơn tình trong cái xã hội mà lễ giáo ngự trị. Đau khổ vì tình yêu không thoả mãn là hậu quả tất nhiên của việc chọn vợ chọn chồng thay vì là quyền của các đương sự là con cái thì cha mẹ lại giành mất; thay vì để cho tình yêu mang tính tự do vô tư vô vị lợi thì gán tính cách ép buộc, tính toán vị lợi vào đó.
- Nạn tảo hôn
Đó là tục cha mẹ dựng vợ gả chồng cho con cái ngay từ lúc chúng còn vị thành niên, có khi còn ở tuổi nhi đồng, chưa biết gì đến việc vợ chồng cả. Thường là nhà giàu mà lại hiếm hoi, cha mẹ cần có người tin cậy để giúp đỡ trong công việc trông coi nhà cửa ruộng vườn nên dùng thế lực, tiền tài cưới cho cậu con trai mới mười một, mười hai tuổi một cô vợ mười chín, hai mươi tuổi. Đúng là cha mẹ mua nàng dâu hơn là cưới vợ cho con. Bên nhà gái lép vế (nghèo hèn) thì ham giàu sang nên ép duyên con:
Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng;
Em đã bảo mẹ rằng: đừng!
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp, vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng! (ca dao)
Những cặp vợ chồng “chị em” (chồng lớn vợ bé thì xinh, chồng bé vợ lớn ra tình chị em – ca dao) như vậy thường là nghịch cảnh cho người đời chế giễu, vì rất có thể là vợ phải… hỉ mũi cho chồng, tối tối rửa mặt mũi chân tay cho chồng rồi… bế chồng đi ngủ:
Mẹ em tham giàu
Ép em lấy thằng bé tỉ tì ti,
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ!
Đêm đêm em đem thân cho thằng bé nó giầy vò,
Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng.
Cũng đa mang là gái có chồng,
Chín đêm trực tiết nằm không cả mười.
Nói ra sợ chị em cười,
Má hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh.
Em cũng liều mình với thằng bé trẻ ranh,
Đêm nằm sờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn.
Buồn tình em lại bế nó lên,
Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì!
Nó ngủ nó ngáy khì khì
Một giấc đến sáng còn gì là xuân,
Bớ chị em ơi, hoa nở mấy lần? (ca dao)
Hậu quả rất có thể là tan vỡ: hoặc người con gái không chịu được cảnh mang tiếng có chồng mà cũng như không, còn tuổi hoa niên thì bất tái lai, lại bị chị em bạn chế giễu nên bỏ chồng, có thể là đi theo một chàng trai tơ nào đó. Hoặc người con trai lớn lên biết yêu đương, biết việc vợ chồng thì lại không ưng người vợ chênh lệch tuổi quá đáng, có thể là cái thời đang tơ mũm mĩm của người vợ lúc ấy đã qua rồi, nên bỏ vợ để lấy người xứng đôi vừa lứa hơn, hoặc anh chàng cưới một cô vợ lẽ trẻ đẹp hơn, còn người vợ cả tiếp tục già đi trong cảnh cô đơn.
Trường hợp ngược lại, người chồng hơn hẳn người vợ như anh cả – em út thì không sao cả; dĩ nhiên đừng quá xa như cha – con như câu ca dao sau đây chế giễu:
Em vô duyên vô phúc lấy phải ông già,
Ra đường người hỏi rằng: cha hay chồng?
vì thời gian người chồng chờ đợi không quá lâu như bài ca dao sau đây:
Lấy chồng từ thuở mười lăm,
Chồng chê tôi bé, không nằm với tôi.
Đến khi mười tám, đôi mươi,
Đang nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường, gẫy một còn ba.
Ai về nhắn nhủ mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
Còn tảo hôn như cô bé trong bài ca dao dưới đây thì lại quá tốt cho xã hội nông nghiệp cần tăng dân số thời xưa:
Quả cau nho nhỏ,
Cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần,
Mai anh học xa.
Em lấy anh từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con;
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
- Tính cách vị lợi: tục thách cưới, ở rể, kéo dài thời kì sêu tết
Đây là sự tính toán của nhà gái để thủ lợi tối đa về vật chất. Xuất phát từ quan niệm coi con cũng là một thứ của sở hữu nên cha mẹ gả chồng cho con gái cũng tính toán sao để thu được mối lợi tương xứng với công sinh thành dưỡng dục (!). Do đó có tục thách cưới, nghĩa là trong nghi lễ cưới hỏi có phần nhà trai phải đưa đồ sính lễ đến nhà gái theo yêu cầu của cha mẹ cô dâu (3). Yêu cầu đó có khi quá nặng đối với nhà trai. Do đó có từ “gả bán” cũng như cha mẹ bán con đi vậy. Nếu nhà trai cố gắng đáp ứng được yêu sách của nhà gái thì một là có cảm tưởng bị bắt bí (4), hai là mang công mắc nợ, rút cuộc đám cưới xong, cô dâu về nhà chồng lãnh hậu quả: bị cha mẹ chồng hằn học, có khi xỉ vả, coi như một món hàng mua phải giá đắt, phải hành cho đã, bắt nàng dâu phải nai lưng ra làm việc để trả nợ đám cưới.
Cũng có khi nhà gái thách cưới nhiều không phải vì nghèo mà tham, nhưng vì cha mẹ muốn giữ giá cho cô con gái (ngọc lành còn đợi giá cao). Bài ca dao trích sau đây tuy là ngoa ngữ (nói quá để đùa, hoặc để cho chàng trai biết không theo nổi mà tự ý rút lui, vì như thế là chàng không được nàng ưng ý), nhưng cũng phản ảnh tục thách cưới nặng thời xưa:
Em là con gái nhà giàu,
Cha mẹ thách cưới ra màu xinh sao!
Cưới em trăm tấm gấm đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
Sắm xe tứ mã đem sang
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu.
Ba trăm nón nghệ đội đầu,
Mỗi người một cái quạt tàu thật xinh.
Anh về sắm nhiễu Nghi đình,
May chăn cho rộng, ta mình đắp chung.
(…)
Thách thế mới thoả trong lòng,
Chàng mà theo được, thiếp cùng theo chân.
Ngược lại, tục ở rể là trường hợp nhà gái giàu muốn chọn chàng rể nhà nghèo mà giỏi giang, làm lụng chăm chỉ, cũng để đáp ứng nhu cầu về nhân công phục vụ nông nghiệp. Thời kì ở rể (chàng rể tương lai đến ở nhà vợ chưa cuới) gọi là để thử thách có thể kéo dài khiến chàng rể phài hùng hục làm việc phục vụ nhà vợ như một lao động không công, chỉ phải nuôi ăn như truyện Lê Như Hổ (triều Mạc) nổi tiếng ăn khoẻ làm khoẻ (5). Trong bài ca dao sau đây, anh chàng ở rể còn than thở bóng gió xa xôi với người vợ chưa cuới:
Công anh làm rể đã tài,
Ăn hết mười một, mười hai vại cà;
Giếng đâu thì dắt anh ra,
Kẻo anh chết với vại cà nhà em!
Đến bài ca dao sau đây thì chàng rể nói thẳng ra sự lợi dụng của nhà vợ tương lai:
Giời mưa cho ướt là khoai,
Công anh làm rể đã hai năm ròng.
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng,
Bắt anh tát nước, cực lòng anh thay,
Tháng chín mưa bụi gió bay,
Cất lấy gầu nước chân tay rụng rời!
Ấy là chưa kể đến cái thân phận “trai ở nhà vợ như chó chui gầm trạn” (tục ngữ). Tục sêu tết hàng năm vào những dịp tết nhất hay ngày giỗ bên nhà vợ chưa cưới, chàng rể tương lai cũng phải biện lễ vật gồm mùa nào thức ấy, của ngon vật lạ sang lễ và biếu cha mẹ vợ. Bên nhà gái kéo dài thời kì chưa cưới ấy có khi đến ba bốn năm để thủ lợi.
Các tục thách cưới, ở rể, kéo dài thời kì sêu tết có lúc trở thành tệ đoan khiến có triều vua phài ban hành những điều lệ để chấn chỉnh phong tục. Vua Lê Thánh Tông ban điều cấm “khi đã có lễ xin cưới rồi, thì không được để đến ba, bốn năm mới cho rước dâu. Sau khi đã nhận lễ hỏi, phải chọn ngày cho cưới”. (Thiên Nam Dư Hạ Tập, q, V và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q, XXI.). Vua Lê Huyền Tông (1663-1671) có 47 điều giáo hoá, điều 44 nói: “vợ chồng là gốc luân thường, lấy vợ lấy chồng phải theo lễ nghĩa, không được suy bì giàu nghèo, đòi nhiều tiền của”. (“Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính”, cả hai câu trích dẫn trên đều trích lại trong “Đất Lề Quê Thói” của Nhất Thanh).
- Tệ gian dối
Trai gái thời xưa ─ thuộc giới khá giả, nền nếp ─ không được gặp gỡ, tìm hiểu nhau trước rối mới đi đến quyết định thành hôn với nhau, vì cha mẹ đã giành quyền lựa chọn và định đoạt, nên cô dâu chú rể đến ngày cưới mới biết mặt nhau là chuyện thường. Lúc ấy thì ưng mắt hay không cũng là chuyện đã rồi. Do đó thỉnh thoảng cũng có vụ gian dối như đánh tráo cô dâu: nhà trai hỏi cưới cô em, nhưng đến lúc dâu rước về nhà trai lại té ra là cô chị xấu hơn, nhiều tuổi hơn, cần phải cho đi trước. Lúc đó thi nhà trai một là đành chấp nhận, hai là dẫn dâu trả về, đòi đúng “món hàng mình hỏi mua”. Trường hợp sau mà xẩy ra thì cả hai bên đều mất thể diện, nên họ phải cố thu xếp sao cho êm thắm. Thí dụ nhà gái dùng thế lực, tiền của để vừa o ép, vừa mua chuộc.
Lại có trường hợp “mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường” gặp nhau nên mới nẩy ra câu chuyện chế giễu đám cưới chàng rể diện bảnh bao, cưỡi ngựa, nhưng có cái nón dứa lúc nào cũng hất ra sau lưng; còn cô dâu thì lúc nào cũng cái quạt tàu che mặt cho đỡ e thẹn. Đến khi vỡ lẽ thì té ra chú rể gù lưng (hoặc chân khập khiễng), còn cô dâu thì … sứt môi! Thế là nồi méo đậy vung méo, xứng đôi vừa lứa quá rồi, bên nào cũng ngậm bồ hòn làm ngọt, còn trách ai nữa!
Trường hợp cha mẹ tự ý đính hôn cho con cái trước, rồi sau này đôi trai gái lớn lên, đôi trái tim lại cùng đập một nhịp như sự tình cờ may mắn xẩy ra trong truyện Phan Trần cũng là hoạ hiếm trong thực tế: Phan tất Chánh và Trần Kiều Liên đã được đôi bên cha mẹ (hai ông là bạn đồng liêu) ước hẹn từ lúc còn là bào thai. Lớn lên do hoàn cảnh gia đình hai bên, họ chưa kịp biết mặt nhau thì đã phải xa nhau. Kiều Liên chạy loạn, lưu lạc, phải vào tu ở một ngôi chùa thì sư cô trụ trì ở đó lại là cô của Phan sinh. Chàng thì sau kì thi hỏng, tìm đến cảnh chùa tịch mịch của cô để học tập sửa soạn dự thi khoa sau. Khi trông thấy ni cô trẻ đẹp Diệu Thường (pháp danh của Kiều Liên), chàng đem lòng say mê. Khi bị Diệu Thường cự tuyệt, Phan sinh định liều mình, lúc đó hai bên mới nhận ra nhau nhờ vật làm tin là quạt ngà , trâm ngọc mà cha mẹ đôi bên đã trao đổi từ xưa. Sau đó Phan sinh thi đậu thám hoa và đón ni cô Diệu Thường hoàn tục (vinh qui cùng với vu qui một ngày).
Đối với lễ giáo đạo Nho, Phan sinh đã phạm nhiều lỗi: yêu một người đã xuất gia tu hành, lỡ Diệu Thường không phải là Kiều Liên thì chàng đã tự ý trái ước của cha mẹ; nếu nàng là một nguời nào khác mà đã quyết tâm dứt bỏ lòng trần thì chàng đã phá rối cuộc đời tu hành của người ta. Chưa hết, khi bị từ chối tình yêu, chàng toan tự tử, thế là quá uỷ mị và quên bồn phận làm tôi làm con. Bởi vậy các cụ nhà nho cấm con trai không được đọc Phan Trần vì nhân vật chính trong tác phấm đã nêu gương xấu cho phái nam:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
(Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều).
4. Sự hạn chế của ảnh hưởng của lễ giáo đạo Nho trong đại chúng
a) Đòi hỏi tình yêu chính đáng được tự do
Đối với quảng đại quần chúng Việt sống bằng nghề nông quanh năm lam lũ với công việc đồng áng, cần sự cộng tác giữa nam và nữ thi qui tắc “nam nữ thụ thụ bất tương thân” là một chuyện khôi hài:
Bao giờ cho lúa chín vàng,
Cho anh đi gặt, cho nàng đem cơm. (ca dao)
Nam nữ gần gũi nhau cũng như lửa gần rơm, tình yêu tất phải nẩy nở. Mà tình yêu chân thật chỉ có thể nẩy nở trong tự do. Bởi vậy lễ giáo đạo Nho mà gò bó quá thì không thích hợp với cuộc sống giữa thiên nhiên bao la, với tâm hồn mộc mạc chất phác, ưa sự giản dị, lại giàu tình cảm của đa số dân chúng nông thôn Việt Nam.
Cho nên những qui tắc lễ giáo chỉ được tuân thủ kĩ lưỡng ở những gia đình quyền quí thôi. Song như thế không có nghĩa là đại chúng ưa sống buông thả. Dân tộc Việt vốn có tinh thần cởi mở, lại biết phục thiện và có óc cầu tiến, nên lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận những cái hay cái đẹp du nhập từ bên ngoài. Khi giáo lí của đức thánh Khổng và của thầy Mạnh được quảng bá trên đất nước này dù bởi các ông quan cai trị người Tàu hay bởi tầng lớp nho sĩ Việt thì dân ta vẫn vui vẻ tiếp thâu, vì đạo lí làm người thì xã hội nào cũng cần, thời đại nào cũng không thể thiếu. Nhưng dân tộc Việt biết tiếp thu có chọn lọc, điều gì cần thiết và thích hợp thì giữ, điều gì không thích hợp thì bỏ; nếu có sự cưỡng ép, áp đặt thì tìm cách chống lại.
Chẳng hạn trong bài ca dao sau đây, lễ giáo đã được dạy cho cô gái phải biết từ chối những mối liên hệ nam nữ không đoan chính, qua mặt lễ giáo:
Sáng ngày em đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng: cô ấy vội vàng đi đâu?
Thưa rằng: em đi hái dâu.
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng: bác mẹ em răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người!
Nhưng lễ giáo không thể ngăn cấm được những cuộc giao duyên nam nữ tự nhiên chính đáng đã trở thành phong tục của quảng đại quần chúng lao động sống theo nông nghiệp mở hội đầu xuân. Sau đây là cảnh một ngày hội xuân ở vùng Nghĩa Lộ, Yên Bái:
Ngày hội mở vào tháng ba, tháng tư, trước khi có hạt mưa rào và bắt đầu bước vào công việc đồng áng. Chỗ hội họp là động Thẩm Lệ, có tiếng là nơi linh thiêng, ngày thường không ai dám lai vãng, sợ động chạm đến quỉ thần. Nhưng đến ngày hội thì trai thanh gái lịch, tự do kéo nhau lũ lượt vào động để hát đối giao duyên. Từ các thôn trại rất hẻo lành xa xôi, họ rủ nhau đến. Tới cửa động, bên gái liền vào đứng xếp hàng một bên trong động đợi chờ. Bên trai thắp các ngọn đuốc lên, tay cầm đuốc đi diễu qua trước mặt các cô nàng, cố soi vào tận mặt để xem mặt. Khi một anh chàng đã tìm thấy ý trung nhân rồi, anh ta liền dừng lại trước mặt nàng rồi cất tiếng hát, Nghe anh xướng hát xong, nếu cô nàng ưng ý thì liền ngồi sụp xuống để tỏ ý bằng lòng.
Nếu sau khi đã xướng hát rồi, chờ mãi không thấy nàng ngồi xuống, ấy là anh đã biết cô không bằng lòng, chỉ còn cách đi khỏi.
Ở trường hợp chàng được nàng ưng ý ngồi xuống rồi thì chàng tắt đuốc đi và cùng ngồi xuống bên cạnh nàng. Bấy giờ hai bên vịn vai nhau mà hát đối, câu hát trao tình càng ngày càng thân mật. Ví dụ chàng xướng lên:
Anh xin em
Cho tay cầm tay,
Cho vai kề vai,
Hãy xích lại đây,
Dù anh chẳng được hơn người,
Em đừng ruồng rẫy cho anh đây lạnh lùng.
Để cho sa nhân mọc cạnh khóm gừng,
Hỡi người thục nữ,
Xin đừng lánh xa ra…
Người con gái sẽ trả lời một cách nhún nhường, tự cho mình là xấu, không dám sánh vai với người quân tử, hoặc bằng cách lo lắng đến dư luận làng xóm:
Hỡi chàng quân tử của em ơi,
Nay em sàm sỡ,
Sợ làng nước chê cười em trăng hoa.
Này cô em, cô đẹp như hoa,
Lòng anh đã quyết một nhà với cô.
Phận em là phận má đào,
Nên chăng trời định biết sao bây giờ.
Chẳng nên, riêng chịu tiếng hư,
Hỡi người quân tử, bây giờ biết tính sao?
Đất thấp lại trời cao,
Dù cho đến chết em nào dám quên!
Gặp nhau đây ta hãy phỉ nguyền,
Chết đi em hoá làm nước, anh liền làm cá để theo em.
Chết đi, em làm ruộng tư điền,
Anh chết theo làm lúa ở bên không dời.
Chết đi, em làm rượu em ơi!
Anh làm cần hút, đời đời em chẳng xa anh.
Chết đi, em làm cây chàm xanh,
Anh nguyện làm khăn mặt cho mình nhuộm ta.
Chết đi, em làm cây dưa,
Anh nguyện làm cây tre ngà để em quấn vào anh…
(Nguyễn Đăng Thục, trích của Henri Maspéro, “Tư Tưởng Việt Nam, Tư Tưởng Triết Học Bình Dân”).
Trong trường hợp trên, sau khi nghe chàng trai tỏ tình yêu tha thiết, cô gái cảm động đáp lại hàm ý rằng hai bên đã yêu nhau chí tình như vậy thì không một trở lực nào ─ kể cả lễ giáo ─ có thể ngăn nổi họ nên vợ nên chồng:
Ai ngăn được con chim nó đậu cành,
Ngăn đàn ông lấy vợ, ngăn mình lấy ta!
Con chim bay trên không, con cá lội giang hà,
Làm sao mà mắc lưới, ai ngăn được đàn bà có chồng con!
Một duyên một kiếp cho vuông tròn.
Còn khi bề trên mà dùng lễ giáo ngăn cấm quá đáng thì bề dưới muốn nổi loạn: “khi xưa ai cấm duyên bà, bây giờ bà già bà cấm duyên tôi?”
b) Ngược lại lề thói nữ thụ động, nữ bình dân lại chủ động
Các cô tiểu thư đài các đến tuổi cập kê sống theo lễ giáo lại cấm cung trong phòng khuê. Việc nhân duyên do mai mối rồi do cha mẹ định đoạt. Thảng hoặc có dịp đặc biệt đi ra ngoài thì phải có người nhà như anh em trai đi bảo hộ, như hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân đi chơi xuân có Vương Quan đi theo (nhưng chính vì có Vương Quan là bạn làm nhịp cầu, Kim Trọng mới đến gần hai nàng để nói chuyện với Vương, từ đó nổ ra “tiếng sét ái tình” giữa Kim và Kiều). Nếu chàng trai nào may mắn gặp được giai nhân, dù đôi bên cùng lọt mắt xanh của nhau thì chàng trai vẫn phải tích cực săn đón tìm đủ cách đề gặp lại người đẹp để tỏ tình. Như Kim Trọng sau lần đầu gặp Thuý Kiều đã choáng váng ngây ngất, về nhà là tương tư ngay. Chàng tìm đến tận nhà nàng thấy “thâm nghiêm kín cồng cao tường” nên phải mày mò thuê căn phòng của nhà bên cạnh, tiếng là để trọ học, nhưng thất ra là để
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông
hàng tháng trời mới có dịp thấy được nàng ra vườn và, may mắn làm sao nàng lại bỏ quên cái thoa vàng trên cành đào. Lập tức chàng nắm lấy cơ hội ngàn năm một thuở…
Một số truyện khác như Phan Trần, Hoa Tiên, các chàng trai mặc dầu đã thừa điều kiện bằng vai phải lứa với người đẹp, vẫn phải nhờ mai mối, đi vòng vo mất khá nhiều công phu mới tới được đích: Phan sinh phải nhờ bà vãi già ở chùa làm liên lạc viên với ni cô Diệu Thường, Lương sinh dù đã là con bạn của Dương công (cha Dao Tiên) được đến nhà chơi, vẫn phải nhờ hai nữ tì của người đẹp Dao Tiên làm “nội công” nói vun vào với nàng mới thành công (sau đó nhờ có chế độ đa thê, Lương sinh đã “trả công” hai cô nữ tì bằng cách… nạp cả hai cô làm tiểu thiếp!)
Nhưng với đại chúng bình dân thì khác hẳn. Họ đâu đề mất nhiều thì giờ và công phu như vậy. Vì họ còn phải lo làm ăn, lo công việc đồng áng. Cho nên sự việc diễn ra giản dị hơn, mau mắn hơn, và nhất là bên nữ lại tỏ ra chủ động tích cực hơn nhiều! Theo phong tục cổ truyền của dân ta thì “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là thứ lễ vật không thể thiếu được trong hôn lễ; và nhà trai phải đem trầu đến nhà gái để chạm ngõ, giạm hỏi… Nhưng trong đời sống thực tế phản ảnh trong những bài ca dao trích dẫn dưới đây thì bên nữ rất nhiều khi lại “tấn công” trước:
Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tàu,
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thật là say,
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng;
Dù chăng nên vợ nên chồng,
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương!
Trường hợp trên là công khai, còn nếu có hàng rào lễ giáo chắn lối thì cô nàng sẵn sàng xé rào:
Trầu này trầu quế, trầu hồi,
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi lấy mình,
Trầu này trầu tính trầu tình,
Trầu nhân trầu nghĩa, trầu mình lấy ta.
Trầu này têm tối hôm qua,
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng (…)
Cái cảnh chàng trai đi trên đường bị các cô thợ cấy dưới ruộng (không quen biết gì cả) hát chọc ghẹo, không cần biết chàng đã có vợ hay chưa là cảnh rất thường thấy ở thôn quê:
Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại, em than vài lời.
Đi đâu vội mấy anh ơi!
Việc gì đã có chị tôi ở nhà.
Trong phần ca dao nói về tình yêu, tình ở các cô gái tỏ ra rất mãnh liệt, như sóng tràn bờ, không gì ngăn nổi. Trong đa số các truyện nôm do giới nho sĩ bác học sáng tác, thường là chàng trai bị tiếng sét ái tình làm cho choáng váng trước (Bích Câu Kì Ngộ, Phan Trần, Hoa Tiên, Đoạn Trường Tân Thanh…), nhưng trong ca dao thì bên nữ lại hay bị ngọn lửa tình bén trước. Ta hãy đọc vài bài:
Đêm qua trời sáng trăng rằm,
Anh đi qua cửa, em nằm không yên…
Đêm qua mưa bụi gió bay,
Gió rung cành bạc, gió lay cành vàng.
Em với anh cùng ở khác làng,
Nào em có biết ngõ chàng ở đâu.
Một thương, hai nhớ, ba sầu,
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu ngậm hơi.
Thương chàng lắm lắm chàng ơi!
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than?
Muốn than mà chẳng được than,
Kìa như đá đổ bên ngàn lau tây.
Đá đổ còn có khi đầy,
Thương chàng biết thủa nào khuây hỡi chàng?
Trong cả hai bài ca dao trên, bên nữ tuy thổ lộ nỗi lòng trước, nhưng còn tỏ ra thụ động, đến như mấy cô nàng trong bài sau đây thì thật là sấn sổ, xắn lăn vào chàng trai:
Thiên duyên kì ngộ gặp chàng,
Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau.
Tiện đây ăn một miếng trầu,
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là?
Xin chàng quá bước về nhà,
Trước là trò chuyện, sau là nghỉ chân.
Anh đã có vợ con chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
Mẹ già anh ở nơi nao,
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Chẳng tham nhà ngói rung rinh,
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười.
Miệng cười đáng giá mấy mươi,
Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm.
Trong đời sống cộng tác lao động ở nông thôn, tình yêu nẩy nở trong lòng đôi trai gái và họ trực tiếp bày tỏ với nhau. Cuộc hôn nhân sẽ thành tựu không cần mối lái, hoặc nếu có thì cũng chỉ là hình thức chiếu lệ, khác hẳn với cảnh tin đi mối lại ở giới quyền quí. Chàng trai trong bài ca dao sau đây tỏ tình đi ngay vào đề:
Mặt trời đã ngả về tây,
Cô kia cắt cỏ bên đầy bên vơi;
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho tôi cắt với làm… đôi vợ chồng!
Người nông dân vốn ưa thực tế. Họ trồng cây là nhằm ngày hái quả. Cho nên trai gái thôn quê yêu nhau, tỏ tình với nhau là tính ngay đến việc vợ chồng, dù rằng lời tỏ tình có thể bóng bẩy như bài ca dao “Tát nước đầu đình” hoặc như mấy câu sau đây:
Đường đi thì hãy còn xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người;
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như… mình!
c) Phát lộ tình cảm mãnh liệt, bất chấp lễ giáo
Một trong những công dụng của lễ giáo ─ sản phẩm của lí trí ─ là điều tiết tình cảm, không cho nó dẫn đến hành động mù quáng. Nhưng khi lễ giáo trở nên khắt khe, chiết toả tình cảm quá đáng, ắt đi đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”, tình cảm sẽ bung ra bứt phá xiềng xích lễ giáo. Hoặc trong một hoàn cảnh ngang trái nào đó, tình cảm cũng đòi hỏi sự đáp ứng thoả đáng cho nó mà không cần biết đến lễ giáo.
Chẳng hạn một cô gái ở vào hoàn cảnh lỡ thì vì trai thiếu gái thừa đến độ phải cất lời hỏi:
Của chua ai thấy chẳng thèm,
Em cho chị mượn chồng em vài ngày. (ca dao)
để rồi được trả lời:
Chồng em nào phải trâu cày,
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm. (ca dao)
Trong các truyện nôm do giới nho sĩ hiển đạt sáng tác, các mối tình nam nữ thường tỏ ra đoan trang chính đính, nhất là tình cảm do các nhân vật chính diện biểu lộ. Nhưng ở giới bình dân thì họ nói ra cả những mối tình ngang trái như trong bài ca dao “Nụ tầm xuân”, một thiếu phụ than tiếc cho người hợp ý mình đến quá trễ, điều này xem ra chẳng khác gì một thứ ngoại tình trong tâm tưởng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân;
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay!/
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu;
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra? (8)
Đi xa hơn nữa, giới phụ nữ bình dân còn chống đối mạnh mẽ chủ trương tôn nam quyền quá đáng như sẽ đề cập ở một đoạn sau.
B. Địa vị của người phụ nữ Việt trong gia đình và ngoài xã hội dưới ảnh hưởng của Nho giáo
Theo các nhà xã hội học thì hình thức gia đình đầu tiên của nhân loại là theo mẫu hệ. Nhưng trong lịch sử Việt Nam thì thời đại xa xưa nhất mà ta biết được là thời đại Hùng vương; mà trong thời đại này chế độ phụ hệ đã được xác lập. Đồng thời trong xã hội phụ hệ này, ta cũng không thấy địa vị người phụ nữ thấp kém nhiều so với nam giới. Truyện Chử Đồng Tử – Tiên Dung lại cho thấy vấn đề luyến ái và hôn nhân được tương đối tự do đối với dư luận xã hội.
Đầu kỉ nguyên dương lịch, việc Hai Bà Trưng tập hợp được dân chúng trong nước, lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa gỡ bỏ ách thống trị của ngoại bang rồi lên cầm quyền lãnh đạo quốc gia chứng tỏ người phụ nữ Việt từ thời xa xưa không những không bị nam giới coi thường lấn át, mà còn có địa vị quan trọng trong xã hội nữa.
Cho tới khi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa với nền luân lí Nho giáo chủ trương tôn quân quyền, tôn phụ quyền, tôn phu quyền, nói chung là tôn nam quyền lan rộng, do Nho học được chính quyền quân chủ tôn sùng thì địa vị và giá trị người phụ nữ mới bị hạ thấp nhiều so với nam giới.
- Sự biểu hiện quan niệm “nam tôn nữ ti”
Trong phạm vi quốc gia mà quyền vua là tối thượng, tất yếu trong gia đình quyền cha là tuyệt đối và hệ luận đương nhiên là quyền chồng vượt lên trên quyền vợ. Câu tục ngữ “ăn tuỳ chủ, ngủ tuỳ chồng” cho thấy quyền làm chồng tương đương với quyền làm chủ. Thực tế trong xã hội Việt xưa, quan niệm “chồng chúa vợ tôi” không được nói đến nhiều, nhưng đại khái các quan niệm và chế độ sau đây đã đưa đến tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ.
a) Quan niệm “trọng nam khinh nữ” trong gia đình
Trước hết vì theo phụ hệ nên người chồng người cha làm gia trưởng, con cái đều lấy họ cha; con trai nối dõi tông đường và lại có bổn phận sinh con trai để dòng họ được tiếp nối mãi mãi. Còn con gái lớn lên, đi lấy chồng thì theo về nhà chồng:
Thuyền bồng trở lái về đông,
Mẹ gọi mặc mẹ, theo chồng cứ theo. (ca dao)
và trên nguyên tắc không còn bổn phận nặng nề nào đối với gia đình cũ gồm cha mẹ, anh chị em ruột nữa, vì kể từ lúc về nhà chồng, họ có bổn phận “gánh vác giang san nhà chồng”; bao nhiêu bồn phận nặng nề khác đang chờ đợi họ: làm vợ, làm dâu, làm mẹ. Người đàn bà phải coi gia đình chồng là gia đình mình, bản thân mình là người nhà chồng. Do đó con gái bị coi là “nữ nhân ngoại tộc”, còn con dâu mới là người nhà mình:
Con gái là con người ta,
Con dâu mới thực mẹ cha mua về. (ca dao)
Lại theo phụ hệ thì con cái gọi gia tộc bên cha là họ nội, gia đình bên mẹ là họ ngoại; và dĩ nhiên họ nội phải thân hơn họ ngoại:
Con cô con cậu thì xa,
Con chú con bác thực là anh em. (ca dao)
Cậu chết, mợ ra người dưng,
Chú tôi có chết, thím đừng lấy ai! (ca dao)
Một cặp vợ chồng, dù không phải là trưởng ngành họ (trưởng chi) hay trưởng tộc, cũng cần phải có ít nhất một đứa con trai để thờ cúng mình sau này, nếu không thì coi như vô hậu hay tuyệt tự (9). Còn con gái có bao nhiêu đứa, chúng cũng sẽ về nhà chồng hết, nên người ta mới cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (10). Đối với dòng họ tiếng tăm, giàu có thì việc có con trai càng cần thiết để thừa kế gia tài, thờ cúng tổ tiên, nếu không là điều đại vô phúc. Mạnh tử nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (11).
Hậu quả là trong gia đình, con trai được ưu đãi hơn con gái: được đi học chữ nghĩa để hi vọng thi đậu làm quan làm vẻ vang cho gia đình, dòng họ; khi cha mẹ chia gia tài thì con trai bao giờ cũng được phần hơn:
Tua rua đã mọc ngang đầu,
Sao em ở vậy làm giàu cho cha;
Giàu thì chia bảy chia ba,
Phận em là gái được là bao nhiêu! (ca dao)
đặc biệt con trai trưởng có bổn phận thờ cúng cha mẹ, ông bà… thì phần gia tài được chia phải lớn hơn (thêm phần ruộng hương hoả):
Bốn con ngồi bốn góc giường,
Mẹ ơi mẹ hỡi, mẹ thương con nào?
Mẹ thương con út mẹ thay,
Thương thì thương vậy, chẳng tày trưởng nam! (ca dao)
Còn con gái thì cần học nữ công gia chánh để sau này làm tròn bổn phận tề gia nội trợ cho chồng, mà không được học chữ nghĩa. Một số gia đình còn sợ rằng cho con gái học chữ chỉ tổ nó viết thư cho trai. Bởi vậy có tình trạng đại đa số phụ nữ ─ kể cả con nhà khá giả ─ không biết đọc biết viết. Một vài nhà quyền quí chiều con gái cho học chữ ở nhà cũng chỉ là biết chơi thôi, vì thi cử làm quan là việc dành riêng cho nam giới (học chữ xưa kia chủ yếu để thi đỗ làm quan). Ngoài ra ở những làng có nghề đặc biệt tinh xảo, người ta muốn giấu nghề để độc quyền sản xuất một món hàng nào đó nên đặt ra lệ cấm dạy nghề ấy cho con gái chưa chồng (chỉ dạy nghề cho phụ nữ đã lấy chồng người làng), vì nếu con gái biết nghề mà lấy chồng nơi khác, sẽ đem nghề ra ngoài mất, và làng sẽ mất độc quyền.
b) Quan niệm “nam ngoại nữ nội” và “phụ nhân nan hoá”
Do bản chất tự nhiên, phái nữ thường kiên nhẫn, tỉ mỉ, khéo léo hơn phái nam nên những công việc trong nhà cần những đức tính ấy như nấu nướng, dệt, thêu, đan, may v.v… thích hợp với họ hơn, Còn phái nam mạnh bạo, mưu trí hơn thì thích xông xáo ra ngoài để làm những công việc đòi hỏi sức mạnh và trí lực để đua tranh với đời như nghề võ (cung kiếm, thao lược để làm quan, tướng võ), nghề văn (học kinh sử, thơ phú để làm quan văn). Từ đó có sự phân công nam ngoại nữ nội khiến người phụ nữ chỉ ở trong nhà làm việc nữ công nội trợ để phục vụ gia đình; lúc còn là con gái thì phục vụ gia đình mình, lúc đi lấy chồng thi phục vụ gia đình chồng.
Các nhà xã hội học giải thích rằng chế độ phụ hệ cực thịnh với quyền người đàn ông lấn lướt hẳn người đàn bà là do nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh. Xã hội cũng đã tiến hoá đến mức cần có sự phân công rõ rệt giữa nam và nữ, khác với xã hội thô sơ ban đầu. Người đàn ông nắm ưu thế trong sản xuất ra của cải, trong khi người đàn bà do phân công, nhất là do bận sinh nở và chăm sóc con cái, mất dần địa vị ưu thế ban đầu so với đàn ông và trở nên lệ thuộc đàn ông về mặt kinh tế. Rồi những người đàn ông giàu có, nhiều quyền lực (lúc đầu là tù trưởng các bộ lạc, sau là lãnh chúa các vùng, sau nữa là vua, quan, nói chung là giới quí tộc) đem nhiều lễ vật, của cải đến nhà gái “cưới” (với ý niệm mua) vợ về, coi như thuộc quyền sở hữu của mình, và nhất là để bảo vệ độc quyền chiếm hữu ấy thì phải hình thành hẳn họi sự phân công đi đôi với nền luân lí buộc người đàn bà phải ở trong nhà, giảm thiểu cơ hội ra ngoài tiếp xúc với người lạ (thí dụ tục con gái nhà quyền quí bên Tàu phải bó chân, cấm cung trong phòng khuê). Người ta cho rằng người “nữ” 女 mà ở trong nhà 家 (gia) thì gia đình và xã hội đều được “yên” 安 ; và hiện tượng “gà mái gáy” ─ ý chỉ người đàn bà xông xáo ra ngoài xã hội xen vào việc của nam giới, nhất là việc quốc gia đại sự, việc triều chính ─ là điều bất tường.
Một nguyên do nữa ngăn cản người phụ nữ ra ngoài hoạt động xã hội là quan niệm sai lầm “phụ nhân nan hoá” (người đàn bà khó dạy, khó cải hoá) bởi lẽ rất dễ hiểu là ngay từ đầu người ta đã sợ cho phụ nữ đi học rồi thì trí thông minh của họ làm sao phát triển được?
Hậu quả ─ thêm một phần cũng do tính ích kỉ của đàn ông ─ là đời sống của giới phụ nữ bị thu hẹp trong bốn bức tường gia đình, hoặc như chính các bà than thở chỉ quanh quanh ba xó bếp mà không biết gì đến xã hội bên ngoài, bỏ phí biết bao tài năng của già nửa lực lượng xã hội như nhiều trường hợp đã chứng tỏ là phụ nữ cũng giỏi giang trong bất cứ lãnh vực nào, có lúc bọn mày râu theo không kịp, văn thì như Hồng Hà nữ sĩ, bà huyện Thanh Quan, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, võ thì như Hai Bà Trưng, Bà Triệu cùng các vị nữ tướng của Các Bà, nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Trong xã hội xưa không thiếu gì các bậc lang quân nên danh nên giá không những là nhờ bà vợ đảm đang tháo vát, nuôi chồng từ lúc còn là bạch diện thư sinh cho đến khi rồng mây gặp hội, mà còn nhờ tài ngoại giao khéo léo của các bà chỉ cho chồng đường đi nước bước, nắm đúng cơ hội tiến thủ. Đó là ý nghĩa của câu tục ngữ “giàu vì bạn, sang vì vợ”. Cũng nửa sau câu tục ngữ trên còn chỉ trường hợp ông chồng có bà vợ có tài tổ chức công việc trong gia đình đâu ra đấy, có nền có nếp, khiến ai đến nhà cũng phải thấy phong cách sang trọng, đáng kính nể. Người đàn bà trong tất cả các trường hợp trên đều rất đáng phục, trong khi người đàn ông ở vào hoàn cảnh đó rất có thể “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”:
Khi xưa anh bủng anh beo,
Tay bưng chén thuốc lại đèo múi chanh;
Bây giờ anh mạnh anh lành,
Anh tham nhan sắc, anh tình phụ tôi! (ca dao)
Hoạt động xã hội, tức là hoạt động tập thể vượt khỏi phạm vi gia đình gia tộc thích hợp với các bà các cô thời xưa thông thường là trong lãnh vực tôn giáo, nghệ thuật như hội các già để đi hành hương lễ Phật ở các chùa danh tiếng như chùa Hương (Mĩ Đức, Hà Đông), chùa Thầy (Sài Sơn, Sơn Tây), lễ hội đền Hùng (Phú Thọ), đền đức Thánh Trần (Kiếp Bạc, Hải Dương), lễ hội các vị Thánh Mẫu như bà chúa Liễu (Phủ Giầy, Nam Định), đền Sòng (Thanh Hoá), tụng niệm cầu an, cầu siêu, hội các cô rước lễ và tế nữ quan (tế Hai Bà, tế Thánh Mẫu), các hội hát đúm, hát trống quân, hát quan họ v.v…
c) Đạo tam tòng và qui tắc phu xướng phụ tuỳ
Đạo tam tòng rõ ràng coi người phụ nữ suốt đời như vị thành niên: lúc còn là con gái ở nhà phải phục tùng cha, khi về nhà chồng phải phục tùng chồng, nếu chồng chết trước thì phải sống theo con trai lớn. Như vậy người phụ nữ không có quyền tự do quyết định đời mình: lúc còn là con gái thì quan trọng nhất là việc hôn nhân thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, lúc về làm vợ thì chồng đưa ra ý kiến gì vợ phải nghe theo (phu xướng phụ tuỳ). Ấy là chưa kể ngoài bổn phận chiều chồng thương con, người phụ nữ còn phải chiều cả gia đình nhà chồng, nhất là bà mẹ chồng. Tóm lại người phụ nữ mới về nhà chồng mà bị lép vế là vì những nguyên do sau đây:
- thất học vì không được đi học.
- không tự chủ về kinh tế đưa đến sự lệ thuộc người chồng.
- tập tục coi người phụ nữ như vị thành niên (đạo tam tòng), như một thứ của sở hữu của cha mẹ khi còn là con gái (quan niệm gả bán, tục thách cưới), rồi sau đó thuộc quyền gia đình chồng (quan niệm mua nàng dâu).
Thái độ của gia đình chồng ─ đặc biệt là bà mẹ chồng ─ coi nàng dâu như một thứ nô lệ cao cấp, nghĩa là phải phục tùng tuyệt đối. Bà mẹ chồng thường hay khó tính, xét nét nàng dâu từng li từng tí, một phần bà nghĩ là phải dạy cho nó vào khuôn phép nhà mình (nhập gia tuỳ tục), một phần vì trước kia bà đã tùng phải làm dâu như vậy, nay được làm mẹ chồng, bà phải sử dụng trọn vẹn cái quyền ấy và bắt nàng dâu phải chịu ép một bề như trước kia bà cũng đã từng phải chịu như vậy. Mối liên hệ mẹ chồng nàng dâu do đó đã trở thành cái nếp đôi bên đối xử với nhau thiếu thành thực:
Thực thà cũng thể lái trâu,
Yêu nhau cũng thể nàng dâu, mẹ chồng! (ca dao)
và người ta thường khuyên nàng dâu chịu đựng bà mẹ chồng cho đến… hết đời bà ấy:
Mẹ chồng già thì mẹ chồng chết,
Nàng dâu có nết nàng dâu còn. (tục ngữ)
Chẳng thế mà ngay từ lúc chân ướt chân ráo bước về nhà chồng cô vợ mới cưới đã được anh chồng ─ có bà mẹ dữ dằn ─ dặn dò cẩn thận:
Từ ngày em về làm dâu,
Anh thì dặn bảo trước sau mọi lời:
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha.
Nhịn cho êm cửa êm nhà,
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông,
Nhịn cho nên vợ nên chồng… (ca dao)
Tóm lại, nàng dâu phải “nhịn mẹ chồng như nhịn cơm sống” (tục ngữ) để có được bầu không khí hoà thuận trong gia đình. Nói cách khác, người vợ, đồng thời là nàng dâu, phải nhịn đủ thứ, phải đổi tự do để được chồng được con, để có được hạnh phúc gia đình.
Xã hội xưa cũng cho người chồng có quyền dạy vợ. Trong đám cưới trước khi đón dâu về hay có cái cảnh ông nhạc tặng chàng rể cái roi kèm theo lời dặn là hãy tiếp nối công việc dạy dỗ của ông, nếu cần thì cứ việc dùng cái roi ông tặng, chứ đừng chửi bới cha mẹ (vợ). Phong tục chấp nhận quyền chồng dạy vợ trong câu tục ngữ:
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Đây cũng là hậu quả của tình trạng nam nữ bất bình đẳng, nhất là về mặt giáo dục, tức là không cho nữ giới đi học. Nếu có cơ hội giáo dục đồng đều thì chưa chắc ai đã hơn ai. Còn trường hợp chồng bé vợ lớn thì không thấy các cụ cho phép người vợ đáng tuổi chị cả cầm roi dạy chồng còn ở tuồi thò lò mũi xanh, có khi còn khóc nhè!
Nhưng tình trạng nam nữ bất bình đẳng nổi bật nhất và phá hoại hạnh phúc gia đình nhiều nhất vẫn là
d) Chế độ đa thê
Đó là chế độ cho phép “trai có quyền năm thê bảy thiếp”, nhưng “gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Chế độ này có nhiều nguyên do xã hội, kinh tế, tâm và sinh lí:
- Trước hết là tình trạng dân số nam nữ so le, tức trai thiếu gái thừa.
- Sau đó là nền kinh tế nông nghiệp thô sơ cần nhiều nhân công, cần nhiều lực điền (nam) để khai phá đất hoang làm ruộng. Từ đó người ta khuyến khích có nhiều con: gia đình đông con, nhất là đông con trai (đa đinh) là nhà có phúc. Chả là con trai có nghĩa vụ đóng thuế, đi lính, đi xâu (lao động công ích) cho nhà nước, còn con gái thì không. Câu tục ngữ “cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con” rõ ràng tán trợ chế độ đa thê.
Trong khi đó người đàn ông thường khoẻ hơn người đàn bà về phương diện sinh lí vì người đàn bà bị giới hạn về mặt này do sự thai sản. Để đáp ứng nhu cầu đông con, xã hội nam quyền cho phép người đàn ông được lấy nhiều vợ, và khuyên người đàn bà nên ép lòng ghen tuông lại, có nhiều khi người vợ thấy mình hiếm muộn hoặc không thể ccó con, nhất là không có con trai, phải tự ý tìm vợ lẽ cho chồng để nhà chồng có con nối dõi. Thời xưa, một cặp vợ chồng lấy nhau vào tuổi trưởng thành, độ vài ba năm sau ngày cưới mà chưa thấy có “tin mừng” (người vợ có thai) thì cả hai người và cha mẹ đôi bên đã bắt đầu sốt ruột, cho là hiếm muộn, nhất là ở những nhà giàu. Nào là đi xem bói toán, tướng số, nào là đi lễ đền này phủ nọ (thịnh nhất là đi chùa Hương và đền Kiếp Bạc) để cầu tự, cuối cùng mà vẫn không thấy hiệu quả thì phải tính đến chuyện cưới vợ lẽ cho người chồng; mà không tình đến trường hợp nguyên do hiếm muộn là ở người chồng.
Xưa kia thường xẩy ra việc chị dắt em gái, cô dì dắt cháu gái về làm vợ lẽ cho chồng với suy tính rằng do tình máu mủ mà bớt sự ghen tuông. Là em, là cháu, vợ lẽ sẽ tuân phục mình, con vợ lẽ sẽ vừa là con (mẹ già) vừa là cháu mình; trách nhiệm gia đình thì “sẩy vai xuống cánh”, “lọt sàng xuống nia”, chẳng đi đâu mà thiệt. Nhưng thực tế đã cho thấy suy tính đó sai vì “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”! Khi người chồng đã có đến năm thê bảy thiếp mà vẫn không có con (trai) thì phải nuôi con nuôi hoặc lập người thừa tự (12). Trường hợp “thả cỏ” (13) rất là hoạ hiếm, vả lại cũng không được luân lí, phong tục chấp nhận, nên nếu có thì phải diễn ra trong vòng bí mật.
Nhiều khi người vợ tự lượng sức mình không thể thoả mãn được ông chồng về mặt sinh lí, nên thà tự ý đi tìm vợ lẽ cho chồng để được tiếng là người vợ không ghen. Vả lại vợ cả tự ý tìm vợ lẽ cho chồng, may ra được người hiền lành, nó chịu tuân phục mình còn hơn để chồng đi chơi nhăng rồi rước của nợ về, nó ghen ngược phá tan gia đình:
Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở rằng: anh giận gì?
Thưa anh, anh giận em chi,
Muốn cưới vợ bé em thì cưới cho. (ca dao)
Như vậy đa thê đã trở thành đặc quyền của người đàn ông trong xã hội xưa, được phong tục, luật pháp công nhận. Lâu dần rồi người đàn ông cũng không cảm thấy ngượng ngùng gì mà phải giấu cái tính đa dục ích kỉ thấp kém của mình như Nguyễn Công Trứ 73 tuổi còn cưới nàng hầu đáng tuổi cháu nội cháu ngoại và biểu lộ sự đắc ý trong bài hát nói “Tuổi già cưới hầu” sau đây:
Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau!
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất đoá lê hoa áp hải đường (14)
(…)
Tân nhân dục vấn lang niên kỉ,
Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam! (15)
(…)
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một, với mình là hai, (16)
Càng già, càng dẻo, càng dai!
Khi trách nhiệm hiếm muộn ở người vợ, phong tục buộc cả hai vợ chồng phải cưới vợ lẽ để có con nối dõi là việc bất khả kháng. Đáng trách là khi người đàn ông thả lỏng lòng dục để đa mang năm thê bảy thiếp, đèo bòng vợ nọ con kia:
Trên giời có vẩy tê tê,
Có ông chín vợ chẳng chê vợ nào… (ca dao)
Gia đình đa thê mà êm thắm rất hiếm, chỉ xẩy ra ở một số ít nhà giàu sang, ông chồng vững tay chèo lái, xây cho mỗi bà vợ một dinh cơ riêng biệt ở cách xa nhau ra. Còn thông thường thì gia đình xáo trộn vì ghen tuông, nhiều khi đưa đến tan vỡ chia lìa. Nhưng nghịch cảnh kể sau thường xẩy ra:
- Một là vợ cả cay nghiệt ghen tuông, đổ lên đầu vợ lẽ tất cả những nỗi khổ nhục của kẻ lép vế, một loại con ở không công:
Lấy chồng làm lẽ khổ thay!
Đi cấy đi cầy chị chẳng kể công.
Tối tối chị chiếm mất chồng,
Chị cho chiếc chiếu nằm không nhà ngoài.
Sáng sáng chị gọi: ớ hai!
Mau mau trở dậy thái khoai đâm bèo. (ca dao)
và tệ hơn nữa, một thứ kẻ trộm ái tình, nhất là khi đức ông chồng lại là kẻ râu quặp, sợ vợ cả:
Thân em làm lẽ chẳng nề,
Đâu như chính thất mà lê giữa giường.
Tối tối chị chiếm mất buồng,
Chị cho chiếc chiếu nằm xuông chuồng bò.
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho,
Đến khi chồng xuống, gà đã o o gáy dồn,
Cha mẹ con gà sao mày vội gáy dồn,
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con! (ca dao)
Thông cảm với hoàn cảnh làm lẽ có lẽ không ai bằng nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài thơ sau đây, vừa tóm gọn được thân phận người đàn bà đi xin chia sớt tình yêu (thật ra là tình dục) của người đàn ông, vừa bày tỏ thái độ gớm ghiếc cho cái chế độ có thể gọi là dã man đối với phụ nữ:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Ví biết sự tình là thế thế,
Thì trước âu đành ở vậy xong.
Cuối cùng người phụ nữ phải khuyên nhau:
Đói lòng nằm gốc cây sung,
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng! (ca dao)
- Nghịch cảnh thứ hai ngược lại, người vợ lẽ cậy mình trẻ hơn, có nhan sắc hơn vợ cả, nên được chồng yêu hơn, lại dở trò ton hót gièm pha để chồng ghét bỏ vợ cả và lũ con vợ cả đề mình độc chiếm tất cả, tức là diễn ra cảnh cướp chồng người. Trong truyện xưa tích cũ, có rất nhiều truyện vợ lẽ vu oan, đầu độc hãm hại vợ cả, truyện dì ghẻ hành hạ con chồng như “Tấm Cám” là câu chuyện tiêu biểu, hoặc như câu ca dao:
Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng. (ca dao)
Trong bất cứ trường hợp nào, “ghen xuôi” hay “ghen ngược”, nạn nhân cũng đều là phụ nữ, đều thiệt thòi và trở nên một thứ nô lệ, một món đồ chơi cho đàn ông. Mà thật thế, thời xưa hầu thiếp được mua như nô lệ, do đó có thể nhường lại, tặng dữ cho người khác (17). Nhưng thảm nhất có lẽ là thân phận các nàng cung nữ trong cung vua phủ chúa (18). Họ là những cô gái đẹp mà số phận trớ trêu lại đưa đẩy đến chỗ được kén chọn kĩ càng để đưa vào cung hầu hạ vua chúa (19). Thoạt nhìn, ai cũng tưởng các nàng được ở lầu son gác tía, ăn ngon mặc đẹp là sung sướng, nào ngờ họ phải chôn vùi tuổi xuân trong cung cấm lạnh lẽo với cái cảnh:
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào! (20)
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Tóm lại, chế độ đa thê, trừ một số ít trường hợp đặc biệt, còn là không thể biện minh được, vì nó hạ nhân phầm phụ nữ xuống thấp cùng cực, nó là đáy vực của chế độ nam tôn nữ ti, nó cũng làm mất tính thuần nhất rất cần thiết cho hạnh phúc gia đình, tức là cảnh gia đình một vợ một chồng và đàn con một cha một mẹ; còn tuyệt đại đa số gia đình đa thê đều bị mất hạnh phúc. Ngoài ra chế độ đa thê cũng khiến cho tình yêu, bông hoa đẹp nhất của tuổi thanh xuân, trở nên vô nghĩa.
e) Chế độ li dị
Đây cũng là một sự bất công nữa giữa nam và nữ được phong tục và luật pháp của xã hội tôn nam quyền xưa công nhận. Thành kiến xã hội xưa coi việc người đàn ông bỏ vợ là chuyện thường, người ấy có thể lấy vợ khác dễ dàng. Nhưng một người đàn bà bỏ chồng hay bị chồng phụ rẫy thường bị dư luận khinh khi hay ngờ vực là có tật tội gì đó, hoặc ít nhất cũng bị chê là không khéo chiều chồng, không biết cách giữ chồng:
Mèo lành ai nỡ cắt tai,
Gái bị chồng bỏ, khoe tài gì em! (ca dao)
Người đàn bà ấy có nhiều phần phải ở vậy suốt đời; may mà có con và được nó nhìn nhận thì còn được niềm an ủi; rủi không con hay có con mà không được nó nhìn nhận thì đành chịu số phận hẩm hiu. Lúc đó chỉ còn nước quay về nhờ cha mẹ, anh em hay họ hàng gì đó. Trừ khi có chút nhan sắc, người đàn bà dễ bước đi bước nữa, nhưng cũng là thân phận “rổ sề cạp lại”, bất quá gặp người đồng cảnh, hoặc lại làm lẽ mọn thì ôi thôi, “dấm chua kia lại bằng ba lửa nồng”! Người đàn bà tái giá mà lấy được trai tơ thật là hoạ hiếm, mà dư luận cũng chê bai chàng trai ngốc mới đi lấy vợ thừa:
Gái khôn tránh khỏi đò đưa,
Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta. (ca dao)
Những cặp vợ chồng như vậy không đẹp đôi, phần lợi về người đàn bà:
Nạ dòng vớ được trai tơ,
Đêm năm hú hí như vơ được vàng. (ca dao)
phần thiệt về người đàn ông:
Trai tơ vớ phải nạ dòng,
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu. (ca dao)
Còn cô gái tơ đi lấy chồng thừa (làm vợ kế) hay chồng chung (vợ bé) thì chẳng có mấy người phê bình.
Tục lệ xưa cho người đàn ông quyền rẫy vợ trong bảy trường hợp sau đây, gọi là thất xuất:
- Một là không con, trường hợp này người đàn bà bị hai nỗi khổ cùng một lúc, bị coi là vô phúc.
- Hai là tà dâm, biếng nhác.
- Ba là bất hiếu đối với cha mẹ chồng.
- Bốn là lắm điều.
- Năm là trộm cắp.
- Sáu là ghen tuông.
- Bảy là có ác tật.
Nhưng tục lệ cũng đưa ra ba trường hợp người đàn ông không được bỏ vợ (tam bất xuất) để bảo vệ quyền lợi cho người đàn bà:
- Một là người vợ đã chịu tang cha mẹ chồng.
- Hai là nhà chồng lúc mới cưới vợ về thì nghèo, sau đó trở nên giàu có, vì cho rằng người vợ đã đóng góp nhiều công lao vào đó.
- Ba là nếu dời bỏ nhà chồng, người vợ không có nơi nương tựa, đây là vì lí do nhân đạo.
Ở đây sự bất bình đẳng là ở chỗ tục lệ không đề ra những trường hợp người đàn bà có thể bỏ chồng ─ lỗi về phần người chồng ─ với sự bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người vợ có lẽ phải, như được giữ con, được chia tài sản v.v…
Ngoài ra chế độ nam nữ bất bình đẳng còn biểu lộ trong trường hợp ngoại tình. Người đàn ông ngoại tình bất quá chỉ bị dư luận chê cười ít lâu, hoặc cùng lắm là phải nhận lãnh cái “hậu quả” về nhà: cưới người đàn bà kia làm lẽ, làm thiếp ─ dĩ nhiên phài là người không chồng ─ nếu lỡ người ấy có bầu hoặc đã sinh con. Nhà giàu mà không muốn lãnh hậu quả thì trả giá cho trách nhiệm: cho người đàn bà một số tiền để người ấy đi sinh nở, nuôi con và tìm chồng khác. Nếu người chồng vẫn còn thích người đàn bà kia và muốn cưới làm vợ lẽ, làm thiếp thì tốt hơn hết là người vợ cả nên biết điều nhịn ghen cho êm chuyện, vì xé to chuyện ra chỉ tổ xấu chàng hổ thiếp.
Trái lại, người đàn bà ngoại tình thì bị lên án nặng nề; nếu bị bắt quả tang, người chồng có thể gọt gáy bôi vôi (cạo trọc đầu rồi bôi vôi lên để công khai hạ nhục), hoặc ở vào một thời kì nào đó, ở địa phương nào đó, người ta có thể thả bè trôi sông người vợ phạm tội kia: đóng bè bằng cây chuối, bỏ người đàn bà ngoại tình xuống đó rồi thả xuống sông cho trôi đi đâu thì đi.
g) Quan niệm về sự trinh tiết – Sự kiên trinh – Sự thủ tiết
Xã hội ở vào thời mà quyền người đàn ông được đề cao vượt hẳn quyền của người đàn bà, hay quyền của người chồng vượt hẳn quyền của người vợ, khi người con trai đem đồ sính lễ trong đó gồm cả nữ trang, tiền bạc có giá trị vật chất cao, đến nhà gái cưới (bao hàm ý mua) vợ về nhà thì tự nhiên người ấy coi mình là sở hữu chủ và có độc quyền chiếm hữu vĩnh viễn người vợ. Một sự thể hiện chủ quyền chiếm hữu là sự hưởng thụ cái trinh tiết của người vợ trong đêm tân hôn. Đây là đặc quyền, là vinh dự và cũng là niềm sung sướng ─ đẹp nhất cũng là lần đầu tiên trong đời ─ của kẻ được làm chồng. Còn đối với người vợ thì sự trinh tiết ─ hiều là sự nguyên vẹn của người con gái chưa hề tiếp xúc tính dục với đàn ông cho đến giờ phút tiếp xúc với người chồng cũng là người đàn ông đầu tiên trong đời ─ là sự trong trắng, giá trị cao nhất của người con gái đem trao tặng cho người đàn ông duy nhất sẽ là chồng mình suốt đời. Lần tiếp xúc đó chấm dứt quãng đời trinh nữ, biến người con gái thành người đàn bà suốt đời. Đây cũng là sự biều lộ lòng tin cậy tuyệt đối của người vợ đem trao xương gửi thịt, trao thân gửi phận, gắn bó cả cuộc đời mình với chồng và gia đình chồng.
Vì vậy trong xã hội xưa người ta cho rằng “chữ trinh đáng giá ngàn vàng”. Ở đây lại một lần nữa biểu lộ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ là sự trinh tiết thường được hiểu là của người nữ, chỉ đòi hỏi ở người nữ, và được lờ đi về phía người nam. Trong đêm tân hôn mà tân lang khám phá ra rằng tân giai nhân của mình đã “mất tân” (không còn mới, đã mất trinh) với người đàn ông nào khác trước đó, còn mình là kẻ đến sau, “trâu chậm phải uống nước đục” thì đó là một sự sỉ nhục cho cả mình và gia đình mình là bị mắc lừa. Phản ứng nông nổi nhất có thể xẩy ra là anh chồng dẫn cô vợ về trả lại cho cha mẹ vợ kèm theo cái thủ lợn bị cắt tai để bày tỏ cơ sự bằng hình ảnh hơn là bằng lời khó nói. Trường hợp này mà xẩy ra thì cả nhà trai lẫn nhà gái cùng bẽ mặt với dư luận. Tốt nhất là hai nhà nên dàn xếp êm thắm: một bên trả người, một bên trả của, tránh làm rùm beng, xấu cả đôi bên.
Vì sự trinh tiết quí như vậy, người ta cho rằng cặp tân hôn chỉ nên dành tặng nhau vào đêm tân hôn để trịnh trọng đánh dấu sự khởi đầu của đời sống vợ chồng. Một cặp vợ chồng mà thiếu món quà tặng ấy vào đêm tân hôn vì đã “tiền dâm hậu thú” (21) thường bị dư luận chê bai. Ngoài ra còn yếu tố tâm lí chủ quan đối với nhau nữa. Đó là điều Nguyễn Du đã đề phòng cho nhân vật Thuý Kiều trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của ông. Nàng Kiều đã lén cha mẹ đính ước riêng với Kim Trọng là một điều phạm lễ giáo. Lợi dụng cơ hội cả nhà đi vắng, nàng sang nhà người yêu tự tình suốt mỗt ngày một đêm. Hai người cùng nhau uống rượu, làm thơ, viết lời thề, đánh đàn cho đến lúc chàng sóng tình dào dạt, tỏ vẻ lả lơi là đã đến lằn ranh cuối cùng, nàng phải ngăn chàng lại để giữ vẹn “món quà quí giá” đã hứa với chàng và chỉ dành tặng chàng vào đêm “động phòng hoa chúc”. Mặc dầu hãy còn là một thiếu nữ khuê các ngây thơ, Thuý Kiều đã tỏ ra rành tâm lí, biết tự giữ giá trị của mình đối với người yêu để tránh bị khinh rẻ nhau sau này, có thể đưa đến tan vỡ như cặp tình nhân Thôi Oanh Oanh – Trương Quân Thuỵ trong “Tây Sương Kí” (22):
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi.
Phải tuồng ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm bỗng bỏ đi một ngày.
Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương;
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Bởi(?) sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân còn một đền bồi có khi.
Từ sau món quà độc nhất vô nhị mà cô dâu tặng cho chú rể, cô gái trở thành bà vợ. Từ nay cho đến trọn đời, người vợ cỏn phải giữ tiết hạnh (23), không được ngoại tình cả trong thực tế lẫn trong tâm tưởng (24), tức là phải tuyệt đối trung thành với chồng.
Người đàn bà càng có nhan sắc càng là của quí, càng gợi sự thèm muốn của nhiều đàn ông; hạnh phúc lứa đôi của hai vợ chồng càng dễ bị đe doạ phá vỡ do sự cám dỗ hay do quyền lực cướp đi. Có khi vì có vợ đẹp mà người chồng bị kẻ khác hãm hại để cướp vợ như quan cướp vợ của dân, quan to cướp vợ của quan nhỏ, vua chúa cướp vợ của bề tôi trong thời kì xã hội rối loạn, luân lí suy đồi. Bởi vậy thời xưa, người ta cho rằng người đàn bà đẹp ngầm chứa tai hoạ, người đàn ông nào tự lượng không đủ tài đức thì không nên lấy làm vợ, vì như thế chẳng khác nào như người không đủ sức giữ mà lại đeo ngọc quí ra đường, ắt rước hoạ vào thân. Câu tục ngữ “cái nết đánh chết cái đẹp” là có ý đề cao đức hạnh (người đàn bà) có giá trị hơn hẳn nhan sắc.
Người đàn bà nào cương quyết cự tuyệt mọi cám dỗ, ngay cả chống lại cường quyền ép buộc mình phản bội chồng, dù chồng đang sống chung hay vì lí do gì mà xa vắng lâu ngày (như chinh phu chinh phụ), được coi là người đàn bà kiên trinh. Luân lí đạo Nho, đặc biệt là Tống Nho (25) , đã thành công trong việc giáo dục người đàn ông thành kẻ “trung thần bất sự nhị quân” và người đàn bà thành người “trinh nữ bất canh nhị phu” (26). Qui tắc luân lí kép này đã đào tạo nên biết bao trung thần tiết phụ để tên trong sử sách Trung Hoa và cũng được giới nho sĩ Việt đề cao, nhưng nhìn chung không được dân tộc Việt theo một cách mù quáng, cực đoan; mà qui tắc “quyền, biến” được ứng dụng đề thích nghi với những hoàn cảnh biến đổi phức tạp của cuộc đời.
Như trường hợp của nhân vật người vợ là Giải thị trong vở tuồng “Kim Thạch Kì Duyên” của Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872): người chồng gặp giặc, trước khi tự trầm, dặn vợ phải gượng sống để nuôi cái bào thai trong bụng; người vợ lúc ấy chết theo chồng là điều dễ làm, nhưng đã ngậm tủi nuốt hờn sống với kẻ thù để nuôi con nên người và chờ dịp báo phục. Khi làm xong cái nhiệm vụ vô cùng khó khăn nặng nề đó (cùng đứa con lập mưu giết được kẻ thù lúc ấy đã trở thành người chồng thứ hai), người đàn bà lập đàn tế chồng cũ rồi lấy cái chết đề rửa vết nhơ của đời mình là lấy hai chồng.
Một thí dụ điển hình nữa là hoàn cảnh của Thuý Kiều lúc phải bán mình. Nàng đã hứa hôn với Kim Trọng, những tưởng cùng chàng chung hưởng hạnh phúc; nào ngờ cơn gia biến đột ngột xẩy đến, khiến nàng phải đi đến quyết định đầy đau đớn:
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình,
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Rồi hoàn cảnh đưa đẩy nàng qua hết người đàn ông này đến người đàn ông khác. Cái tiết trinh cần phải giữ đối với chàng Kim là người nàng đã yêu và chọn làm chồng tương lai thế là không còn nữa. Nhưng sau mười lăm năm lưu lạc, gặp lại gia đình và bị cả nhà ép phải tái hợp với người yêu cũ, Thuý Kiều cảm thấy tủi hổ với tâm thân ô uế của mình nên từ chối khiến chàng Kim phải lí luận để thuyết phục cho “châu về Hợp Phố”:
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba, bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh!
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Sau khi phải chiều ý cả nhà mà làm lễ thành hôn với Kim Trọng để giữ vẹn lời thề cũ, Thuý Kiều, vào lúc động phòng, tỏ ý chán ngấy cái cảnh đụng chạm với đàn ông, dù nay người đàn ông ấy là người yêu cũ:
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững, lại giầy cho tan!
May được chàng Kim tỏ ra cao thượng:
Bấy lâu đáy biển mò kim,
Là điều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Ai ngờ sum họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
Thuý Kiều mừng rỡ vì không phải đem tấm thân đã bị nhơ nhuốc để đãi người tình chung; nàng vội tạ ơn chàng:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
và
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
Vậy tương tự như Giải thị là “xử biến”, Thuý Kiều đã phải hi sinh tình (cũng là bỏ trinh tiết) cho hiếu, vì luân lí xưa cho hiếu ưu tiên hơn tình. Vả lại hoàn cảnh thực tế lúc ấy (Kim Trọng đã đi xa) cũng buộc Kiều phải hi sinh hạnh phúc riêng để cứu cha già khỏi cảnh tội tù oan uổng, hi sinh cuộc đời mình để cứu cả nhà khỏi cành “sảy đàn tan nghé”. Tóm lại trong cảnh bất thường người ta chấp nhận không giữ chữ trinh thực tế, vật chất; mà giữ chữ trinh tinh thần, vì tinh thần lúc nào cũng cao quí hơn vật chất. Nói rõ hơn, trinh tiết chưa phải là giá trị tối thượng của người đàn bà. Còn có những giá trị cao hơn mà người đàn bà, cũng là người con, người mẹ v.v… có khi phải hi sinh trinh tiết, tức là bỏ cái giá trị cá nhân của mình để bảo vệ những giá trị cao hơn. Trong trường hợp này, giá trị người đàn bà còn được nâng cao hơn nữa vì cộng thêm sự sáng suốt, lòng dũng cảm…
Trong trường hợp người chồng chết sớm, người vợ goá còn trẻ, dù có con hay chưa, mà không chịu tái giá, tức là từ bỏ hạnh phúc lứa đôi chắp nối, cứ ở vậy thờ chồng, nuôi dạy con nên người (có thể còn phải phụng dưỡng cha mẹ chồng đã già yếu nữa), được xã hội trọng lễ giáo đạo Nho khen tặng để nêu gương tốt cho đời bằng sắc phong của nhà vua ban cho bốn chữ “tiết hạnh khả phong” (27). Bốn chữ này sau đó được sơn son thếp vàng thành bức hoành phi treo giữa nhà để biểu dương giá trị đạo đức, niềm hãnh diện chung của một gia đình nền nếp gia phong. Người đàn bà cho đến lúc lâm chung mà không ngoại tình, sống hoà thuận với chồng và gia đình chồng, thì trong đám tang được biểu dương hai chữ trinh và thuận, hai đức tính căn bản và cũng là cao quí nhất của người phụ nữ trong cuộc đời làm vợ, làm dâu, làm mẹ.
Nguyên uỷ của sự kiên trinh thủ tiết của người đàn bà đối với chồng rõ ràng là tình yêu, vì tình yêu chân chính tự nó đã mang tính tự do (lựa chọn người tình mà không bị ép uổng), chuyên nhất (chỉ một đối tượng) và chung thuỷ (trung thành với nhau cho đến trọn đời). Vậy sự kiên trinh thủ tiết căn bản phải là do cá nhân tự nguyện, còn giáo dục, luân lí, phong tục, luật pháp chỉ đóng vai trò hướng dẫn, khuyến khích sự tuân thủ và ngăn ngừa sự vi phạm; dĩ nhiên tác dụng cũng không phải nhỏ vì nó là yếu tố quan trọng trong sự bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhưng lễ giáo đạo Nho đã có một thời gian dài ngự trị trên xã hội Việt Nam, được chính quyền quân chủ sùng thượng với địa vị độc tôn, đã trở nên độc đoán khắt khe, duy trì một chế độ bất công vô lí, nhiều khi tàn nhẫn đối với phụ nữ khiến họ trở nên nạn nhân của cha, chồng, con của họ, những người mà họ để hết lòng thương yêu.
Trong xã hội xưa, rất nhiều khi người con gái hỏng cả một đời vì bị cha mẹ ép duyên gả bán; rất nhiều người vợ phải cắn răng chịu đựng đức ông chồng đã chẳng đóng góp gì vào việc xây dựng gia đình, mà còn ăn hoang phá hại, thậm chí còn thượng cẳng tay, hạ cẳng chân đối với người đầu gối, tay ấp, má kề của mình:
Chồng em nó chẳng ra gì,
Tổ tôm, sóc đĩa, nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp hổ chàng.
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây có chị em nhà,
Còn dăm ba thúng thóc với một và cân bông.
Em bán đi trả nợ cho chồng,
Còn ăn hết nhịn cho thoả lòng chồng con.
Đắng cay em ngậm quả bồ hòn,
Cửa nhà gia thế chồng con kém người.
Nói ra sợ chị em cười! (ca dao)
Trong xã hội xưa, càng không thiếu những người vợ lẽ bị chồng bỏ rơi, bị vợ cả hành hạsỉ nhục, hoặc những người vợ cả bị chồng ruồng rẫy để theo vợ bé, bỏ lại cả đàn con và gánh nặng gia đình cho một mình mình gánh vác. Người ta cũng ít động tâm trước cảnh người con gái “khôn ba năm, dại một giờ”, yếu lòng với người tình để rồi khi “kết quả to ra” thì bị chàng quất ngựa truy phong, cha mẹ xua đuổi, họ hàng dè bỉu, làng xóm bắt vạ. Rồi người đàn bà ngoại tình, vì hư thân mất nết cũng có, vì bị ép duyên, bị chồng phụ bạc, vì phải sống trong cảnh bất công ở gia đình chồng cũng có, bị hành tội, hạ nhục đến mất hết nhân phẩm. Hoặc người quả phụ trẻ đối với người chồng quá cố không có tình yêu để tự nguyện thủ tiết, muốn bước đi bước nữa để hưởng thụ tuổi thanh xuân, nhưng lại bị luân lí lễ giáo giữ chân lại, buộc phải sống cảnh đời goá bụa tẻ nhạt buồn thàm cho đến hết đời.
Tình trạng bất công này không thể êm xuôi mãi; giới phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ bình dân, đã có phản ứng.
2. Ý thức tranh đấu đòi quyền nam nữ bình đẳng
Những qui tắc khắt khe của lễ giáo đạo Nho kể trên đã một thời gian dài khiến người phụ nữ Việt phải sống âm thầm trong bất công đau khổ. Nhưng “tức nước thì phải vỡ bờ”, họ đã có phản ứng chống lại. Cần xác định ngay rằng những phản ứng này là tiêu cực và không phản ảnh tình trạng hư hỏng của giới phụ nữ Việt; bởi vì cá nhân nào hư hỏng thì vẫn hư hỏng, dù có chế độ nam nữ bất bình đẳng hay không; còn những người dám nói lên ý nghĩ táo bạo của mình ─ táo bạo vào thời ấy ─ chưa chắc đã hành động như lời họ nói. Nhìn chung thì tuỳ từng hồi thịnh hay suy của đất nước mà luân lí được tôn trọng hay bị xếp xó, phong tục thuần mĩ hay suy đồi.
- Trước hết, người phụ nữ tự khẳng định giá trị của mình trước quan niệm “nam tôn nữ ti” bằng cách hạ thấp nam giới, lúc này tạm coi là đối thủ:
Ba đồng một chục đàn ông,
Ta bỏ vào lồng ta xách ta chơi;
Ba trăm một mụ đàn bà,
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. (ca dao)
- Dùng hình ảnh người chồng con nít trong tệ tảo hôn để chế giễu:
Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng,
Chị em ơi, cho tôi mượn cái gầu sòng,
Để tôi tát nước, tôi múc chồng tôi lên. (ca dao)
- Vạch trần cái nhu cầu tầm thường của người đàn ông được che đậy dưới hình thức mĩ miều, dù người ấy ở địa vị xã hội nào, đồng thời nêu lên cái ưu thế của người đàn bà trước cái nhu cầu ấy như trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
(Qua đèo Ba Dội)
Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngày xưa,
Vành ra ba góc, da còn méo,
Khép lại hai bên, thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa…
(Vịnh cái quạt, bài I)
- Tỏ thái độ bất cần đàn ông của người phụ nữ thích sống tự do:
Gái có chồng như gông đeo cổ. (tục ngữ)
Chồng con là cái nợ nần,
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm. (ca dao)
- Cảnh cáo đàn ông đừng tưởng rằng họ có độc quyền hưởng thụ hay hư hỏng:
Chồng ăn chả, vợ ăn nem. (tục ngữ)
Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng. (ca dao)
- Chống lại chế độ bất công bắt người đàn bà phải chính chuyên, trong khi cho phép người đàn ông “năm bảy lá gan, lá ở cùng vợ lá toan cùng người”:
Gái chính chuyên lấy được chín chồng,
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.
Chẳng may quang đứt gánh rơi,
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng. (ca dao)
- San bằng ranh giới giữa chính chuyên và lẳng lơ:
Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ. (ca dao)
Lẳng lơ chết cũng ra ma,
Chính chuyên chết cũng đưa ra ngoài đồng. (ca dao)
- Hạ giá trinh tiết:
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,
Kể từ chồng trước đến chàng là năm;
Còn như yêu vụng dấu thầm,
Họp chợ trên bụng cũng trên trăm thằng! (ca dao)
- Ngoại tình đối với người phụ nữ không phải là bất khả:
Hai tay cầm hai trái hồng,
Trái chát phần chồng, trái ngọt phần trai.
Đêm nằm vuốt bụng thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều! (ca dao)
- Nhiều khi người phụ nữ cũng trâng tráo, bất cần dư luận:
Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.
Anh đánh thì em chịu đòn,
Tính em hoa nguyệt mười con chẳng chừa. (ca dao)
hoặc:
Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp con chàng, con ai? (ca dao)
- Cuối cùng cái luân lí thủ tiết bắt người đàn bà goá ở vậy suốt đời ngoài ý muốn của họ cũng bị bác bỏ:
Giàu thì thịt cá cơm canh,
Khó thì lưng rau đĩa muối cúng anh, tôi đi lấy chồng.
Hỡi anh chồng cũ tôi ơi!
Anh có khôn thiêng, xin anh trở dậy ăn xôi nghe kèn.
Thôi, anh đã về, nghiệp ấy xin anh đừng ghen,
Để cho người khác cầm quyền thê nhi. (ca dao)
Trong bài ca dao trên, người vợ goá còn thương xót anh chồng cũ phận mỏng, còn cho thấy thoáng qua cái nhu cầu của gia đình cần có người đàn ông điều khiển gánh vác, còn làm chút lễ nghi cuối cùng để từ tạ người chồng quá cố. Còn người đàn bà trong bài ca dao sau đây thì trâng tráo nói thẳng ra cái nhu cầu sinh lí của mình, bất chấp bổn phận làm mẹ đối với đàn con còn nhỏ dại, chỉ muốn mau mau trút bỏ gánh nặng trách nhiệm cho gia đình chồng cũ để còn vui duyên mới:
Hỡi thằng cu nhớn, hỡi thằng cu bé,
Thằng cu tí, cu tị, cu tỉ, cu tì ơi!
Con dạy con ăn con ở với bà,
Để mẹ đi kiếm một và con thêm.
Bố con chết đi, trong bụng mẹ hãy còn thèm,
Mẹ xem quẻ bói vẫn còn đàn em trong bụng này.
Con ra gọi chú vào đây,
Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này, mẹ bước đi.
3. Địa vị và vai trò thực sự của người phụ nữ Việt trong gia đình và xã hội xưa
Nói đến luân lí lễ giáo trong xã hội tôn sùng đạo Nho, tôn nam quyền nên hạ thấp địa vị phụ nữ một mặt, còn mặt kia là phản ứng cũng có phần quá trớn chống lại chế độ nam nữ bất bình đẳng ấy chỉ là nói đến cái khía cạnh bất thường trong đời sống xã hội thời xưa. Song cái bình diện thông thường rộng lớn thì sao? Nếu lúc nào và ở đâu hai phái nam nữ cũng tranh chấp với nhau về quyền tự do bình đẳng thì làm gì có được hạnh phúc gia đình và tiến bộ xã hội? Làm gì có được tình yêu nam nữ là bông hoa rực rỡ thắm tươi của đời sống, là đề tài muôn thuở cho biết bao áng tình thi, tình ca, tình sử bất hủ?
Trong thực tế của đa số gia đình Việt Nam thời xưa không có sự cách biệt quá đáng giữa chồng và vợ. Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” (36) khá xa lạ đối với gia đình Việt Nam. Bài ca dao sau đây cho thấy lối sống thượng lễ “phu phụ tương kính như tân” đến độ vợ phải “cử án tề mi” (37) với chồng là không thích hợp đối với dân tộc ta vốn ưa nếp sống tự nhiên giản dị:
Cái quạt mười tám cái nan,
Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu.
Quạt này anh để che đầu,
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này.
Uớc gì chung mẹ chung thầy,
Để em giữ cái quạt này làm thân.
Rồi ta chung gối chung chăn,
Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu.
Nằm thì chung cái giường tàu,
Dậy thì chung cả hộp trầu ống vôi.
Ăn cơm chung cả một nồi,
Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa.
Chải đầu chung cái lược ngà,
Soi gương chung cả bông hoa giắt đầu.
Trong rất nhiều gia đình Việt, phụ nữ đâu có bị lép vế? Trái lại là khác! Ở đó người vợ, người mẹ chiếm địa vị quan trọng bậc nhất như các câu tục ngữ “lệnh ông không bằng cồng bà”, “nhất vợ nhì trời” cho thấy. Sở dĩ các bà được chồng con, họ hàng, làng xóm trọng nể là nhờ họ ở vào các trường hợp sau đây:
- Có đủ tứ đức mà theo các nhà nho là cần thiết cho việc tạo dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình: công, dung, ngôn, hạnh (30).
- Thành công trong lãnh vục tề gia nội trợ khiến mọi thành viên trong gia đình cảm thấy thoải mái trong sinh hoạt hàng ngày như bữa cơm ngon, tấm áo đẹp, cũng như trong đời sống tình cảm: được thương yêu săn sóc. Cũng có khi là người chị cả do hoàn cảnh gia đình hoặc điều kiện cá nhân đã phải hi sinh tuổi xuân ở vậy để thay thế cha mẹ chăm sóc, gây dựng cho đàn em nhỏ nên người.
- Thành công trong lãnh vực kinh tế, đem lại sự thịnh vượng cho gia đình, điều khiển cả nguồn chi thu xuất nhập. Thành ngữ “tay hòm chỉa khoá” chỉ vai trò nắm huyết mạch gia đình của người phụ nữ đảm đang, nhiều khi là người chủ thật sự của gia đình; ông chồng lúc ấy chỉ ngồi làm vì, nhưng để giữ thể diện cho ông chồng là người chủ gia đình trên danh nghĩa, bà vợ kín đáo “giật dây sau màn”.
- Thành công trong cả lãnh vực đối ngoại: lo cho chồng con nên danh nên giá, khiến họ hàng làng nước kính nể.
Thí dụ một chàng bạch diện thư sinh xuất thân tay trắng, sau khi lấy được người vợ có đức hạnh, có chí tiến thủ, lại có tài tháo vát đảm đang, cần kiệm làm ăn, lo cho gia đình được đầy đủ, lại khuyến khích chồng chăm chỉ học hành:
Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa mai chúa mở khoa thi,
Bảng vàng chói lọi kìa đề tên anh. (ca dao)
để thi đậu ông trạng, ông bảng, ông thám được vua ban cờ biển, áo gấm vinh qui bái tổ, ngựa anh đi trước võng nàng theo sau thì thật là mở mày mở mặt với đời:
Xin chàng kinh sử học hành,
Để em cầy cấy cửi canh kịp người.
Mai sau xiêm áo thảnh thơi,
Ơn vua lộc nước muôn đời hiển vinh. (ca dao)
Gánh gia đình bên chồng càng nặng như còn cha mẹ chồng già yếu phải phụng dưỡng, các em chồng phải cưu mang (vì nàng là dâu trưởng) mà vẫn nên công thì vinh dự của nàng càng lớn. Sau đó mà lũ con trai con gái đều được nuôi dạy nên người, dựng vợ gả chồng được nơi xứng đáng, đứa nào cũng yên bề gia thất, an cư lạc nghiệp, hoặc cũng được nên danh nên phận thì quả là người đàn bà đã gánh được cả một giang san nhà chồng nặng trĩu trên đôi vai mà tới được đỉnh cao của thành công; và do đó rất xứng đáng được tôn vinh xưng tụng.
Nhưng không phải bậc hiền phụ nào cũng thành công như trên tuy họ không thiếu tài đảm đang tháo vát. Nhiều người rơi vào hoàn cảnh kém may mắn như chồng bất tài hư hỏng, hoặc gia đình chồng gặp cơn tai biến. Trong trường hợp này, người phụ nữ lại nêu bật tấm gương kiên nhẫn chịu đựng gian khổ, cố đem hết sức mình chống đỡ cho gia đình chồng qua cơn bão tố mà không sụp đổ, để qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai, may ra trời thương tình ngoảnh cổ lại tỉ như chồng hư hỏng mà nay hồi tỉnh, con lớn khôn biết công ơn cha mẹ, cố gắng tiến thủ để báo hiếu… Và cũng có những bà cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa cất được gánh nặng trên đôi vai gầy: làm vợ lo cho chồng, làm mẹ lo cho con, có khi cả làm bà lo cho cháu… tóm lại là hi sinh cả một đời chịu cực để lo cho hạnh phúc của chồng con.
Một hậu quả không tốt có thể xẩy ra trong gia đình có bà vợ bà mẹ quá đảm đang tháo vát, bao giàn tất cả khiến chồng con ỷ lại, hư hỏng, phá tán cơ nghiệp do công lao mồ hôi nước mắt của bà ấy tạo nên như người chồng trong bài ca dao “Chồng em nó chẳng ra gì”. So với người đàn bà trên thì người đàn bà gặp ông chồng ù lì, cả đời tuy chẳng làm nên tích sự gì, nhưng cũng không ăn hoang phá hại, vợ làm được thứ gì hưởng thứ ấy, vợ bảo sao nghe vậy, lại hoá ra được hạnh phúc cả hai.
Ngày nay không ai giả đạo đức đi khuyến khích người phụ nữ nai lưng ra gánh nặng để giới mày râu rung đùi vuốt râu hưởng nhàn hưởng lạc trên tấm lưng nhễ nhại mồ hôi, cạnh những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi của người vợ như cảnh ông tú Xương ca tụng bà vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ đàn con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông…
để chính ông thì cứ:
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi.
Ca tụng các bậc hiền phụ hiền mẫu thời xưa không phải nói là xã hội thời ấy không có những người đàn bà cậy tài cậy của, cậy thần cậy thế của cha mẹ anh em nhà mình quyền cao chức trọng mà lấn át áp đảo chồng khiến đức lang quân trờ nên đấng mày “râu quặp”. Nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều sở dĩ được mọi người biết đến như một nhân vật sống động (tưởng như có thực) bởi vì Hoạn thị là phản ảnh trung thực của hạng đàn bà ghen tuông một cách hiểm độc, khác hẳn với người đàn bà bình dân sau đây:
Cô kia mặt trắng như vôi,
Có về làm lẽ bố tôi thì về.
Mẹ tôi chẳng đánh chẳng chê,
Mài dao cho sắc mổ mề xem gan! (ca dao)
Hoạn thị lại khéo léo biết giữ thể diện cho chồng, bảo vệ thanh danh và hạnh phúc gia đình, khiến cả đôi chồng – vợ bé phải rùng mình sởn tóc gáy mà tự ý buông nhau ra:
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu,
Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!
Ấy mới gan, ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thời xưa cũng có lắm bà đanh đá chua ngoa, độc ác, lăng loàn, mắng nhiếc chồng, đánh đập con, ăn quà như mỏ khoét, ngồi lê đối mách, mất nết ngoại tình.
Song nhìn chung lấy số nhiều mà kể thì người phụ nữ Việt thời xưa rất xứng đáng được ca ngợi như một khuôn mẫu dâu thảo, vợ đảm, mẹ hiền rất mực chiều chồng thương con:
Đang khi lửa tắt cơm sôi,
Con thơ khóc bú, chồng đòi… tòm tem.
Bây giờ con đã ngủ yên,
Cơm sôi đã chín, tòm tem thì… tòm! (ca dao)
Các bậc hiền phụ ấy xứng đáng được tôn vinh nhất là về đức hi sinh. Cho đến đầu thế kỉ XX, trước ảnh hưởng của văn minh Tây phương lan tràn khắp chốn, các nhà văn nhà thơ vẫn không thiếu đối tượng để hết lời ca tụng các bà vợ bà mẹ như bác xã Bổng gái trong cuốn tiểu thuyết “Chồng Con” của Trần Tiêu, hay các bà Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, bà tú Xương được chính các vị phu quân của họ tỏ lòng cảm phục trong tác phẩm, hoặc như thi sĩ Hồ Dzếnh (cha Hoa mẹ Việt) nghĩ tới các bà chị, bà vợ, bà mẹ Việt Nam với lòng thương yêu, kính trọng không bờ bến:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hi sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Để lòng cô gái Việt Nam tươi.
Có thể tóm tắt những đức tính của phần đông phụ nữ Việt thời xưa đã góp phần quyết định trong việc tạo dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình là: cần cù, nhẫn nhục, đảm đang, chung thuỷ, yêu chồng thương con và cao nhất là đức hi sinh. Mà vì gia đình là nền tảng của xã hội, nên đồng thời già nửa lực lượng này của xã hội cũng đã góp phần vô cùng quan trọng trong việc giữ cho xã hội Việt Nam được vững bền, qua được những cơn chao đảo dữ dội.
Về hoạt động của người phụ nữ ngoài xã hội thì như đã trình bày chủ trương “nam ngoại nữ nội” đã gạt các bà các cô ra khỏi việc làng việc nước, nhường cho các ông tham gia. Cũng có thể do đó một phần mà trong lịch sử Việt Nam để lại rất ít tên những người đàn bà làm đổ nước nghiêng thành như Đát Kỉ, Bao Tự, Tây Thi, Võ Tắc Thiên v.v… bên Trung Hoa (31). Song cũng không phải vì thế mà phụ nữ Việt Nam thiếu ý thức trách nhiệm đối với tập thể lớn hơn gia đình là quốc gia. Ngoài các vị nữ anh hùng dân tộc và các nữ danh nhân để tên trong sử sách, còn biết bao các bậc nữ lưu vô danh khác đã góp phần không nhỏ vào công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm triền miên của dân tộc (32). Câu tục ngữ “giặc đến nhà, đàn bà phải đánh” cho thấy rõ sự kiện này, vì người phụ nữ thừa hiểu rằng nếu nước mất thì nhà cũng tan.
Tóm lại trong xã hội Việt Nam thời xưa, vai trò và địa vị người phụ nữ từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, do tinh thần điều hoà mực thước của dân tộc, đã được đề cao và trọng vọng đúng mức, bất chấp cái chủ trương coi thường đàn bà của nền trật tự nho giáo, ngay cả trong thời kì mà học thuyết của thầy Khổng, thầy Mạnh còn ngự trị với địa vị độc tôn trên đất nước này.
Chú thích cuối chương thứ tư
(1) Trước đó Triệu Đà, người Hán, tuy làm vua nước Nam Việt, nhưng là một viên võ tướng, cả đời sống ở vùng biên địa, xa kinh đô là trung tâm văn hoá, nên chắc không chú trọng lắm đến việc truyền bá lễ giáo đạo Nho; nếp sống của Đà hẳn phải gần với dân Việt hơn. Trong thư gửi cho Hán Văn đế, Đà tự xưng là “Nam di đại trưởng lão phu thần” (kẻ bề tôi này là ông già mọi rợ ở phương Nam).
(2) Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, tr. 46. Việc giáo hoá này dĩ nhiên nằm trong ý đồ đồng hoá dân Giao Chỉ của người Tàu.
(3) Truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh cho thấy việc đem đồ sính lễ gồm vật hiếm quí đến sớm, đúng hẹn là quan trọng để cưới được vợ, đã có từ đời Hùng Vương.
(4) Có trường hợp lúc đón dâu, nhà gái kiểm điểm đồ sính lễ do nhà trai đem đến, thấy thiếu so với đòi hỏi và thoả thuận trước, bắt nhà trai phải biện đủ mới cho rước dâu, thành ra có cảnh “cò kè bớt một thêm hai” rất nực cười.
(5) Trong truyện Lê Như Hổ kể trong “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính thì ông này được cha mẹ vợ nuôi cho ăn học thành tài.
(6) Đây là ngoa ngữ; nếu là thật thì cà ghém muối mặn ở nhà quê khi xưa mà ăn hết 11, 12 vại cà thì anh chàng đã phải ở rể bao nhiêu năm?
(7) Trong câu, chữ ‘thụ’ trước 受 nghĩa là trao, chữ ‘thụ’ sau 授 nghĩa là nhận. Như vậy, một người nam và một người nữ không phải là vợ chồng, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, khi trao vật gì phải để vật ấy xuống bàn, rồi người kia cầm lấy, mà không được đưa và nhận thẳng từ tay nhau.
(8) Giáo sư Nghiêm Toản trong cuốn “Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu” có so sánh bài ca dao này với bài “Tiết phụ ngâm” của Trương Tịch, một thi sĩ Trung Hoa đời Đường, và khen thiếu phụ Việt đoan chính hơn thiếu phụ Trung Hoa vì người sau này đã nhận ngọc của chàng đeo vào áo lót, rồi nghĩ ra mới trả lại (có thể vì sợ ông chồng cầm kích phát hiện!). Nhưng ở cả hai trường hợp, hai thiếu phụ đều tỏ ý tiếc chàng chậm chân, tức là đều có tình ý lưu luyến với người đàn ông không phải là chồng, khi người ấy tỏ tình. Nếu theo đúng lễ giáo thì họ phải cự tuyệt ngay từ đầu. Riêng thiếu phụ Việt thì còn than cho cảnh sống chung với chồng và hé lộ một niềm hi vọng, dù là xa xôi, là một ngày nào đó ra khỏi cảnh cá chậu chim lồng này thì rất có thể nàng đáp lại mối tình của kẻ chậm chân.
(9) Vô hậu: không có thế hệ tiếp nối về sau, tức là không có con trai; tuyệt tự: dứt việc thờ cúng, cũng vì không có con trai.
(10) Có một đứa con trai được coi là có con, còn có mưới đứa con gái mà không có con trai, cũng coi như không có con.
(11) Bất hiếu có ba điều, không con trai nối dõi là điều lớn nhất. Theo Kinh Lễ thì hai điều kia là làm điều xấu khiến cha mẹ mang tiếng xấu lây; nhà nghèo, cha mẹ già yếu mà không ra làm quan để nuôi cha mẹ.
(12) Thường là chọn một đứa cháu trai (con anh hay em trai) để thừa kế gia tài và giữ việc thờ cúng.
(13) Thả cỏ: chồng cho vợ lén đi ngoại tình để khi có thai thì nhận đứa con sẽ sinh ra. Người vợ như thế phải đi xa và khi “có kết quả”, phải cắt đứt với tình nhân và trở về với chồng để giữ kín sự việc.
(14) Một đoá hoa lê (chỉ chàng rể đầu tóc bạc phơ) áp sát bông hoa hải đường (chỉ cô dâu trẻ mơn mởn).
(15) Cô dâu hỏi chú rể: năm nay chàng bao nhiêu tuổi? Năm mươi năm trước đây, ta mới có 23 tuổi!
(16) Ông Trần Tu đời Hậu Lê 73 tuổi đỗ tiến sĩ được vua gả cho cô công chúa 17 tuổi (lời chú của các tác giả Phan Văn Sách, Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng trong “Việt Văn Diễn Giảng Tiền Bán Thế Kỷ XIX” xb., Hà Nội, 1953). Không hiểu tại sao lại có trường hợp này? (nhận xét của soạn giả KĐL).
(17) & (18) Sự kiện tặng thiếp, nàng hầu cho người khác dù là ở thời xưa, thường xẩy ra ở Trung Hoa (như phản ảnh trong các tác phẩm văn học) nhiều hơn là ở Việt Nam.
(19) Sử gia Lê Văn Hưu trong “Đại Việt Sử Kí” phê bình vua Lí Thần Tông bắt các quan hoãn cưới gả con gái để chọn cung nữ: “Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn cho con cái có gia thất, thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sất phu sất phụ không được có nơi có chốn. Cho nên Kinh Thi tả sự ấy trong thơ “Đào yêu” và thơ “ Siếu hữu mai” để khen việc lấy chồng kịp thì và chê việc để lỡ thì vậy. Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển nguời vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là lòng làm cha mẹ của dân?” (Lời dịch trích trong “Đai Việt Sử Ký Toàn Thư”, tập I, Kỷ nhà Lý, Nhà xb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993, tr. 303.)
(20) Thời xưa ông vua dâm dục vô độ kén cả ngàn gái đẹp khắp nước vào cung. Cái cảnh 3000 con chim én (cung nữ) chen nhau tìm chỗ đậu trên một cây lớn (ông vua) cho thấy thân phận của cung nữ ra sao. Trong dân gian người ta tưởng tưọng ra cảnh trớ trêu: nàng cung nữ ba năm mới được một lần vua vời thì gặp đúng lúc “dở người”!
(21) “Tiền dâm hậu thú”: ăn nằm với nhau trước, có khi cô nàng có bầu to rồi đôi bên mới thú thật với cha mẹ. Lúc ấy muốn cho đẹp, cha mẹ đôi bên đành dẹp quyền “đặt đâu ngồi đấy” lại; cô dâu phải thắt bụng cho bé lại để làm đám cưới.
(22) Nhiều nhà nho cho rằng ở vào cái tuổi dậy thì, mới yêu lần đầu, tình yêu bồng bột mãnh liệt, cặp tình nhân đó khó có thể tự kìm hãm không “vượt qua biên giới cuối cùng” khi đã tự để lôi cuốn đến môi trường thuận tiện như vậy. Do đó họ vẫn lên án là Kiều hư hỏng.
(23) Giữ nết ngay thẳng như đốt (lóng) tre, không uốn cong bẻ gẫy được. Tính thẳng của đốt (nghĩa đen của tiết 節) cây tre hay trúc được người xưa dùng làm biểu tượng cho sự ngay thẳng của bậc chính nhân quân tử.
(24) Thành ngữ hán việt “đồng sàng dị mộng”: nằm chung giường nhưng mộng khác nhau (hướng về người khác) chỉ sự ngoại tình trong tâm tưởng.
(25) Tư tưởng Tống Nho với các ông thầy lớn sau Khổng, Mạnh như Trình, Chu được giới nho sĩ Việt thời quốc gia độc lập hấp thụ.
(26) Tôi trung không thờ hai chúa, gái trinh chẳng lấy hai chồng.
(27) Đức hạnh (của người đàn bà này) đáng được khen thưởng, phong tặng.
(28) Theo quan niệm của người Tàu thì thành ngữ “thờ chồng” có nghĩa là phụng sự chồng (còn sống) như bề tôi thờ vua, còn theo quan niệm Việt thì thành ngữ “thờ chồng nuôi con” chỉ trường hợp người vợ goá chịu ở vậy đề thờ (cúng) chồng (đã chết) và nuôi dạy con nên người.
(29) Vợ chồng phải kính trọng nhau như trong cách cư xử đối với khách. Nàng Mạnh Quang đời Hán mỗi lần dọn cơm bưng mâm cho chồng thì đưa lên ngang mày để tỏ ý kính trọng.
(30) Công: giỏi nữ công nội trợ; dung: nét mặt lúc nào cũng tươi vui đoan trang; ngôn: lời nói diụ dàng khoan hoà, chính đính; hạnh: tính tình ngay thẳng, chung thuỷ, nhất là trung thành đối với chồng.
(31) Cuối đời Lê-Trịnh, chúa Trịnh Sâm (1767-1782) mê vợ lẽ là Đặng thị Huệ (tục gọi là bà chúa Chè) nên bỏ con trưởng là Trịnh Khải, lập con của y thị là Trịnh Cán lên làm thế tử (nối ngôi chúa), mối loạn từ đó sinh ra làm họ Trịnh mất ngôi chúa.
(32) Trong “Việt Nam Ca Trù Biên Khảo” của hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề có sưu tập một số truyện ả đào có công phá giặc, trong đó có hai người không để lại tên là “Nàng ca nhi làng Đào Đặng lập kế giết quân Minh” và “Ả đào phá súng thần công của giặc”.


