2

Hình ảnh quen thuộc của nông thôn Việt Nam là các làng xóm có cây cối um tùm, có luỹ tre bao quanh nổi lên trên cánh đồng lúa xanh rờn vào thời kì lúa con gái, hay vàng rộm vào mùa lúa chín. Trước khi nền văn minh cơ khí của Tây phương tràn đến thì nông thôn chiếm hầu hết diện tích đất nước và tuyệt đại đa số dân chúng sống ở đó. Ngoài kinh đô và một số ít hải khẩu ra, các tỉnh, phủ, huyện lị chỉ có độ dăm ba khu phố theo những nghề tiểu thủ công nghiệp hoặc buôn bán nhỏ. Nhà cửa với nếp sinh hoạt của dân chúng ở những nơi đó cũng không khác nông thôn bao nhiêu. Cho nên có thể nói phần lớn các tâp tục xã hội liên quan mật thiết đến đời sống của quảng đại quần chúng trước kia xoay quanh hai phạm vi chính là gia đình – gia tộc và làng xóm.

            Riêng đối với làng xóm thì một đứa con trai, ngay từ khi mới ra đời, hoặc lớn hơn một chút, vào cái tuổi mới khô đầu khô sọ (1), từ năm, sáu tuổi đến mười hai, mười ba tuổi, tuỳ theo tục lệ từng nơi, cha mẹ nó đã phải trình làng để xin ghi tên nó vào sổ hương ẩm, đã phải có bổn phận đóng góp vào việc hàng giáp (2), chẳng hạn phải đi phúng viếng  hay đưa đám ma (khiêng đòn đám ma thật sự hay phải thuê người thay mình khiêng người chết ra cánh đồng để chôn). Đến  mười tám tuổi là trưởng thành, người thanh niên trở nên thành viên chính thức của làng, bắt đầu tham dự tích cực vào đời sống chung là làm tròn mọi nghĩa vụ (nộp sưu thuế, đi phu, đi lính, đóng góp lệ làng), hưởng đủ mọi quyền lợi (được chia phần xôi thịt sau khi tế thần thành hoàng của làng, được chia công điền công thổ, dần dần có chỗ ngồi ăn nói nơi đình làng) và tham gia các sinh hoạt công cộng như hội hè đình đám, gia nhập các hội đoàn tuỳ theo khả năng, sở thích như hội tư văn, hội hát, hội múa sư tử (lân) hay múa rồng v.v…

            Một người dân bình thường cả đời sống với nông nghiệp, không đi đâu xa, thì chỉ gắn bó với gia đình, họ hàng và làng xóm, nơi mình sinh ra, lớn lên, sống đến già và chết chôn ở đó. Phạm vi có thể mở rộng hơn là một vài làng cùng tổng, cùng huyện, do liên hệ hôn nhân như quê mẹ, quê vợ.

A. Đặc tính trong sinh hoạt làng xóm

            Làng khởi thuỷ có lẽ là địa bàn sinh hoạt của một thị tộc gồm những người có liên hệ huyết thống, liên hệ hôn nhân, sống quây quần với nhau để bảo vệ lẫn nhau chống lại thú dữ hoặc kẻ thù từ bên ngoài. Luỹ tre dầy vững chắc bao quanh làng với cổng đóng và điếm canh có tuần đinh gác ban đêm, cho thấy làng trước hết là một đơn vị an ninh.

Từ xưa cho tới mãi nửa đầu thế kỉ XX, thỉnh thoảng người ta còn thấy xẩy ra những vụ tranh chấp địa giới (ruộng, nguồn nước…) giữa vài làng kế cận đưa tới xung đột: dân hai làng vác gậy gộc, dáo mác dàn trận đánh nhau như truyện Lê Phụng Hiểu (chép trong “Việt Điện U Linh”). Họ Lê thân hình vạm vỡ, có sức khoẻ bạt chúng, nhân hai làng Cổ Bi và Đàm Xá tranh chấp địa giới; làng Cổ Bi được Phụng Hiểu đánh giúp nên thằng, làng Đàm Xá phải nhường.

            Có người dựa vào “Lĩnh Nam Chích Quái” cho rằng làng xã Việt Nam khởi đầu từ vua Hùng thứ tư (tức lang Liêu trong truyện “Bánh dầy bánh chưng”). Sau khi được truyền ngôi, nhà vua cho hai mươi mốt anh em chia nhau giữ các phiên trấn, lập bộ đảng, cứ thủ núi sông để làm hiểm cố. Về sau họ thường tranh nhau làm trưởng, người nào cũng dùng hàng rào gỗ (mộc sách) để che chở; bởi vậy có tên là “sách” là “trại” là “trang” bắt đầu từ đấy (3).

            Sau đó làng mở rộng để có thể gom một số dân từ nhiều nơi tập hợp lại để khai khẩn một vùng đất hoang, hoặc cùng có một nghề sản xuất như nuôi tằm dệt lụa, trồng bông dệt vải, trồng cói dệt chiếu v.v… Dân làng như vậy có thể gồm nhiều họ, rồi dân số tăng lên, làng mở rộng và phải chia thành xóm (thôn, giáp); nhưng làng vẫn là đơn vị chính. Như vậy làng là một đơn vị kinh tế.

            Sinh hoạt tập thể cần phải có bộ phận quản trị lo công việc chung như giữ gìn an ninh trật tự, tế lễ thần thánh, điều giải tranh chấp nội bộ, thay mặt dân làng giao thiệp với các cấp chính quyền cao hơn như huyện (phủ), tỉnh; như thế làng là một đơn vị hành chính, mà là một đơn vị cơ bản, có quyền tự trị khá rộng rãi, bởi vì mọi việc từ trên đưa xuống là chia cho từng làng mà không cần biết đến từng thành viên trong làng. Thí dụ lệnh triều đình đưa xuống cứ ba hay năm suất đinh lấy một người đi lính, mỗi mẫu ruộng, đất phải đóng thuế bao nhiêu tiền hay thóc, làng này phải đắp một quãng đường, một quãng đê từ đâu đến đâu v.v… thì chức dịch trong làng họp lại phân bổ cho các hộ (gia đình) đóng góp, ứng biện.

            Mỗi làng do nghề nghiệp, do nếp sinh hoạt từ lâu đời lại có những tập quán, tục lệ riêng, thờ một vị thần thành hoàng tức là vị thần bảo hộ dân làng, có sự tích và ngày giỗ để tế lễ riêng. Những tập tục ấy nhiều nơi trở thành một thứ luật bất thành văn (4) mà dân trong làng bắt buộc phải tuân theo, từ đời nọ sang đời kia, không thể bỏ được, có khi trái với luật nước thì tục lệ làng vẫn thắng vì “phép vua thua lệ làng”!

            Thí dụ lệ cheo, mỗi khi một cặp trai gái kết hôn với nhau, muốn được dân làng chính thức công nhận là vợ chồng thì phải nộp cheo cho làng, tuỳ nơi, có thề gồm trầu rượu, một hay hai quan tiền, hoặc có làng bắt phải nộp hiện vật như một đôi mâm đồng phải thửa đúng kích thước, kiểu cách để làng dùng trong dịp cúng tế, cỗ bàn hoặc cho tư gia mượn vào dịp giỗ chạp, ma chay, cưới gả, khao vọng… Có nơi trai làng lấy gái làng thì khoản cheo nhẹ hơn là trai làng khác đến lấy gái làng này. Lệ cheo bắt buộc này được phản ảnh trong câu ca dao:

Có cưới mà chẳng có cheo,
Nhân duyên trắc trở như kèo long đanh.

Do vậy, một người con trai hay một người con gái lúc dời làng đi nơi khác làm ăn sinh sống mà còn độc thân, sau đó lập gia đình có con cái rồi, khi trở về làng cũng phải nộp cheo cho làng, đó là lệ. Còn luật xưa kia, người ta có thể thấy một người đàn bà có chồng mà bị bắt quả tang ngoại tình, bị trói vào cột đình làng, rồi bị gọt trọc bôi vôi để cả làng cùng bêu riếu; hoặc một tên ăn cắp, một đứa con bất hiếu đánh cha chửi mẹ… bị nọc ra giữa sân đình đánh đòn, một cô gái không chồng mà chửa bị lôi ra đình cho làng bắt vạ vì làm hại thuần phong mĩ tục là chuyện thường (5).

            Như vậy làng là một đơn vị về phong tục, luật lệ, tín ngưỡng, tóm lại là một đơn vị văn hoá nữa.

            Mà ở tất cả những lãnh vực kể trên, làng là nền tảng, mọi việc xuất phát từ đó, do đó mà nên hay hư và ảnh hưởng đến cả quốc gia vì quốc gia sống theo nông nghiệp, mà tuyệt đại đa số dân chúng sống ở nông thôn, tức ở làng xóm.

B. Sự ràng buộc tình cảm của cá nhân đối với làng xóm

            Như trên đã nói, bình thường thì làng xóm là nơi một cá nhân sinh ra, lớn lên, sống cả đời ở đó với bao bổn phận phải chu toàn cùng với nhiều quyền lợi được thụ hưởng. Song thật ra về mặt vật chất thì khi sống ở làng xóm, người dân thường trong khoảng từ mười tám đến bốn mươi chín tuổi, phải đóng góp nhiều hơn là được thụ hưởng. Nhưng về mặt tình cảm thì người dân Việt thời trước coi làng xóm, nơi bản thân, gia đình, họ hàng mình sống trọn đời ở đó, là một chỗ dựa không thể thiếu được.

            Về phương diện kinh tế, một cá nhân có thể tạm thời dời làng đi nơi khác làm ăn sinh sống, có khi còn khấm khá hơn lúc ở làng nữa; song về mặt tình cảm mà phải bỏ nơi chôn rau cắt rốn đi tha phương cầu thực là một điều không ai mong muốn; và nếu bất đắc dĩ phải như vậy thì cũng ít người chịu lìa hẳn gốc. Chẳng hạn một người đi làm ăn xa mà không bỏ hẳn làng cũ để xin nhập tịch làng khác thì thân nhân ở làng cũ vẫn phải thay mặt đương sự làm tròn mọi nghĩa vụ và nhận hưởng mọi quyền lợi. Đến ngày gìỗ, ngày tết, người ấy cũng cố gắng về làng để cúng giỗ, thăm phần mộ tổ tiên, quây quần sum họp với gia đình, họ hàng cùng bà con làng xóm. Thảng hoặc một người đi xa mà làm nên được danh phận, vinh dự lớn, hoặc trở nên giàu có, thì người ấy cũng đem cái danh phận, vinh dự hoặc của cải của mình về làng để được tiếng thơm cho bản thân và gia đình nơi quê cha đất tổ.

            Chính do cái tinh thần trọng gốc ấy mà triều đình xưa kia cũng đặt ra những tập tục, luật lệ ràng buộc cá nhân với quê hương bản quán như khi nộp quyển đi thi phải cung khai tam đại, làng xã nguyên quán; khi thi đỗ được vinh qui bái tổ, làng xã cũng phải đi rước các vị tân khoa về làng, vì làng có người thi đỗ cao làm quan to tất cũng vinh dự lây, có thế giá với cả vùng. Một ông tân khoa đem bằng sắc về làng cũng phải làm lễ cáo tổ tiên, bày cỗ khao họ hàng làng xóm vì “vô vọng bất thành quan”.

            Tuy nhiên, một người dù đỗ cao làm quan to, bản thân và gia đình được làng xóm trọng vọng, nhưng cách cư xử vẫn phải lấy tình cảm làm gốc, mà không được vênh vang hống hách. Đó là ý nghĩa câu tục ngữ “sống ở làng, sang ở nước”. Còn người bình thường lại càng phải khéo léo trong cách ăn ở với hàng xóm láng giềng, vì quanh năm ngày tháng ra vào trông thấy nhau, khi tắt lửa tối đèn có nhau, lúc vui buồn, khi hoạn nạn ắt cần đến những người ở gần mình chạy đến chia sẻ, an ủi, giúp đỡ. Do đó nhiều khi người ta phải “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.

            Nhân nói đến từ “láng giềng”, có người cho rằng gốc của những từ ấy là từ “giếng làng” nói lái đi mà thành. Ngày xưa người ta ăn uống nước giếng đào chung. Hàng ngày giếng là nguồn nước ngọt mà người cùng làng xóm đều đến múc đem về thổi cơm nấu nước; vì vậy tình láng giềng là tình nghĩa của những con người cùng chia ngọt sẻ bùi. Nhất là khi làng là một đơn vị kinh tế, người trong làng cùng sống bằng nghề nông hoặc một nghề tiểu thủ công nào đó thì mọi biến cố xẩy ra như bão lụt mất mùa, dịch bệnh người hay gia súc; hoặc gặp năm được mùa, năm mà món hàng sản xuất được giá v.v…, mọi người trong làng cùng nhận chịu ảnh hưởng chung. Bởi vậy sau gia đình, gia tộc, người cùng xóm làng phải có bổn phận thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.

            Trong trường hợp một người đi xa mà phạm tội ở địa phương khác thi chính quyền ở địa phương ấy cũng ra lệnh truy nã, hoặc thông báo về nguyên quán để ở đó không được chứa chấp che chở, hoặc để gia đình làng xóm lấy đó làm điều tổn thương đến danh dự chung mà răn đe cho đương sự hối cải; vì một người sống bất lương ở nơi nào khác thì cũng phải dành một nơi sống yên ổn cuối cùng cho đời mình là quê hương bản quán. Tục ngữ có câu “đánh đĩ chín phương, phải để một phương lấy chồng” là vậy.

            Chót hết khi về già, một cá nhân dù lang bạt ở đâu, cũng mong được sống quãng đời cuối cùng và chết nơi quê cha đất tổ, được chôn gần ông bà ông vải. Cho nên trong bài “Di chúc” để lại cho con, Nguyễn Khuyến đã viết:

Sống được tiếng trên đời trọn vẹn,
Chết lại gần quê quán hương thôn.
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Ăn chơi đã trải, chết chôn chờ gì!

            Còn nếu chẳng may bỏ thân nơi đất khách quê người thì đó là một điều đau đớn tủi nhục, nhất là lúc lâm chung không có người thân thích lo liệu phải nhờ đến từ tâm của người ngoài, rồi cô hồn vất vưởng tha phương thì quả là điều đáng ghê sợ! Thảng hoặc có người nào lâm vào cảnh ấy thì vợ con thân thích sau này cũng phải cố lo cải táng, đem nắm xương tàn của người bất hạnh vể để vong hồn người ấy được sum họp với người sống và người chết nơi quê nhà.

            Những nhận định như làng xóm là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có họ hàng thân thích, nơi có phần mộ tổ tiên là những nhận định có giá trị rất lớn về mặt tình cảm. Người dân Việt xưa, như vậy đã dùng sợi dây tình cảm tự ràng buộc mình với làng xóm; xã hội Việt xưa cũng ràng buộc cá nhân với làng xóm bằng những luật lệ bất thành văn là phong tục tập quán. Nơi một cá nhân đang làm ăn sinh sống mà không phải là làng gốc của mình thì chỉ là nơi ngụ cư, mà dân ngụ cư thì không được coi trọng và không được hưởng những quyền lợi như dân làng chính gốc, có khi phải đóng góp nặng nề hơn. Bởi vậy nếu thấy không có cơ hội trở về làng cũ, người dân ngụ cư phải lo xin nhập tịch làng mới, nhiều khi phải trải qua một thời gian thử thách lâu dài đến năm, bảy năm, hoặc phải có công lao và có được nhiều thiện cảm của dân làng mà người đó muốn nhập tịch.

C. Bậc thang giá trị nơi làng xóm

  1. Sự kính trọng tuổi tác (tinh thần trọng xỉ)

            Tôn lão quyền là tập tục nhân loại có từ buổi sơ khai vì các vị bô lão là những người sống lâu, giàu kinh nghiệm quí báu, cần thiết cho mọi mặt sinh hoạt để truyền lại cho các thế hệ con cháu. Hình ảnh vị tù trưởng bộ lạc mà người ta nghĩ tới phần nhiều là hình ảnh một ông lão đầu râu tóc bạc. Dĩ nhiên cũng có những vị thủ lãnh trung niên hoặc trẻ tuổi, đó là một số ít trường hợp những người tài cao lỗi lạc. Thông thường trẻ tuổi là những người thừa hành xông xáo tháo vát, còn lãnh đạo về mưu trí là những người cao tuổi.

            Khi đời sống tinh thần cao lên nhờ trình độ nhận thức và suy luận, người ta thấy rằng tuổi thọ không phải là điều ai muốn cũng có được, kể cả những người lắm tiền của, nhiều quyền thế như vua chúa, quan to, phú hào. Người sống lâu phải là người có phước, nên được Trời cho tuổi thọ. Đó là một thứ hạnh phúc được coi là thiên tước mà đem so với nhân tước ─ tước vị của người (vua chúa) ban cho ─ thì thiên tước quí hơn nhiều.

            Cho nên lệ làng đặt ra cho những người từ sáu mươi tuổi (âm lịch) trở lên, dù không làm nên danh phận gì to tát như học hành đỗ đạt, có quan tước, tức là từ anh bạch đinh (dân chân trắng) đi lên cũng được vào hạng lão nhiêu có chỗ ngồi khá cao ở đình làng mỗi khi có họp hành cỗ bàn; do đó có câu “sống lâu lên lão làng”. Trước đó vào năm năm mươi lăm tuổi, một nam công dân đã “ra lão” tức là đem trầu rượu ra trình làng, rồi tuỳ theo gia cảnh giàu nghèo mà bày cỗ khoản đãi họ hàng làng xóm để ăn mừng đến tuổi được miễn mọi thứ sưu thuế dao dịch như tả trong bài thơ “Lên lão” của Nguyễn Khuyến:

Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm nhăm ông cũng lão đây mà!
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên đình lên với tớ,
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bực ăn dưng nhỉ,
Có rượu thì ông chống gậy ra.

            Lại nữa, vào tuổi đó, một người thường cũng đã có con trưởng thành, cháu nội cháu ngoại có khi đầy đàn, đây cũng lại là một thứ hạnh phúc đáng ước ao. Lên đến bảy, tám, chín mươi tuổi thì đã là bậc thượng, đại thọ. Con cháu, chắt tuỳ theo gia cảnh, làm lễ tế sống, bày cỗ ăn mừng, đọc văn chúc tuổi thọ cho cha mẹ, ông bà, cụ kị để tuyên dương cái vinh dự của các cụ là được Trời cho sống lâu, để tất cả hãnh diện là nhà có phước.

2. Tinh thần tôn trọng tôn ti trật tự

            Thoạt đầu lòng kính trọng của con người đối với đồng loại phát khởi từ hai căn nguyên:

  • Sự tôn kính người bề trên theo bậc thang thế hệ: con cháu kính trọng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là vai trên trực hệ; sau đó mở rộng ra chú bác, cô dì, cậu mợ, anh chị, nói chung là người hơn tuổi, hoặc những người có chức ‘trưởng’ như gia trưởng, tộc trưởng, huynh trưởng… vì những vị trưởng này có trách nhiệm lớn tương xứng với danh dự của họ. Sự tôn trọng tôn ti trật tự này nằm trong phạm vi gia đình gia tộc, chủ yếu do liên hệ huyết thống mà có.
  • Lòng kính trọng cũng tự nhiên hướng về những người có nhiều khả năng giúp ích đồng loại như thầy thuốc, thầy học, hiệp sĩ… hoặc những người có đạo đức, sống gương mẫu, chế ngự được dục vọng thấp hèn, không để chúng lôi cuốn làm những điều sằng bậy ích kỉ hại nhân, chẳng hạn các vị chân tu của các tôn giáo. Tôn ti trật tự này do nhu cầu và mối tương quan xã hội mà có.

            Tinh thần tôn trọng tôn ti trật tự trong xã hội Việt Nam xưa, nhất là ở nông thôn làng mạc chiếm phần lớn diện tích và dân số trong nước lúc ấy, cũng biểu hiện ở lòng kính mộ đối với các tầng lớp người nói chung có đức có tài, sẵn sàng giúp đỡ tha nhân như các vị thiền sư đạo cao đức trọng, các bậc vua quan sáng suốt nhân từ theo đúng giáo lí đạo Nho là biết thương dân, lo cho dân như cha mẹ đối với con cái (dân chi phụ mẫu), các bậc nho sư dạy cho dân biết đạo lí lễ nghĩa của thánh hiền, theo điều hay lẽ phải, tránh điều trái việc dữ, tóm lại là biết sống đúng với đạo làm người.

             Xã hội càng ngày càng phát triển và đời sống trở nên phức tạp với cả một hệ thống cấp bậc hành chánh, quân sự từ cao xuống thấp, từ trung ương tới địa phương, hệ thống giá trị xã hội cũng trở nên phức tạp theo. Người bề trên (thượng cấp) không cứ là người hơn tuổi, mà nhiều khi lại là những người trẻ, nhờ có tài cao mà giữ được quyền to chức lớn. Cũng dễ hiểu là xã hội càng tiến hoá thì thế hệ sau ắt phải khôn lanh giỏi giang hơn thế hệ trước vì học kinh nghiệm của người đi trước thì nhanh hơn là phải sống trải để tự rút kinh nghiệm bàn thân; chính các cụ cũng mong điều “con hơn cha là nhà có phúc”.

            Nhưng rồi xã hội cũng trải qua những giai đoạn suy thoái phân hoá. Con cái những nhà giàu sang, nhờ tiền bạc, quyền thế, dù ít tuổi, dù tài hèn đức mỏng, hoặc tệ hơn, bất tài vô hạnh cũng vẫn chiếm địa vị cao buộc người khác phải tôn trọng mình, dù chỉ là tôn trọng bề ngoài, kính sợ trước mặt, còn sau lưng thì người ta khinh bỉ.

            Tuy vậy nhìn chung nơi làng xóm Việt Nam thời quân chủ chịu ảnh hưởng Nho giáo, hệ thống cấp bậc xã hội ─ trong đó có những giá trị đích thực ở vào tình trạng vàng thau lẫn lộn ─ vẫn được duy trì; những người có chân tài thực đức vẫn được mọi người kính trọng nể vì.

            Sự tôn sùng các vị anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần v.v… bằng cách lập đền thờ các vị ấy để đời đời khói hương tưởng nhớ, lòng sùng kính các vị có công lớn với làng xã dân thôn bằng cách tôn các vị ấy làm thần thành hoảng thờ ở đình làng, hàng năm hai kì xuân thu tế lễ (6) là hình thức cao nhất của tinh thần tôn trọng tôn ti trật tự của dân tộc Việt. Đến đây thì từ phạm vi bậc thang giá trị xã hội bước lên phạm vi tín ngưỡng rồi.

            Đến đây chúng tôi muốn đặc biệt nói thêm về ngôi tiên chỉ ở mỗi làng, vì đối với ngôi vị cao nhất làng này, người dân làng biểu lộ một hình thức kính trọng “tổng hợp”. Tiên chỉ nghĩa đen là “đứng đầu giấy” (tiên 先: trước, chỉ 紙: giấy). Mỗi khi tế thần ở đình làng, ông tiên chỉ là người đứng chủ tế, trong tờ sớ (chúc văn) đọc trước bàn thờ thần, ở cuối phần liệt kê tên các vị chức sắc hào mục trong làng thì tên ông tiên chỉ cũng đứng đầu. Lúc họp hành hoặc ăn cỗ ở đình làng thì chỗ ngồi cao nhất là của ông tiên chỉ. Lúc chia phần thịt sau khi tế thì cái thủ (đầu của con lợn, trâu, bò hay gà) là phần biếu ông tiên chỉ.

            Tiên chỉ không phải là một chức vụ hành chánh do cấp trên bổ nhiệm xuống, mà là một ngôi vị danh dự do dân làng (thực ra là do hàng chức sắc, bô lão) suy cử lên theo tập tục. Do đó ông tiên chỉ không phải làm việc và chịu trách nhiệm trước quan trên là quan phủ hay quan huyện. Người làm việc công và chịu trách nhiệm hành chánh là lí trưởng và phó lí (trưởng). Sau tiên chỉ là thứ chỉ ăn phần thịt biếu là cái cổ.

            Ngôi tiên chỉ ở mỗi làng thường dành cho vị hưu quan về trí sĩ ở làng, vừa già cả, vừa có đạo cao đức trọng, vừa có khoa hoạn cao nhất làng giữ đến suốt đời. Làng nào không có bậc khoa hoạn thì người nào có tuổi, có đức (nhiều khi thêm sự giàu có, thế lực), được dân làng kính trọng nhất thì giữ ngôi vị này. Mọi việc trong làng trên thực tế muốn được dân thuận tình thi hành một cách êm xuôi trôi chảy thì phải có sự tán đồng của ông tiên chỉ được lòng dân, nói người ta nghe theo, còn lí trưởng là người thừa hành lệnh trên, chỉ cần tháo vát nhanh nhẹn thôi.

            Nhà thơ Nguyễn Khuyến, khoa thì đỗ đến tam nguyên, hoạn thì làm đến tổng đốc ba tỉnh, khi từ quan về làng (Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), giữ ngôi tiên chỉ trọn đời, nên trong một câu đối tự vịnh của ông có đoạn “cái thủ lợn nhìn thầy đà nhẵn mặt”. Còn nhà thơ Trần Tế Xương chỉ đỗ tú tài, không có hoạn, nên ở làng (Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định), ông chỉ giữ ngôi thứ chỉ, trong bài phú tự vịnh, ông cũng có câu:

Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh, nọng (7)

3. Tinh thần trọng văn trọng sĩ

            Dân tộc Việt Nam vốn rất yêu thích thưởng thức và sáng tác văn chương. Hầu như người Việt nào cũng có thể làm thơ, và ai nghe hoặc đọc một đoạn thơ hay cũng thấy thích thú, dù trình độ cảm thụ có cao thấp khác nhau. Chính vì thế mà khi chuyển sang hệ thống giá trị xã hội, những người có văn học ─ cũng như người học thức ngày nay ─ cũng rất được nể trọng, khác hẳn người võ biền không được quí trọng bằng.

            Khởi thuỷ có lẽ dân tộc Việt yêu văn và trọng võ, bởi lẽ tinh thần thượng võ rất cần cho một dân tộc phải thường xuyên đương đầu với nạn ngoại xâm. Trong những ngày hội hè đình đám ở các làng rải rác từ Bắc vào Trung, vẫn có nhiều nơi tổ chức các cuộc thi có giải thưởng hoặc các cuộc vui chơi giải trí đề cao tinh thần thượng võ như đấu vật, đấu võ, kéo co, bơi trải (đua thuyền) v.v…

            Dần dần theo bước đi của lịch sử, ảnh hưởng của Trung Hoa với chính thể quân chủ tôn sùng Nho học tràn đến. Triều đình dùng chế độ giáo dục và khoa cử chủ yếu là văn học với nội dung đề cao luân lí lễ giáo Khổng, Mạnh để chọn nhân tài vào guồng máy nhà nước. Sự khích lệ của triều đình đối với giới theo đuổi việc bút nghiên như lệ xướng danh (truyền lô hay bắc loa gọi tên người thi đỗ), viết tên trên bảng hổ hay bảng rồng những người đỗ cử nhân, tiến sĩ (8). Ngoài ra các vị tân khoa còn được vua ban cho áo mũ cân đai, được rước về làng vinh qui bái tổ. Riêng các ông nghè (đỗ tiến sĩ trở lên) được khắc tên vào bia đá đặt ở văn miều thờ đức Khổng Tử. Tất cả đều có công dụng đề cao tinh thần trọng văn trọng sĩ.

                Noi gương triều đình, tục lệ làng xóm cũng nâng đỡ những người đi học: những anh khoá thầy đồ trúng tuyển các kì thi thử được miễn mọi dao dịch. Thậm chí có làng thiếu bậc khoa hoạn, muốn khuyến khích việc học còn trích công điền cấp cho khoá sinh để lấy hoa lợi mà ăn học. Làng nào có các vị đỗ cao làm quan to, muốn hãnh diện với thiên hạ còn xây văn chỉ thờ đức thánh Khổng, lập hội tư văn lấy người có văn học vào làm hội viên để hàng năm xuân thu nhị kì mở cuộc tế lễ long trọng.

            Trong xã hội xưa chỉ cần tự xưng và có dáng vẻ thư sinh (yếu ớt, thanh nhã) thì dù còn là anh học trò mặt trắng (bạch diện thư sinh) cũng đủ để người đối diện có thái độ nể vì, bởi biết đâu chỉ qua một vài khoa thi, một anh đồ kiết xác có thể leo vọt lên bậc thang mây, mau lẹ trở thành ông nghè ông trạng võng lọng nghênh ngang. Chính bản thân người học trò cũng tự biết cái tiềm năng “có thể trở nên” của mình nên thường có thái độ tự hào; và khi bị kẻ đi trước đang ở địa vị bề trên, nhất là kẻ võ biền coi thường xúc phạm thì phản ứng lại bằng thái độ bất khuất ngạo nghễ.

            Trong rừng giai thoại làng nho có đầy dẫy nhưng câu chuyện đại khái một ông quan văn hay võ cưỡi ngựa hay đi võng, đi kiệu có tiền hô hậu ủng ngoài đường, trong khi người dân thường sợ sệt tránh giạt ra hai bên cho quan lớn đi thì lại có những kẻ bướng bỉnh cứ nghênh ngang đi giữa lộ. Đến lúc bị lính bắt đến cho quan hỏi, kẻ đó chỉ cần tự xưng mình là học trò, thế là ông quan thử xem thực hay hư bằng cách ra cho một vế câu đối bắt đối, hoặc ra cho đầu đề bắt làm thơ. Và rồi tiềm năng có dịp bộc lộ, anh học trò ăn mặc rách rưới kia chỉ việc trổ văn tài của mình ra cho quan phải trọng nể; vì chẳng qua ông là người đi trước, tôi là kẻ bước sau, nay mai tôi sẽ trở nên đồng nghiệp với ông, và rất có thể trở nên thượng cấp của ông không chừng! Thời cơ, “cờ đến tay ai người ấy phất” mà! Nhiều khi lợi dụng cơ hội, hoặc chính đương sự tạo ra cơ hội, anh hàn sĩ kia dùng chữ nghĩa chửi xỏ mấy ông quan hách dịch, cho ông một bài học để ông bớt thái độ hống hách mất lòng dân đó đi (9).

            Tiêu biểu cho thái độ tự hào, lòng tin ở vai trò kẻ sĩ tất hữu dụng của mình trong xã hội thời quân chủ là thái độ của Nguyễn Công Trứ biểu lộ trong bài phú “Phong vị hàn nho”, bài hát nói “Kẻ sĩ” hay bài thơ “Vịnh văn võ” trong đó ý trọng văn khinh võ thật rõ rệt:

Đoái xem văn võ cả hai hàng,
Bên văn sang, bên võ cũng sang!
Dù tía võng xanh, văn đủng đỉnh,
Gươm vàng thẻ bạc, võ nghênh ngang.
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương.
Gặp hội thái bình văn trước võ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương! (10)

            Xã hội Việt xưa như vậy, về kinh tế là xã hội trọng nông (dĩ nông vi bản), và về chính trị, văn hoá lại trọng nho, trọng sĩ hay trọng văn. Trong tứ dân (sĩ, nông, công, thương) thì sĩ đứng đầu. Trong thời kì Nho học độc tôn (hai triều Hậu Lê và Nguyễn, từ thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XIX), lắm khi nhà nho tự hào quá đáng: “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” (11) vì giới thư sinh nho sĩ có vai trò thích hợp nhất với chế độ quân chủ chuyên chế; họ là môn đồ của học thuyết chính trị tôn quân quyền của Khổng, Mạnh, là công cụ đắc lực của chế độ, nên được dành cho đủ thứ vinh dự, quyền lợi đến nỗi người ta có thể tìm thấy tất cả trong kinh sách: “thư trung hữu kim ngọc”, “thư trung hữu mĩ nhân”, “lưu tử kim mãn doanh, hà như giáo nhất kinh” (12). Thảo nào mà các cô gái thời xưa:

Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Chỉ ham cái bút cái nghiên anh đồ!

vì nếu các cô có gan đầu tư để làm bà quan thì hãy lấy anh học trò nghèo, chịu thương chịu khó nuôi anh ăn học thành tài thì cảnh “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” trong giấc mơ rồi sẽ trở thành hiện thực.

4. Phân biệt khoahoạn

            Thông thường thì khoa (thi đỗ) và hoạn (làm quan) đi đôi với nhau. Khoa là điều kiện đi trước của hoạn vì có thi đỗ (từ cử nhân trở lên) mới được bổ làm quan (từ tri huyện trở lên). Có thể có khoa mà không có hoạn: người thi đỗ vì lí do nào đó không ra làm quan, như Nguyễn Quí Tân (1811-1856) đỗ tiến sĩ, nhưng tính ưa sống phóng khoáng, không chịu để lợi danh ràng buộc nên không xuất chính. Cũng có trường hợp ngược lại, không có khoa, hoặc khoa không đủ mà vẫn có hoạn; thường là vào lúc giao thời, triều đại cũ sụp đổ, trải qua một thời kì loạn lạc, không tổ chức được các kì thi; triều đại mới lên cầm quyền, cần gấp người cho bộ máy chính quyền mới, nên vời những người có tài có tiếng ra làm quan, không cần thi cử (13). Cũng có thể lợi dụng chế độ thối nát, nhiều kẻ luồn lọt, đút lót hoặc dựa vào thế lực của họ hàng vây cánh mà ra làm quan, không cần bằng cấp gì.

            Do đó quan niệm xưa vẫn cho khoa có giá trị đích thực lâu bền hơn hoạn, vì một người thi đỗ thường phải mất công giùi mài kinh sử (thập niên đăng hoả trở lên), rồi bản thân người đi thi cùng ông bà cha mẹ người ấy cũng đã phải tu nhân tích đức từ nhiều đời nhiều kiếp mới được, như Nguyễn Khuyến nói trong bài “Ông tiến sĩ giấy”:

Hỡi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu (14).

            Một người đã thi đỗ thì có cái học vị suốt đời, còn hoạn thì có thể đạt được bằng phương tiện bất chính; nó cũng có thể có đó rồi mất đó dễ dàng như Nguyễn Công Trứ có lần đang làm tổng đốc (đứng đầu một tỉnh), chỉ vì một lỗi nhỏ, bị cách tuột xuống làm lính. Cho nên đối với một ông thi đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan một thời gian, lúc về hưu ở làng, bản thân ông đó cũng như mọi người khác ưa dùng học vị để gọi kèm với tên hơn là dùng chức quan. Nếu trong làng, ông đó là người có học vị cao nhất hoặc là người có bằng cấp cao duy nhất, người ta chỉ cần gọi học vị đi kèm với tên làng, hoặc cùng lắm là kèm thêm họ, chứ không gọi tên huý, do tục kiêng tên để tỏ lòng kính trọng.

            Thí dụ trường hợp Nguyễn Khuyến, người ta gọi là “cụ Tam Nguyên Yên Đổ” chứ không gọi là “cụ Tổng đốc tam tỉnh”, vì thành tích đỗ đầu ba khoa thi hương, hội và đình giữ được suốt đời, còn chức tổng đốc ba tỉnh Sơn, Hưng, Tuyên, ông chỉ giữ một thời gian ngắn, khi về hưu là không còn chức ấy nữa.

            Tới đây, một lần nữa, ta lại thấy đời sống tinh thần, đời sống tình cảm của một cá nhân thời xưa gắn bó mật thiết với làng xóm như thế nào. Một người thi đậu đại khoa (tiến sĩ trở lên) làm vinh dự cho cả làng nên được cả làng tôn kính. Chính bản thân người ấy cũng cảm thấy tăng thêm vinh dự vì công phu đèn sách của mình đem lại vinh dự cho bao người: thầy học, cha mẹ, vợ con, họ hàng, làng xóm. Đến nay dù chỉ còn là vang bóng một thời, chúng ta vẫn còn thấy quen tai với những tên gọi như cụ Hoàng giáp (làng) Tam Quang, cụ nghè (làng) Phạm Xá, ông cử (làng) Mĩ Lí, ông tú (làng) Vị Xuyên v. v…

D. Một số tệ đoan nơi làng xóm

            Vào thời kì thịnh trị, trên thì vua quan sáng suốt nhân từ, dưới làng xóm thì bậc đàn anh có tư cách đạo đức, có công tâm, đặt ra hay giữ được thuần phong mĩ tục thì đời sống dân chúng nơi làng xóm thật là êm ả dễ chịu. Nhưng ảnh hưởng của những giai đoạn xã hội suy đồi lại kéo dài hơn và một số tệ đoan nơi làng xóm Việt Nam đã trở thành thâm căn cố đế.

  1. Nạn ngôi thứ chốn đình trung

            Mối quan tâm chính của một nam công dân trong cuộc sống tập thể nơi làng xóm là làm sao có được một ngôi thứ cao trong bậc thang địa vị. Nói khác đi, họ phải kiếm cách để có một chỗ ngồi ở chiếu cao chốn đình trung hầu mở mày mở mặt với làng xóm. Như trên đã nói, lòng kính trọng của dân chúng tự nhiên hướng về những người có chân tài thực đức tức là những người có khả năng và sẵn lòng giúp đỡ tha nhân. Khuynh hướng tự nhiên của con người là luôn luốn cố gắng vươn tới những giá trị cao hơn, và đó là điều chính đáng.

            Nhưng khi xã hội gặp cảnh loạn lạc, phong hoá bại hoại thi hệ thống giá trị bị đảo lộn, lòng hiếu danh của con nguời phát triển, hướng tới những giá trị giả tạo và thúc đẩy con người cố đạt được mục đích bằng phương tiện bất chính: nó trở thành lòng ham muốn hư danh. Người ta tìm đủ mọi cách để có một chút địa vị xã hội, không có tài đức thì bỏ tiền ra mua cốt sao mọi người phải nể vì mình, nhất là khi địa vị ấy cho phép người ta tránh được nhiều nghĩa vụ, nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi.

            Nạn mua bán ngôi thứ ở làng xã từ đó phát sinh. Tuỳ tục lệ từng nơi, ngay từ khi còn tấm bé, cha mẹ đứa con trai đã phải vọng ngôi hương ẩm cho nó bằng một lễ trầu rượu trình làng để được ghi tên vào sổ hương ẩm (hạng ti ấu dưới mười tám tuổi). Rồi càng lớn lên, muốn ngoi tới những ngôi thứ cao hơn, người ta càng phải theo lệ vọng nặng hơn: không phải chỉ cơi trầu chai rượu mà là mâm xôi con gà hay mâm xôi thủ lợn, cộng thêm tiền nữa. Muốn tránh khỏi hạng bạch đinh bị gọi là tên nọ tên kia, muốn được là ông này bà nọ thì phải bỏ tiền ra mua ngôi thứ, thấp thì nhiêu, xã; cao thì lí, chánh (lí trưởng, chánh hội) (15), càng cao càng mất nhiều tiền. Mua được ngôi thứ rồi, người ta có được địa vị danh vọng, được mọi người nể trọng, dù chỉ là bề ngoài, lại được miễn mọi dao dịch như đi phu phen, đắp đê đắp đường, hoặc che lọng khiêng võng cho quan, còn được ngồi chiếu cao nơi đình làng, được ăn được nói.

            Thế là để thoả mãn thói ham danh hão, người ta phải bỏ ra số tiền không phải nhỏ, nhiều khi phải bán một phấn tài sản như ruộng vườn là kết quả của bao năm làm lụng cực nhọc mới có được. Số tiền bỏ ra một cách uổng phí ấy lại gây thêm nhiều tệ đoan khác như ganh tị ngôi thứ cao thấp với chỗ ngồi chiếu trên chiếu dưới chốn đình trung và tệ nạn ăn uống như trình bày sau đây.

2. Tục hương ẩm

            Thoạt kì thuỷ, họp nhau ăn uống chẳng có gì là một tệ đoan. Các bộ lạc du mục, sau buổi đi săn, họp nhau lại nướng con mồi săn được, cùng nhau múa hát vui vẻ, rồi xẻ ra ăn chung tại chỗ. Sự chung nhau hưởng thụ kết quả của cuộc đi săn củng cố tinh thần tập thể, không làm nẩy sinh óc tư hữu ích kỉ. Sang giai đoạn nông nghiệp định cư, sau thời vụ canh tác vất vả, khi gặt hái xong, người ta giết gia súc, thổi xôi mới tế lễ các vị thần linh mà người ta tin là đã bảo hộ con người và giúp cho được mùa thu được nhiều hoa lợi, để tạ ơn và cầu an cầu phúc tiếp theo. Sau đó mọi người (những người có mặt) họp nhau lại ăn uống để chung vui hưởng kết quả lao động của mình, và chia phần cho những người vắng mặt; tất cả đều được nhận phần phúc lộc mà thần linh đã ban giáng vào lễ vật dâng lên cúng tế (xôi thịt). Tiếp theo là những trò vui chơi giải trí để xả hơi sau những tháng ngày dài dãi nắng dầm mưa. Đó là ý nghĩa chân chính của những ngày hội hè đình đám mà sau này ta gọi là những cuộc liên hoan lễ lạc; chỉ khác là thời xưa thấm đượm tinh chất tín ngưỡng, tôn giáo.

            Nhưng vào thời kì xã hội suy đồi, nhưng kẻ bề trên tại các làng xã là những kẻ tham lam ích kỉ thì ý nghĩa đích thực của những cuộc tế lễ ăn uống mất dần; người ta chỉ nhìn thấy đó là những dịp kẻ bề trên lợi dụng để hưởng thụ một cách bất chính mọi đóng góp của tập thể. Tiền công quĩ do lệ này lệ nọ, do người này vọng ngôi thứ này, kẻ kia mua ngôi thứ kia, được dùng rất ít vào những việc công ích ─ đó mới là mục đích chính đáng của mọi đóng góp của tập thể ─ mà động có chút việc gì là dở ra ăn uống theo cái chủ trương hủ bại “dĩ thực vi tiên”. Người ta ganh nhau chỗ ngồi cao thấp ở chốn đình trung đã là tệ, người ta còn tị nhau phần xôi thịt chia ra hơn kém vì “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” mà quên rằng miếng “thịt” là miếng “nhục” (từ hán việt nhục là thịt) và miếng ăn quá khẩu thành tàn. Cho nên ý nghĩa các từ, ngữ “xôi thịt” và “óc xôi thịt” đã trở thành những từ, ngữ có ý nghĩa mỉa mai những kẻ chỉ lợi dụng việc công đề làm lợi riêng cho mình (16).

Ngoài những dịp tế thần lễ thánh phải đóng góp chung hay chia phiên đăng cai (17), người ta còn ăn uống ở tư gia như tục lệ ăn khao vào những dịp thi đỗ, thăng quan, lên lão, được vua ban hay mua được chức tước, phẩm hàm, ngôi thứ, nhất nhất các đương sự đều phải làm cỗ mời họ hàng, quan viên trong làng, bà con lối xóm đến đãi đằng ăn uống cho chu tất, có khi kéo dài đến mấy ngày; nếu không thì không được công nhận vì “vô vọng bất thành quan” (18). Ngoài ra những nhà khá giả còn phải chiêu đãi, phục vụ mấy ông tai mắt vai vế trong làng những món đặc biệt như thuốc phiện, bài bạc (tổ tôm, xóc đĩa…) hoặc hát cô đầu thâu đêm tới sáng. Trong các bàn cỗ dù ở đình làng hay ở tư gia, tệ nạn “rượu vào lời ra” thường xẩy ra, có khi chỉ vì một lời khích bác là đĩa chén bát, có khi cả mâm cỗ bay vào những bộ mặt đỏ gay, nống nặc hơi men. Thế rồi một bọn người vỡ đầu sứt tai đem nhau lên quan đi kiện.

            Đến đây lại phơi bày thêm một khía cạnh nữa là nạn bè phái tranh chấp nhau từ ngôi tiên chỉ, chức lí trưởng giữa họ Lê với họ Nguyễn chẳng hạn, đến thửa ruộng công tốt xấu giữa ông chánh hội X. với ông lí cựu Y. cũng dễ đưa tới những vụ chạm trán nơi cỗ bàn, mượn rượu trước còn nói bóng nói gió, sau chửi thẳng vào mặt nhau, cuối cùng là choảng nhau bể mày bể mặt để rồi có thể táng gia bại sản vì kiện cáo. Dù biết rằng “vô phúc đáo tụng đình”, họ vẫn lôi nhau đến trước mấy ông quan tham nhũng với sự trợ giúp của các tay thầy giùi “đòn càn hai mũi, đòn xóc hai đầu” sẵn sàng “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xui nguyên giục bị để lợi dụng cảnh “trai cò mổ nhau, ở giữa ngư ông thủ lợi”.

            Tục ăn uống ở thôn quê đã trở thành tai hoạ “trả nợ miệng” nẩy sinh từ nghi lễ rườm rà trong việc ma chay giỗ chạp… Nhà này có việc bày cỗ mời, đến lượt nhà kia có việc nếu không bày cỗ mời lại, ắt sẽ bị chê bai dè bỉu, nên bắt buộc phải giở ra cỗ bàn, cứ thế mà phí phạm thì giờ, tiền bạc vào việc ăn uống. Việc vui mừng như thi đỗ, thăng chức, mừng thọ, cưới gả, tân gia v.v… thì bày ra ăn uống đã đành; đến như người chết còn nằm đó chưa chôn, tang gia dở khóc dở mếu, đã phải lo cỗ bàn đãi người đến phúng điếu thì thật là “hoạ vô đơn chí”! Nhiều nhà ─ nhất là nhà trưởng ─ quanh năm đủ đời chỉ lo trả nợ miệng mà kiệt quệ, đến lúc không còn hơi sức trả nợ nữa, có người phải cuốn gói bỏ làng mà đi để trốn tránh dư luận làng xóm lúc nào cũng sẵn sàng “ma chê cưới trách”.

3. Nạn hào mục, chức dịch tham ô

            Cũng do tinh thần quá trọng ngôi thứ, chức tước, địa vị, nhiều người đã phải bỏ bao công phu chạy chọt, lo lót, bỏ ra bao nhiêu tiền bạc mới mua được, cộng thêm với bao phí tổn khao vọng, nên khi có chức có quyền trong tay rồi, họ phải lo lấy lại vốn, còn kiếm lời thêm nữa. Mà lấy ở đâu, kiếm chác ở đâu, nếu không phải là hà lạm của công, nhũng nhiễu bóc lột dân đen? Ngoài tệ nạn ăn uống, bất cứ thứ chi tiêu nào vào việc công cũng là dịp cho họ xà xẻo công quĩ, chia nhau bỏ túi riêng như câu ca dao:

Trống chùa ai đánh thì thùng,
Của công ai khéo vẫy vùng thành riêng!

Thêm vào đó là nạn lạm thu, từ sưu thuế đến các loại đóng góp khác đều có thể bị các ông chức dịch lạm thu làm tăng gánh nặng công sưu công dịch lên vai lên cổ đám lê dân. Tình trạng thối nát ở lớp người có trách nhiệm quản trị các đơn vị hành chánh mà cơ sở là làng xã sát với dân nhất, khiến người dân chán ngán mỉa mai mấy ông đàn anh là bọn “kì mục kì nát” và họ sẵn sàng quay đít vào mặt các ông khi có cơ hội để rồi các ông phải than “bạc như dân, bất nhân như lính”.

4. Nạn cho vay nặng lãi

            Tầng lớp hào mục lí dịch ở làng xã do nắm quyền hành trực tiếp điều khiển dân, có nhiều mối lợi, cũng trở nên giàu, có nhiều ruộng đất là nguồn của cải chính ở nông thôn. Họ có thể vừa là cường hào vừa là điền chủ cho tầng lớp bần nông làm tá điền cấy rẽ ruộng để ngồi mát ăn bát vàng. Người giàu cứ giàu thêm lên, người nghèo cứ nghèo đi mãi vì nạn đóng góp kể trên, vì bị bóc lột bằng nhiều hình thức: ruộng cấy rẽ chia đôi hoa lợi, tá điền quanh năm đầu tắt mặt tối, dầu dãi nắng mưa mà chỉ được hưởng một nửa số hoa lợi thu hoạch được, lại còn phải biếu xén chủ ruộng những dịp tết nhất và nhiều dịp khác trong năm. Lúc bình thường cũng đã thiếu hụt, khi gặp thiên tai mất mùa, hoặc lúc ốm đau hoạn nạn, họ chỉ còn nước đi vay; và đây lại là dịp cho nhà giàu bóc lột tàn nhẫn kẻ nghèo bằng cách cho vay nặng lãi. Lâu dần vốn đã không trả được, lãi mẹ đẻ lãi con, thế là còn chút ruộng vườn, nhà cửa, đồ đạc nào đem cầm cố hoặc bán cho chủ nợ với giá rẻ mạt vì bị thúc ép cả hai mặt: nhu cầu của mình và quyền thế của chủ nợ. Đây là hình thức sang đoạt của cải hợp pháp làm số người bần cùng kiệt quệ ngày càng tăng.

            Sở dĩ những tệ đoan ở nông thôn lộng hành như vậy là do các cấp chính quyền bên trên dung dưỡng. Để có thể chèn ép bóc lột dân đen bên dưới một cách êm xuôi, lớp hào mục chức dịch ở làng xã lại luồn lọt đút lót quan trên, thế là trên dưới thông đồng dột từ nóc dột xuống, người dân đen chịu cảnh bất công, oan ức mà chẳng biết kêu vào đâu.

            Hậu quả của tình trạng chính quyền thối nát từ trên xuống dưới là những bất công xã hội ngày càng tăng và mâu thuẫn giữa các tầng lớp dân chúng ngày càng sâu sắc gay gắt. Cuối cùng là bạo loạn bùng nổ đưa chế độ đến sụp đổ, hoặc do nội chiến, hoặc do ngoại xâm. Trường hợp sau này đưa đất nước vào cảnh vong nô, nhân dân điêu linh đồ thán mất một thời gian dài ngắn nào đó, tuỳ theo lòng dân vận nước.

            Cho nên trong thời đại quân chủ, một triều đại nào mới lên, một vị minh quân nào trị vì, cũng phải chấn chỉnh phong tục làng xã cho thuần hậu. Chính ở cái đơn vị quần cư nền tảng này của xã hội nông nghiệp, con người phải cư xử với nhau thân ái nhất, giàu tinh thần đoàn kết tương trợ nhất, bởi lẽ họ biết nhau từ thuở chào đời và sống với nhau cho đến khi xuôi tay nhắm mắt.

            Để kết thúc chương nói về làng xóm Việt Nam, chúng tôi thấy không thể không nói đến ngôi đình làng.

            Ở trên chúng tôi có nhắc đến nhiều tệ đoan nơi làng xã, nhưng đó là vào thời kì xã hội suy đồi. Dù sao thì mục đích thành lập và lí do tồn tại của làng cũng là tốt đẹp: nó đáp ứng nhu cầu quần cư để tương trợ và tự vệ của một tập thể vừa phải (không đông quá cũng không ít quá) khi con người chuyển từ đời sống du mục sang đời sống nông nghiệp định cư. Và nơi biểu hiện đầy đủ cái ý nghĩa sâu sắc của đời sống tập thể của người dân trong một làng Việt Nam là ngôi đình làng.

            Ta thử tưởng tượng một nhóm người tứ chiếng họp nhau lại để khai khẩn một vùng đất hoang. Họ chặt cây phát cỏ làm thành ruộng để canh tác. Trong những ngày đầu tiên, họ dựng những căn lều thô sơ trên một vùng đất tương đối cao và dựng một hàng rào cây bảo vệ để ngăn thú dữ. Sau độ ba bốn năm, nhờ cần cù lao động, nhờ mưa thuận gió hoà, con người được yên ổn và đủ sống với số hoa lợi đầu tiên thu hoạch được, thì nhu cầu của đời sống tâm linh xuất hiện. Họ chung sức dựng một ngôi nhà gỗ trên khoảng đất trung tâm đẹp nhất làng, nhà lớn hơn tất cả các nhà riêng của mỗi gia đình, để thờ một vị thần nào đó mà họ tin là đã và đang che chở, giáng phúc cứu nạn cho họ; nhà đó cũng được dùng làm nơi hội họp.

            Bảy, tám, chín, mười năm sau, tuỳ theo tốc độ đi lên của công việc làm ăn dẫn tới tình trạng dân chúng đông đúc lên: đất lành chim đậu, nơi dễ làm ăn sinh sống kéo thêm dân ở các nơi khác đến, nhóm dân đến đầu tiên cũng sinh sôi nẩy nở ra; nhà cửa cũng to đẹp dần lên. Ngay từ đầu đã có một số đàn anh (có thể là gia trưởng, tộc trưởng) dẫn dắt các nhóm. Rồi các bậc đàn anh ấy họp nhau lại suy cử một vị lãnh đạo làng có thể là người đầu tiên có sáng kiến tập hợp dân đến đây để khai khẩn đất, hoặc là một vị bô lão giàu kinh nghiệm, có tư cách đạo đức, được dân làng kính trọng nghe theo; người ta cũng cử ra một số trai tráng nhanh nhẹn, tháo vát, hoạt bát. Họ góp sức lo liệu công việc chung như đắp đường, đào giếng, dựng chợ, giúp đỡ người già yếu, bệnh tật, hoạn nạn v.v…

            Nhu cầu về công việc chung càng ngày càng nhiều theo với mức độ phát triển kinh tế; không phải chỉ lo ăn, mặc, ở, chữa bệnh, mà còn phải lo việc dạy dỗ trẻ con, việc lễ bái, hội hè, vui chơi giải trí nữa. Mọi người nghĩ đến việc phải xây dựng một ngôi đình làng cho khang trang. Dưới mắt người dân quê thời xưa thì ngôi đình là cái gì to tát lắm, dĩ nhiên đó là ngôi nhà lớn nhất làng rồi! Quả thế, cái gì to ghê gớm lắm là “bằng cái đình ấy!” như đối với trẻ con, chúng ước có cái bánh chưng to bằng cái đình vào dịp tết, làm được cái diều to bằng cái sân đình để thả chơi; đối với đôi trai gái mới yêu nhau thì cái đình phải to, lợp tốn nhiều ngói lắm, cho nên:

Qua đình ghé nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu!

            Tóm lại, ngôi đình làng có những công dụng và biểu hiện những ý nghĩa sau đây:

  • Đình là nơi thờ phụng, tế lễ thần thánh để cầu an cầu phúc, tức là để thoả mãn nhu cầu thông đồng cảm ứng giữa con người với thế giới siêu nhiên, tìm chỗ dựa cho tâm linh, lấy đó làm niềm tin hướng dẫn con người trong đời sống thực tại. Như thế đình là chốn thiêng liêng thông tam tài, là nơi đặt cái gạch nối giữa Trời (mà Thần Thánh là đại diện, vì trực tiếp tế Trời thì đã có vua, cũng như trong đời sống thực tại thì các quan thay mặt vua lo cho dân được an cư lạc nghiệp) với Người Đất: người dâng xôi thịt trầu rượu là sản phẩm của đất trong đó có công lao của người làm lễ vật tế lễ thần thánh xong, các ngài ban phúc lộc vào đó rồi con người đem xuống chia nhau thụ hưởng.
  • Đình là nơi dân làng hội họp để bàn công việc chung, có thể có tranh luận và đúng ra ý kiến nào được đa số đồng tình chấp thuận mới được thi hành; như vậy đình là nơi thể hiện tinh thần dân chủ vốn có của xã hội Việt Nam.
  • Công việc bàn trong buổi họp có thể là việc lo buồn phải đối phó như thiên tai, dịch bệnh, kẻ thù; hoặc việc vui như mở hội vào đám để cùng nhau ăn uống vui chơi. Vậy đình là địa điểm quần tụ biểu hiện tinh thần đồng cam cộng khổ.
  • Khi hội họp ở đình thì có ngôi thứ, phân định chỗ ngồi trên dưới rõ ràng; cũng ở đình các bậc đàn anh phân xử hoà giải những vụ tranh chấp giữa dân làng với nhau (như toà án hoà giải), bắt khoán bắt vạ những người phạm những tội lỗi nhẹ để cảnh cáo, cải tạo. Vậy đình là nơi biểu hiện tinh thần lễ nhượng, tôn trọng tôn ti trật tự, trên kính dưới nhường, là nơi thi hành tập tục luật lệ, đúng ra phải là những thuần phong mĩ tục và có tính cách công bằng, tôn trọng công ích. Tóm lại, đình là biểu tượng của một xã hội có tổ chức, có kỉ cương; biểu tượng của một xã hội có văn hoá.
  • Đình là nhà tiếp khách của làng, chẳng hạn tiếp đãi quan viên các làng kế cận đến chung vui dự hội. Đình cũng có thể là nơi vua ngự du ghé vào nghỉ ngơi (trường hợp này ít xẩy ra, hoặc nếu có thì cũng phải là ngôi làng lớn và nổi tiếng về phương diện nào đó), là nơi quan trên đi kinh lí ghé qua, hoặc về điều tra những vụ án, phân xử những vụ kiện tụng tranh chấp phức tạp cần có mặt tại chỗ. Đình như vậy là hành cung, toà án, công đường, tóm lại là trụ sở công quyền, đồng thời cũng là cánh cửa mở để dân làng nhìn ra chân trời rộng rãi bên ngoài luỹ tre xanh.
  • Vào thời gian rảnh rỗi (không phải ngày mùa, ngày hội), nếu làng chăm lo việc dạy dỗ trẻ con thì trích hoa lợi công điền ra để cấp dưỡng cho một vị hương sư dạy trẻ; đình cũng lại là ngôi trường học, ương mầm tương lai.
  • Nhiều làng sân đình còn được dùng làm nơi họp chợ (gọi là chợ đình), mỗi tháng năm, bảy phiên. Đó là địa điểm thương mại dưới hình thức thô sơ trong đó dân làng trao đổi, mua bán những sản vật làm ra kiếm được bằng sức lao động của chính mình như mớ rau quả, mẻ tôm tép, giỏ cua cá, cái rổ, cái rá, cái chổi v.v… để đáp ứng nhưng nhu cầu đích thực của nhau mà không có lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, chợ đen chợ đỏ, hàng giả hàng thật…

            Nhìn bao quát, ngôi đình có nhiều công dụng, đáp ứng nhiều loại nhu cầu của dân làng, từ cao xuống thấp, cả tinh thần lẫn vật chất như tín ngưỡng, giáo dục, văn nghệ, hành chánh, tư pháp, ngoại giao, thương mại. Ngôi đình làng là điểm kết hợp hài hoà giữa cái cao siêu với cái thực tế, là con đường thông tam tài, là gạch nối quá khứ với hiện tại và tương lai, là nơi quần tụ cố kết bên trong, là điểm thông giao với bên ngoài, là đầu não, là “thủ phủ của tiều bang làng”.

            Và thâu tóm những biểu hiện ý nghĩa nhiều mặt của ngôi đình làng, ta có thể thấy nó mang ý nghĩa cộng thông và xứng đáng là biểu tượng cho đời sống nông thôn Việt Nam vào thời đại kinh tế nông nghiệp dưới chính thể quân chủ chuyên chế.

Chú thích cuối chương thứ nhì

(1) Khô đầu khô sọ: chỉ tình trạng của đứa trẻ đã qua thời kì quặt quẹo nguy hiểm của đứa hài nhi.

(2) Giáp: tương đương với thôn xóm, đơn vị nhỏ hơn làng, có ý nghĩa rõ ràng về tục lệ, thí dụ giáp nhất, giáp nhì, việc hàng giáp; còn thôn xóm có ý nghĩa rõ hơn để chỉ nơi chốn như thôn đông, thôn đoài, xóm trên, xóm dưới, xóm trong, xóm ngoài.

(3) Theo Nhất Thanh trong “Đất Lề Quê Thói” (Phong Tục Việt Nam), Đường Sáng xb., Sài Gòn, 1970. Sau khi dẫn “Lĩnh Nam Chích Quái”, tác giả viết thêm về nguồn gốc làng xã Việt Nam như sau:

                Khúc Hạo làm Tiết độ sứ (907-917), Giao Châu chia đất lập ra lộ, phủ, châu, xã (tác giả dựa theo “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”). Triều Lí và triều Trần, đơn vị khởi điểm của tổ chức hành chánh vẫn được mệnh danh là xã. (tác giả dựa theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim).

                Triều Lê trong các sổ sách công văn, làng được phân biệt gọi là xã, thôn, trang, động, sách, trại, sớ, phường và vạn. Trang, động, sách trại là những xóm làng ở tiếp giáp rừng núi hoặc ở sâu thẳm trong rừng núi. Vạn là những xóm làng ở ven sông, biển, chuyên nghề chài lưới. Phường là khu các nhà cùng làm một nghề ở qui tụ với nhau.

                Triều Nguyễn từ đời Minh mệnh về sau, trong sổ sách và công văn, tất cả đều gọi là xã; mộc triện, đồng triện của lí trường đều khắc chữ . (tr. 465-466).

(4) Có làng lập khoán ước chép thành văn bản, mỗi khi có việc gì cần xử trí thì cứ chiếu theo khoán ước ấy mà thi hành.

(5) Đối với những trọng tội hình sự như cướp của giết người chẳng hạn thì làng xã phải bắt và giải can phạm lên cấp chính quyền cao hơn như huyện, phủ để xét xử.

(6) Nguyễn Công Trứ (1778-1858) sung chức Doanh Điền Sứ mộ dân khai khẩn đất hoang lập ra hai huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình) và Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình) được nhiều làng ở đó tôn làm phúc thần và rước về tế lễ ngay khi ông còn sống.

(7) Cảnh là cổ loài chim, nọng là khoanh thịt cổ con lợn. Ông tiên chỉ đứng đầu làng nên ăn phần thủ, còn ông thứ chỉ đứng thứ nhì nên ăn phần cổ.

(8) Người đỗ cử nhân trong kì thi hương được viết tên trên bảng vẽ hổ, người đỗ tiến sĩ trở lên trong kì thi đình được ghi tên trên bảng vẽ rồng và thếp vàng (thực tế là sơn vàng) nên còn gọi là long bảng hay kim bảng.

(9) Thí dụ ông quan ra vế đối “Miệng kẻ sang có gang có thép”, anh học trò đối lại “Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm”. Ông quan tức lắm vì biết anh học trò xỏ mình bằng cách đối bất xứng “miệng quan” với “đồ dân”, nhưng ông không làm sao được vì vế đối chỉnh, hay. Ông bèn phạt cái tội xấc xược của anh học trò bằng mấy roi tượng trưng, nhưng lại phải thưởng tiền cho vế đối hay và tài ứng đối mau lẹ của anh.

(10) Tương truyền bài thơ này do Nguyễn Công Trứ làm khi còn là hàn sĩ, đi đường gặp đoàn xe ngựa của Lê Văn Duyệt (chắc một ông quan lớn nào khác vì khi Nguyễn Công Trứ còn là một anh hàn sĩ xứ Nghệ thì ông Duyệt làm Tổng trấn Gia Định thành). Cũng lại phạt roi thưởng tiền như thường lệ.

(11) Mọi ngành nghề đều ở dưới, duy có kẻ đọc sách (nho sĩ) là ở trên cao (“Trạng Nguyên Thi”).

(12) Trong sách có vàng ngọc – Trong sách có người đẹp – Để cho con một rương vàng, sao bằng dạy cho con một quyển kinh (sách của thánh hiền) (“Trạng Nguyên Thi”).

(13) Muốn tổ chức các kì thi, phải có một giai đoạn ổn định đủ để mở trường học, cất nhắc người có tài có học lên để họ có đủ uy tín sung vào hội đồng giám khảo. Còn buổi đầu mới mẻ, cá mè một lứa, vàng thau lẫn lộn thì ai là người đủ tư cách chấm thi để cho người này đậu kẻ kia rớt đây? Buổi giao thời cần người thì như trường hợp Nguyễn Du chỉ đỗ tam trường đời Hậu Lê – tức chưa đủ điều kiện xuất chính – vẫn được vua Gia Long nhà Nguyễn triệu ra làm quan.

(14) Không kể những giai đoạn xã hội suy đồi từ trên xuống dưới như cuối thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Nho học suy tàn (đầu thời Pháp thuộc), người ta làm loạn trường thi bằng cách thuê người làm bài thi hộ. Còn nói chung các kì thi thời xưa được triều đình và chính quyền địa phương (cấp tỉnh) tổ chức rất nghiêm ngặt, thể lệ trường thi (trường qui) nhiều khi quá khắt khe nữa.

(15) Đây là các ngôi thứ làng có thể bán được. Người mua chỉ có danh mà thôi. Thí dụ trong làng chỉ có một ông lí “đương” (đương tại chức) giữ con dấu, làm việc và có trách nhiệm thực sự, còn có thể có một vài ông lí “cựu” (đã thôi việc) và nhiều ông lí mua.

(16) Vào các thập niên 1950, 1960, 1970, từ “chính khách xôi thịt” khá phổ biến được dùng để chỉ người ra làm chính trị để mưu cầu lợi lộc thấp hèn.

(17) Người đến phiên ứng biện lễ vật cho kì cúng tế hàng năm, hoặc chỉ lo phần dịch vụ (thổi xôi, giết lợn), còn vật liệu để làm lễ vật (gạo nếp, lợn, rượu) thì trích công quĩ làng ra đưa cho đương sự mua sắm.

(18) Không khao (đãi cỗ), vọng (nộp tiền) thì không được làng công nhận ngôi thứ, chức tước, phẩm hàm mới có được.