Hè năm 1953, vừa đúng 12 tuổi, và sau khi thi đậu Bằng Tiểu Học, khóa thi ngày 22-6-1953, tôi dự kỳ thi tuyển vào lớp đệ thất của Trường Petrus Ký, và, rất may mắn, tôi đã đậu, khởi đầu cho cuộc hành trình 7 năm học tập trong suốt bậc Trung Học tại ngôi trường lớn nhứt và danh tiếng nhứt của Miền Nam.  Bài viết này cố gắng ghi lại những gì mà bây giờ, sau 71 năm và ở tuổi 83 này, tôi còn nhớ được về chuyện kỷ luật và thành tích học tập tại ngôi trường thân yêu này.

Những Hình Thức Kỷ Luật

Ngay từ khi thành lập vào đầu niên khóa 1928-1929, Trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký (thường được gọi tắt là Lycée Petrus Ký với tên gọi viết tắt là LPK) đã nổi tiếng là một ngôi trường áp dụng một kỷ luật rất chặt chẽ và nghiêm minh.

Kỷ luật này được thể hiện và áp dụng như thế nào?  Tôi xin kể ra sau đây một số nét về cách thức thể hiện và áp dụng kỷ luật của Trường mà tôi vẫn còn nhớ được để trả lời câu hỏi này.

Đồng Phục

Trường Petrus Ký có quy định rất rõ ràng về đồng phục như sau:

Ngày thường trong tuần: quần dài hay quần ngắn màu xanh dương đậm, áo sơ mi tay ngắn màu trắng, đi giày gì cũng được nhưng không được mang guốc.

Ngày lễ hay phải đi ra ngoài thì áo sơ mi trắng, quần dài trắng, và giày Bata trắng, trong các dịp như:

  • Đi diễn hành trong Lễ Quốc Khánh
  • Đưa / Rước Tổng Thống Ngô Đình Diệm đi công du hay đi công du trở về
  • Đưa / Rước các vị Quốc Khách

Áo sơ mi luôn luôn phải bỏ trong quần, quần phải có giây nịch đàng hoàng.  Áo bốn túi bỏ ra ngoài quần bị cấm tuyệt đối.  Tất cả những vi phạm về đồng phục đều sẽ bị phạt “cấm túc” (hình phạt “cấm túc” này sẽ được đề cập đến trong phần sau).

Xếp Hàng

Chuyện xếp hàng của học sinh LPK diễn ra rất nhiều lần trong suốt một ngày học tại Trường.  Ngay sau khi đã vào bên trong cổng trường, tất cả học sinh đều xếp hàng theo lớp, dọc theo con đường trải đá ong để chờ Thầy Giám Thị (surveillant) phụ trách lớp dẫn vào bên trong Trường.  Các học sinh đi xe đạp thì phải đem xe của mình vào để đúng trong cái nhà để xe dành cho lớp mình rồi mới ra xếp hàng với các bạn cùng lớp.  Vào bên trong rồi thì bắt đầu đi hàng đôi lên hành lang cho đến trước lớp thì dừng lại, giữ hàng, dưới sự trông nom của các Thầy Giám Thị lớp và chờ Giáo sư đến.

Giờ ra chơi, vào học và giờ tan trường đều được thông báo bằng tiếng trống; cái trống này rất lớn và treo tại khu vực văn phòng Trường và do một bác lao công đánh đúng theo giờ giấc đã định sẵn.

Hết giờ ra chơi thì cũng lại bắt đầu xếp hàng đôi trước lớp và chờ Giáo Sư đến.  Đến giờ tan học thì cũng như vậy, ra khỏi lớp, đứng xếp hàng đôi trước lớp để chờ Thầy Giám Thị lớp dẫn trở ra con đường trải đá ong để ra khỏi trường.  Khi bắt đầu vào con đường trải đá ong thì các học sinh đi xe đạp được phép tách ra khỏi hàng để đi lấy xe đạp của mình.

Đi Học Trễ hay Vắng Mặt

Khi đến Trường trễ giờ, học sinh phải vào khu vực văn phòng, trình diện Thầy Giám Thị của lớp mình, trình bày lý do, để được cấp giấy phép vào lớp; người học sinh sau đó sẽ cầm tờ giấy phép này đến lớp, vào trình cho Giáo sư của giờ học đó để được Giáo sư cho phép vào bàn học.

Khi vắng mặt cả ngày hay nhiều ngày, thì vào ngày trở lại Trường cũng phải làm thủ tục tương tự với văn phòng, nhưng khác với việc đi học trễ, trong việc này phải có giấy viết ghi rõ lý do vắng mặt có chữ ký của cha me, phụ huynh hay người bảo hộ thì mới được cấp giấy phép vào lớp để trình cho Giáo Sư dạy ngày hôm đó. 

Những Khu Vực Cấm

Hành lang lót gạch bông láng bóng nối liền Phòng Họp Giáo Sư với khu văn phòng được gọi là Hành Lang Danh Dự (Passage d’Honneur), học sinh tuyệt đối không được đi vào đó, ngoại trừ trường hợp bị kêu lên trình diện văn phòng Trường trong giờ học vì một lý do nào đó.

Hành Lang Danh Dự của Trường Petrus Ký

Sân vuông vức, nằm ngay giữa Trường, với tượng đồng bán thân của Nhà Bác Học Petrus Trương Vĩnh Ký đặt trên tượng đài ở ngay trung tâm, cũng được gọi là Sân Danh Dự (Cour d’Honneur), học sinh chỉ được phép xuống đó chụp hình kỷ niệm tại khu vực tượng đài trong 2 dịp: bãi trường Tết và bãi trường cuối năm học.

Hình Lớp Đệ Nhị A (niên khóa 1958-1959) với các Thầy: Nguyễn Văn Phới (Lý Hóa), Phạm Văn Thuật (Anh Văn), và Nguyễn Gia Tường (Vạn Vật) – Tượng đài Petrus Ký, Bãi trường 1959

Cấm Túc (Consigne)

Khi phạm kỷ luật về hạnh kiểm hay học tập, học sinh phải chịu một hình thức kỷ luật gọi là Cấm Túc.  Trong sổ điểm khi bị các Thầy Cô cho điểm 00 có đóng khung (Zéros encadrés), vì không thuộc bài hay không làm bài, thì học sinh đó sẽ bị Cấm Túc.  Các Thầy Giám Thị coi lớp cũng có thể phạt Cấm Túc các học sinh phạm kỷ luật nặng như quậy phá quá lố, hay đánh lộn, hay làm hư hại tài sản của Trường, vv. 

Diễn trình thi hành Cấm Túc là như sau: ngày Thứ Sáu trong tuần, học sinh sẽ được Giám Thị coi lớp trao cho giấy báo cấm túc để mang về cho phụ huynh ký tên; sáng Thứ Bảy đem vào Trường nộp lại cho Giám Thị coi lớp; 8 giờ sáng Chúa Nhựt vào Trường trình diện tại phòng cấm túc, thường là một trong các đại giảng đường (Amphithéâtre) trong khu vực các phòng thí nghiệm, Giám Thị trông coi sẽ cho biết phải làm gì trong 2 giờ hoặc 4 giờ (nếu là trọn một cấm túc), thường là làm các bài tập do Thầy Cô dạy lớp ghi ra.

Tôi xin kể cho các bạn đọc cho vui cái lần duy nhứt, trong suốt thời gian 7 năm học tại Trường, mà tôi đã bị Cấm Túc.  Tôi vốn không phải là một học sinh thuộc loại học hành quá tệ đến nổi bị Thầy Cô cho điểm không (00) đóng khung (tức là học tập OK), lại hiền lành nhút nhát, không bao giờ quậy phá (tức là hạnh kiểm cũng OK luôn) nên không thể có khả năng bị lãnh Cấm Túc.  Vậy mà cũng bị đó các bạn.  Không có phải bị oan ức tội nghiệp gì hết trơn, mà thật là đáng đời lắm.  Chuyện là như vầy: Hôm đó là một ngày trong niên khóa 1956-1957, tôi đang học Lớp Đệ Tứ F, bọn tôi có giờ Âm Nhạc với Thầy Marcel, là một người lai Pháp, có tật ở chân, với một cặp mắt “có thần,” và tương đối cũng không phải hiền lành gì lắm, nói chung là tụi tôi không thích học cái giờ Âm Nhạc này cho lắm; môn Âm Nhạc lại không phải là một môn học có ghi điểm trong Thông Tín Bạ của Trường.  Hôm đó có một trận bóng tròn giữa đội bóng của Trường nhà với đội bóng của Trường Chu Văn An.  Một số khá đông học sinh (trong đó có cả tôi) của lớp Đệ Tứ F hè nhau trốn giờ Âm Nhạc của Thầy Marcel để ra sân ủng hộ đội bóng nhà (trận đó đội Petrus Ký thắng với tỷ số 2-1, nhờ đá tại sân nhà, và, nhứt là được sự cổ vũ rất nhiệt tình của học sinh Petrus Ký, và, dĩ nhiên là trong đó có cả Lớp Đệ Tứ F của bọn tôi).  Dĩ nhiên là Thầy Marcel đã báo cáo cái chuyện tày trời này lên văn phòng Trường.  Ngày hôm sau, cả đám bọn tôi được gọi lên Văn phòng của Thầy Tổng Giám Thị (lúc đó là Thầy Lê Ngọc Toản, về sau có thời gian làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho) vì đây là chuyện lớn mà, Thầy Giám Thị lớp (lúc đó là Thầy Tăng Văn Chương, về sau lên làm Tổng Giám Thị) gánh sao nổi.   Tụi tôi đứa nào cũng “hát bài con cá,” đứa thì bị chó cắn phải đi Viện Pasteur chích thuốc, đứa thì Mẹ bệnh phải đi hốt thuốc cho Mẹ, vv và vv.  Tất cả đều bị Thầy Toản “pha” hết với cùng một câu nói rất nhẹ nhàng, làm tụi tôi nghe cảm động muốn khóc luôn: “Tội nghiệp quá, vậy hả con?”  nhưng mà bản án Thầy tuyên ra thì đều là trọn một cấm túc bốn giờ luôn.  Ngày Chúa Nhựt cuối tuần đó cả bọn tụi tôi gặp lại nhau hết tại phòng cấm túc thật là vui quá chừng.    

 Xin gởi kèm đây hai tấm ảnh chụp từ cái Thông Tín Bạ của Lớp Đệ Tứ F, niên khóa 1956-1957 của Trường Petrus Ký mà tôi vẫn còn giữ được sau gần 70 năm, từ Việt Nam lưu lạc qua tới Canada. Nhìn kỹ các bạn sẽ thấy rõ Giáo Sư dạy môn Nhạc là Thầy Marcel (ảnh thứ nhứt), và trong bảng điểm thi của Đệ Nhứt Bán Niên thì KHÔNG có điểm ghi cho môn Nhạc (ảnh thứ nhì):

 Danh Sách các Thầy Cô

Điểm thi tất cả các môn của Đệ Nhứt Bán Niên

Thành Tích Học Tập của Học Sinh Petrus Ký

Trường Petrus Ký hội đủ các yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm cho sự thành công trong học tập của học sinh:

  • Học sinh phần lớn ngay từ đầu phải thuộc loại từ KHÁ tới GIỎI vì đã vượt qua được một kỳ thi tuyển rất khó, với tỷ lệ trúng tuyển vào khoảng 5-10%  
  • Ban Giảng Huấn gồm các Giáo Sư được chọn lọc rất kỹ, tốt nghiệp từ các trường Cao Đẳng Sư Phạm (lúc đầu) hay Đại Học Sư Phạm (về sau), với chuyên môn nghiệp vụ và học vị thích hợp
  • Kỷ luật chặt chẽ và nghiêm minh của Trường cũng là một yếu tố rất quan trọng, giúp cho học sinh LPK phải luôn luôn đi học đều đặn, không bỏ học, trốn học, và chuyên tâm học tập, học bài, làm bài đầy đủ.  

“Quyển Kỷ Yếu của Trường Petrus Ký niên khóa 72-73 ghi thành tích học tập của niên khóa trước [tức là niên khóa 1971-1972] như sau:

TÚ TÀI II:

Ban A: Dự thi 101, trúng tuyển 101 với 2 Ưu, 10 Bình, 25 Bình Thứ, tỷ lệ 100%

Ban B: Dự thi 419, trúng tuyển 419, 11 Ưu, 53 Bình, 114 Bình Thứ, tỷ lệ 100%

Ban C: Dự thi 52, trúng tuyển 52, với 7 Bình Thứ, tỷ lệ 100%” [1]

Thành tích học tập này, theo tôi nghĩ và tin, chưa có một trường trung học công lập hay tư thục nào khác trên toàn quốc thực hiện được trong suốt 20 năm của nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa.  

Thành Tích Của Lớp Đệ Nhị A Niên Khóa 1958-1959

 Bản thân tôi cũng đã từng là một chứng nhân sống của thành tích thi đậu Tú Tài 100% của học sinh Trường Petrus Ký như sau. 

Tựu trường niên khóa 1957-1958, sau khi đậu Bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp, khóa ngày 6-6-1957, tôi vào học Lớp Đệ Tam A:

Lớp Đệ Tam A, niên khóa 1957-1958, với Thầy Trần Huệ, Giáo Sư môn Vạn Vật

 Trong lớp Đệ Tam A với 60 học sinh này, có hai học sinh rất giỏi và quyết định nhảy lớp: đó là anh Trương Văn Đắt và anh Nguyễn Hoàng Sang:

Hè 1958, cả hai anh đều thi nhảy lớp, và đậu Bằng Tú Tài I, Anh Đắt Ban A, Anh Sang Ban B.  Qua năm sau, niên khóa 1958-1959, cả 2 anh lên học lớp đệ nhứt (lúc đó Trường Petrus Ký đã không còn cấm thi nhảy lớp nữa, nên hai anh vẫn được tiếp tục học tại Trường) và cuối năm đó cả hai anh đều đậu Bằng Tú Tài II và đều đậu với Hạng Bình Thứ hết:

Ảnh trích từ Kỷ Yếu Lễ Phát Thưởng của Trường Petrus Ký năm 1960

Anh Đắt sau đó theo học Đại Học Y Khoa Sài Gòn và tốt nghiệp Bác Sĩ vào năm 1966; sau năm 1975, Anh Đắt qua Mỹ, học và lấy bằng lại, và mở phòng mạch tại Nam California.  Anh Đắt đã mãn phần từ nhiều năm rồi.

Anh Sang sau đó được Học Bổng Colombo và đi du học tại Úc, University of Western Australia tại Thành Phố Perth.  Anh tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí (Mechanical Engineering) và về nước dạy học tại Trường Kỷ Sư Phú Thọ.  Hiện nay, Anh Sang sinh sống tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh.

Trở lại chuyện của Lớp Đệ Tam A.  Cuối năm học 1957-1958, tất cả học sinh đều thi cuối khóa có kết quả tốt và đều được lên lớp Đệ Nhị A. 

Dưới đây là danh sách toàn thể 73 học sinh (63 ở Phần 1 được đánh máy, và thêm 10 ở Phần 2 được viết tay) của Lớp Đệ Nhị A, niên khóa 1958-1959 với 9 học sinh bị gạch bỏ tên vì nhiều lý do khác nhau:

  • 3 học sinh thi nhảy lớp:

o Trương Văn Đắt lên Lớp Đệ Nhứt A1
o Nguyễn Hoàng Sang lên Lớp Đệ Nhứt B3
o Nguyễn Thanh Tòng lên Lớp Đệ Nhứt A1 (tôi hoàn toàn không nhớ gì hết về Anh Tòng này)

  • 2 học sinh thôi học:

o Khương Văn Khai thôi học ngày 14-11-1958
o Nguyễn Văn Tra thôi học ngày 19-11-1958

  • 2 học sinh đổi ban:

o Đặng Văn Phát đổi sang Lớp Đệ Nhị B2 ngày 4-12-1958
o Nguyễn Tấn Phước đổi sang Lớp Đệ Nhị B5 ngày 7-10-1958

  • 2 học sinh bị bôi tên từ ngày 18-10-1958 vì vắng mặt từ ngày tựu trường:

o Nguyễn Văn Kha
o Đoàn Văn Sang

Danh Sách Học Sinh Lớp Đệ Nhị A, Niên Khóa 1958-1959 – Phần 1, đánh máy

Danh Sách Học Sinh Lớp Đệ Nhị A, Niên Khóa 1958-1959 – Phần 2, viết tay

Như vậy Lớp Đệ Nhị A (niên khóa 1958-1959) khi đi thi Bằng Tú Tài I vào cuối năm học, Hè 1959, thật sự chỉ còn có 64 học sinh mà thôi, trong đó có 1 nữ sinh là chị Vương Thị Lành.  Và kết quả là tất cả 64 học sinh đều trúng tuyển, đạt được thành tích học tập là 100% như sau: 

                        Dự thi: 64

                        Trúng tuyển: 64

                                    Hạng Bình Thứ: 5

                                    Hạng Thứ:        59

                        Tỷ lệ: 100%

Danh sách đậu Tú Tài I Ban A năm 1959 – Trích từ Kỷ Yếu Lễ Phát Thưởng của Trường Petrus Ký năm 1960

Rất tiếc tôi không có được danh sách trúng tuyển Tú Tài II Ban A của niên khóa kế tiếp (1959-1960).  Rất mong đồng môn nào còn giữ được Kỷ Yếu Lễ Phát Thưởng của Trường năm 1961 xin bổ túc giùm.

Sau khi đậu xong bằng Tú Tài II, rời trường, theo học các trường đại học trong nước và ở ngoại quốc, các cựu học sinh Lớp Đệ Nhị A, niên khóa 1958-1959, đã có những đóng góp quan trọng cho đất nước ở các cương vị như sau [2]:

  • Anh Nguyễn Hoàng Sang: du học tại Úc, tốt nghiệp kỹ sư, về nước giảng dạy tại Trường Kỹ Sư Công Nghệ thuộc Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ.
  • Anh Huỳnh Hữu Hân: du học tại Tân Tây Lan, tốt nghiệp kỹ sư về thực phẩm, về nước phục vụ tại Bộ Kinh Tế, có thời gian là Chánh Văn Phòng Thứ Trưởng. 
  • Anh Ðào Hoàng Ðức: tốt nghiệp Bác sĩ Y Khoa năm 1967.
  • Anh Bùi Trường Lên: tốt nghiệp Bác sĩ Y Khoa năm 1967, phục vụ tại Bệnh Viện quận Thủ Ðức.
  • Anh Lâm Hoàng Sơn: gia nhập Không Quân, tốt nghiệp khóa huấn luyện phi công trực thăng tại Hoa Kỳ.
  • Anh Nguyễn Ngọc Ấnh: xuất thân là 1 Thiếu Sinh Quân, về sau là 1 sĩ quan bộ binh, chức vụ sau cùng là Ðại Tá Tỉnh Trưởng Bình Tuy.
  • Anh Ngô Quang Phong: tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Ðức, ra đơn vị, bị thương nặng và được giải ngũ; đã mất tại Sài Gòn khoảng năm 1990.
  • Anh Lâm Kỳ Hiệp: tốt nghiệp Bác sĩ Y Khoa năm 1967, sau năm 1975 hành nghề tại Nam California, Hoa Kỳ.
  • Anh Nguyễn Ðình Dũng: tốt nghiệp Dược sĩ.
  • Anh Bạch Công An: tốt nghiệp các khóa Ðốc Sự và Cao Học của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, phục vụ tại Bộ Xã Hội, chức vụ cuối cùng là Giám Ðốc Trường Công Tác Xã Hội.
  • Anh Ðỗ Quang Thọ: giảng dạy tại Ðại Học Khoa Học Sài Gòn; về sau định cư tại Pháp, và tiếp tục giảng dạy đại học tại Pháp.         
  • Anh Lê Ngọc Thanh Quang: giảng dạy tại Ðại Học Khoa Học Sài Gòn.
  • Anh Trương Văn Ðắt: tốt nghiệp Bác sĩ Y Khoa năm 1966, sau 1975 hành nghề tại Nam California, Hoa Kỳ; đã mãn phần từ nhiều năm rồi.
  • Anh Nguyễn Khắc Thuần: du học tại Úc, tốt nghiệp Kỹ sư, định cư tại Úc, đã mất cách đây gần 10 năm.
  • Lâm Vĩnh Thế: tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn, Ban Sử Ðịa năm 1963; đi du học 2 năm (1971-173) tại Mỹ, tốt nghiệp Cao Học Thư Viện Học (Master of Library Science, MLS), Ðại Học Syracuse, New York, năm 1973; sau khi về nước, được bầu làm Chủ Tịch Hội Thư Viện Việt Nam, Hội Viên Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, thành lập và làm GS Trưởng Ban của Ban Thư Viện Học đầu tiên của VNCH tại Ðại Học Vạn Hạnh (1974-1975); năm 1981 đi định cư tại Canada, làm việc tại các Thư Viện của các chính phủ liên bang và tỉnh bang của Canada (1982-1997); giảng dạy về Thư Viện Học tại 2 Đại Học Cộng Đồng của tỉnh bang Ontario: Algonquin College ở Ottawa (1982-1984) và Mohawk College ở Hamilton (1985-1995); từ tháng 9-1997 về làm việc tại Thư Viện của Đại Học Saskatchewan, lúc  đầu là Trưởng Ban Biên Mục (Head, Cataloguing Department, 1997-2000), sau đó thăng cấp làm Trưởng Khối Dịch Vụ Kỹ Thuật (Head, Technical Services Division, 2000-2003); về hưu từ tháng 7-2006 và được Đại Học Saskatchewan ban cho Danh hiệu Librarian Emeritus.
  • Anh Nguyễn Bình Tưởng: tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn, Ban Sử Ðịa năm 1964, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Công Lập Vĩnh Bình (Trà Vinh), và Giám Học Trường Trung Học Tổng Hợp Nguyễn An Ninh tại Sài Gòn; đã mất năm 2015 tại Toronto, Canada.
  • Anh Nguyễn Phụ Phụng: tốt nghiệp các khóa Ðốc Sự và Cao Học của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, phục vụ tại Giám Sát Viện.
  • Anh Phùng Vĩnh Tước: tốt nghiệp khóa Biên Tập Viên tại Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, có thời gian là Thiếu Tá Trưởng Chi Cảnh Sát Quận Thủ Ðức.
  • Anh Phan Thanh Xuân: tốt nghiệp khóa Ðốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, phục vụ với tư cách Phó Quận Trưởng tại một số tỉnh ở Miền Trung.
  • Anh Lê Hữu Chí: tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa năm 1967, Y sĩ Ðại Úy, Trưởng Ty Y Tế tỉnh Bình Long trong thời gian Trận An Lộc (hè 1972); sau trận An Lộc, thăng lên cấp Thiếu Tá, chức vụ sau cùng là Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Tây Ninh.
  • Anh Tô Ngọc Ấn: tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa năm 1967, phục vụ tại Bệnh Viện Dã Chiến số 3 tại Mỹ Tho; sau 1975, tiếp tục hành nghề y khoa và phục vụ cộng đồng người Việt tại San Jose, Bắc California; có thời gian là Phó Chủ Tịch Hội Ái Hữu Petrus Ký Bắc California.
  • Anh Ðào Tuấn Kiệt: tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa, gia nhập ngành Cảnh Sát Quốc Gia, thuộc ngạch Quận Trưởng (ngạch cao nhứt của CSQG), giảng dạy tại Học Viện CSQG ở Thủ Ðức.  
  • Anh Nguyễn Thanh Hải: gia nhập Không Quân VNCH, Khóa 62C, tốt nghiệp khóa huấn luyện phi công trực thăng tại Mỹ năm 1963; đã từng giữ các chức vụ như sau: Ðại Úy Phi Ðoàn Phó Phi Ðoàn Trực Thăng 217 tại Cần Thơ; Thiếu Tá Sĩ Quan Liên Lạc (hướng dẫn các sinh viên sĩ quan phi công VNCH đang học bay) tại tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ; và, sau cùng là Trung Tá, phụ trách về An Phi, Phòng Thanh Tra, Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhứt; đã mãn phần ngày 23-9-2023 tại Modesto, Bắc California, Hoa Kỳ. [3]
  • Anh Nguyễn Tôn Bá: tốt nghiệp Cử Nhân Khoa Học, giảng dạy tại Trường Trung Học Petrus Ký.
  • Anh Nguyễn Tấn Phước: tốt nghiệp Khóa Cao Ðẳng Viễn Thông, phục vụ tại Tổng Nha Bưu Ðiện.
  • Anh Võ Anh Tuấn: du học tại Canada, tốt nghiệp kỹ sư hóa học, trở về nước làm việc tại Bộ Kinh Tế, và chức vụ sau cùng là Tổng Cục Phó Tổng Cục Dầu Hỏa của VNCH. 

Tổng kết, Lớp Đệ Nhị A của Trường Petrus Ký, niên khóa 1958-1959, đã đạt được thành tích học tập thật tốt đẹp là trúng tuyển 100% trong kỳ thi Bằng Tú Tài I Hè 1959 và đã đóng góp cho đất nước một số đáng kể những nhân sự nắm giữ các chức vụ quan trọng như sau:   

  • Giáo sư đại học: 4 người là các anh Nguyễn Hoàng Sang, Ðỗ Quang Thọ, Lê Ngọc Thanh Quang, và Lâm Vĩnh Thế.
  • Giáo sư trung học: 2 người là các anh Nguyễn Bình Tưởng và Nguyễn Tôn Bá.
  • Chuyên viên cao cấp: 6 bác sĩ là các anh Ðào Hoàng Ðức, Bùi Trường Lên, Lâm Kỳ Hiệp, Trương Văn Ðắt, Lê Hữu Chí và Tô Ngọc Ấn, 1 dược sĩ là anh Nguyễn Ðình Dũng, và 1 chuyên viên về Viễn Thông là anh Nguyễn Tấn Phước.
  • Viên chức hành chánh cao cấp: 5 người là các anh Huỳnh Hữu Hân, Bạch Công An, Nguyễn Phụ Phụng, Phan Thanh Xuân, và Võ Anh Tuấn.
  • Sĩ quan trung cấp của Quân Lực VNCH: 2 người là Ðại Tá Lục Quân Nguyễn Ngọc Ánh và Trung Tá Không Quân Nguyễn Thanh Hải.
  • Sĩ quan cảnh sát cao cấp: 2 người là anh Phùng Vĩnh Tước (ngạch Biên Tập Viên) và anh Ðào Tuấn Kiệt (ngạch Quận Trưởng) 

THAY LỜI KẾT

Trong dân chúng Miền Nam, mọi người đều biết và đều có nghe đến danh tiếng của Trường Petrus Ký.  Phụ huynh học sinh ai cũng mong con em mình thi đậu và được vào học tại ngôi trường danh tiếng này để có tương lai tốt đẹp.  Trường Petrus Ký quả thật đã không phụ lòng tin của người dân.  Thành tích học tập của học sinh Trường Petrus Ký, phản ảnh qua các kỳ thi của bậc Trung Học, đã đúng như câu nói “Danh Bất Hư Truyền” về danh tiếng của Trường Lycée Petrus Ký.  Thành tích này đã đạt được là do sự kết hợp thật tốt đẹp của 3 yếu tố rất quan trọng: ngoài hai yếu tố “thầy giỏi” và “học trò giỏi,” còn phải kể đến yếu tố thứ ba là Kỷ Luật Chặt Chẽ và Nghiêm Minh của Trường Petrus Ký.

GHI CHÚ:

[1] Nguyễn Thanh Liêm, Ôn lại lịch sử trường Petrus Ký, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:  https://aihuubienhoa.com/a4125/on-lai-lich-su-truong-petrus-ky-nguyen-thanh-liem

[2] Lâm Vĩnh-Thế, Ðiểm Danh Lại Các Bạn Ðệ Nhị Cấp (từ 1957 đến 1960) Tại Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2021/10/iem-danh-lai-cac-ban-e-nhi-cap-tu-1957.html

[3] Lâm Vĩnh-Thế, Tình bạn giữa Hải và tôi, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://tuyen-tap-vinh-nhon-lam-vinh-the.blogspot.com/2023/10/tinh-ban-giua-hai-va-toi_81.html