Y Công Đại Úy
Tô Văn Cấp
(Trích: Huynh Đệ Chi Binh Thủy Quân Lục Chiến)
Một buổi sáng, khi bước vào văn phòng Trưởng Khối Thặng Số Thương Bệnh Binh ỡ bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, tôi thấy trên bàn làm việc của tôi có miếng carton cuộn thành hình ống tam giác, trên đó có ghi mấy chữ viết tay: “Y Công Đại Úy”.
Tôi mỉm cười, nghĩ chắc chú thặng số nào có tính khôi hài, thấy trên bàn làm việc của Bác Sĩ Thế, Bác Sĩ Tường có bảng đồng ghi tên “Y Sĩ Thiếu Tá”, “Y Sĩ Đại Úy” nên cũng tặng tôi cái bảng tên kèm theo nghiệp vụ “Y Công”, cái nghiệp vụ có dính dáng đến một tí ngành Y, cái ngành mà ai cũng nể vì.
Ở bệnh viện, người quan trọng nhất, được vị nể nhất, có quyền nhất là bác sĩ, rồi tới y tá, cuối cùng là y công. Bác sĩ, y tá giúp cho bệnh nhân hồi phục theo chuyên môn dày công học hành; còn y công là không cần học gì cả mà vẫn làm được tất cả mọi công việc mà bệnh nhân, nhà thương cần tới, không có y công thì bệnh viện sẽ gặp nhiều trở ngại. Y công đổ rác, quét nhà, lau toa-lét, cơm nước, v.v… Do đó y công cũng có thế lực ghê lắm.
Ngày xưa ở xóm Hòa Hưng, Chí Hoà của tôi có anh Thang làm y công ở Bệnh Viện Nhi Đồng Sàigòn, anh rất trọng ngành Y, anh cho hai sinh viên y khoa tạm trú “free” cho tới ngày thành bác sĩ, đó là: Nguyễn Tấn Tờn, Vương Gia N., cả xóm nể phục anh, nhưng điều quan trọng là anh tận tình giúp con nít hàng xóm nhập bệnh viện khi khẩn cấp, vì anh rất có “thế lực” đối với các nhân viên bệnh viện, từ anh gác cổng tới ông thầy thuốc.
Ai cũng biết cái khó khăn khi có con bị bệnh phải vào nhà thương Nhi Đồng, nhưng xóm tôi, nếu có cháu bé nào cần cấp cứu, nhập bệnh viện là anh Thang lo cho dễ dàng nên dân trong xóm gọi đùa anh là “Ông Bác Sĩ”, tức lớn hơn bác sĩ. Do vậy tôi rất vui khi được anh em tặng cho cái danh “y công”. Y công có nhân viên và “văn phòng” mới hách.
Gọi là “văn phòng” cho sang chứ nó chỉ chiếm một góc nhỏ trong nhà vòm bằng tôn nằm bên trái phía trong cổng bệnh viện, dùng làm nơi tạm trú cho toán canh gác an ninh. Vật dụng “văn phòng” thặng số gồm: 1 cái bàn và 3 cái ghế là hàng phế thải của Mỹ do Thượng Sĩ Tuyết – thường vu –, xin của Trung Úy Trần Đình Thêm bên Trung Tâm.
Tôi không học ngành Y, nhưng được làm ở bệnh viện vì tôi bị thương. Tôi bị trọng thương ở trận Kinh Cán Gáo (Chương Thiện) ngày 19/6/1969, dưới quyền chỉ huy của Trâu Điên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc. Tôi được chuyển về bệnh viện Phan Thanh Giản. Cần Thơ sơ cứu rồi được Bác Sĩ Hạnh chuyển về Bệnh Viện Lê Hữu Sanh (Thị Nghè). Sau hơn 1 năm điều trị thì tôi nhận được giấy ra hội đồng y khoa để phân loại.
Tôi hơi lo nên dò hỏi Thượng Sĩ Y Tá Nguyễn Văn Kha và Đại Úy Bác Sĩ Trần Công Hiệp – hai lương y trực tiếp săn sóc hằng ngày cho tôi – thì hai vị tiên đoán với thương tích gãy xương chân và tay, tai nghễnh ngãng thì có thể “được” phân loại Hai vĩnh viễn, sẽ “được” về Trung Tâm Quản Trị Trung Ương (TTQTTƯ) ở đường Tô Hiến Thành (Hòa Hưng) chờ giải ngũ.
Nếu đúng như thế, tôi sẽ “bị” xuất Binh Chủng, phải về TTQTTƯ chờ giải ngũ thì buồn quá! Tôi than với Huỳnh Văn Phú – Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến – Phú tưởng tôi buồn vì thất nghiệp nên bạn ta an ủi:
– Mày đừng lo, tao sẽ nói với anh tao – Huỳnh Văn Mạnh, một V.I.P. ở Kho Xăng Nhà Bè – tìm cho mày một chân security, một job ngon lương cao hơn lương đại úy nhiều.
Nghe bạn nhiệt tình giúp đỡ lúc sa cơ nên tôi nhận lời liền, không cần suy nghĩ:
– O.K., mày nói với anh Mạnh giúp tao.
Phú bảo:
– Yên chí đi, anh ấy mới nói với tao cần một vài cựu quân nhân làm security.
Lương cao, làm việc tại Kho Xăng Nhà Bè (Saigon) không phải đi đánh giặc là niềm ước mong của nhiều người. Nhưng khi nghĩ tới lúc bị xa anh em, xa đồng đội TQLC đã từng một thời sống chết, nên khi “bị” cởi quân phục rằn ri thay bằng bộ đồ công nhân khiến tôi cảm thấy tủi thân và tiếc thương đời lính quá! Anh Cả của tôi – người nuôi tôi từ nhỏ – cũng không vui khi biết tương lai của tôi sẽ chỉ là một công nhân gác cổng, nên anh khuyên tôi cần suy nghĩ cho kỹ. Anh tôi luôn hãnh diện với bà con xóm làng có thằng em là lính TQLC.
Tôi còn độc thân, dạng cù lần chưa biết bồ bịch, chưa cần job ngon, mà luôn ước ao được gắn bó với TQLC chỉ vì cái hào hùng. Nếu bị buộc phải cởi áo rằn ri thì còn chi là mộng ước ban đầu!
Mộng ban đầu của tôi là khi tôi lên đường gia nhập Trường Võ Bị, tôi đã mang theo cái mũ xanh, cái mũ xanh beret TQLC này tôi xin của anh rể tôi là Chuẩn Úy già Nguyễn Duy Xướng, thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC. Rồi tới ngày tốt nghiệp (11/1964), tôi phải tranh đua với 300 tên đồng Khóa 19 khi tất cả cùng cùng giơ cao tay tình nguyện về Binh Chủng TQLC khi hai vị Đại Úy TQLC Đỗ Kỳ và Phạm Văn Chung đến trường Võ Bị tuyển mộ. Lo sợ bị loại, tôi tính kế “ăn gian”, độn giấy vào gót giầy cho thêm chiều cao, thế là tôi vừa đủ chiều cao, là 1 trong 30 tên được chọn về TQLC.
Ước nguyện ban đầu đã thành công như thế, rồi áo trận đã nhiều lần thấm máu, máu tôi, máu anh em mà nay bị cởi ra để thay bằng cái áo công nhân thì tủi thân biết là chừng nào! Nghĩ vậy tôi phải đi tìm cứu nhân độ thế. Tôi đi gặp anh Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/ TQLC của tôi, anh chứng kiến lúc tôi bị thương, tôi nói lý do và than rằng sẽ bị xuất Binh Chủng, anh cười bảo:
– Tưởng chú mày xin huy chương, cấp bậc thì khó chứ muốn ở lại thì dễ, để tao lo.
Thế rồi mấy ngày sau anh gọi tôi đến gặp anh, tôi giật mình thấy Lạng Sơn ở đó, sau khi nghe tôi trình bày, Lạng Sơn mỉm cười:
– Chú muốn ở lại Binh Chủng thì dễ thôi, cứ nghỉ dựỡng bệnh đi, chừng nào xuất viện, muốn làm chỗ nào thì nói.
“Muốn làm chỗ nào thì nói.” Biết rằng lời hứa của Lạng Sơn – Đại Tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn – thì “chắc như bắp”, liệu sức mình, tùy khả năng tôi sẽ nói sau khi xuất viện, giờ thì cứ nghỉ ngơi với giấy phép chờ tái khám.
Tôi báo tin vui cho Huỳnh Văn Phú – Trưởng Phòng TLC – thì Phú nói:
– Anh Mạnh mới bảo mày chuẩn bị đi nhận việc, tao chưa kịp cho mày hay.
Tôi cám ơn anh Mạnh thì anh không vui, bảo:
– Hai thằng mày lôi thôi quá, cả đống người xếp hàng nạp đơn xin việc…
Tiếc thật đấy chứ, thời điểm 1970, lương security hãng xăng Shell Nhà Bè cao gấp ba lương đại úy, nhưng “gác cổng” thì không có những điều tôi hằng mong ước: “Ngày gia nhập Trường Võ Bị, tôi đã xin anh rể cái mũ xanh TQLC để mang theo.”
Khoảng 2 tuần sau khi tôi gặp Anh Phúc và Lạng Sơn thì tôi nhận được giấy gọi trình diện BTL/P1 & TQT (15 Lê Thánh Tôn). Tay chống nạng, chân thấp chân cao, tôi leo mấy chục bậc thang lên lầu 3 mệt bở hơi tai thì được quý vị Trưởng Phòng 1 và Tổng Quản Trị cho biết tôi có lệnh nhiệm vụ mới: “Đại Đội Trưởng Đại Đội Tổng Hành Dinh”!
Tá hỏa tam tinh, tôi rất sợ đến Bộ Tư Lệnh, sợ các V.I.P., sợ từ ông Sếp an ninh cổng Chuẩn Úy Kiều Công Tuyết, sợ cái “motel” Q.C.202 của chúa ngục Trần Ngọc Toàn mà đã có lần tôi ở trong đó 15 ngày. Tôi vội vàng thanh minh:
– Thưa tôi còn giấy phép nghỉ dưỡng thương tại gia, chờ tái khám mà.
Tôi đưa giấy tờ bệnh viện, V.I.P. vừa xem vừa ngó cặp nạng tôi kẹp nách, chân tay bó bột, rồi họ gật gù bảo tôi ngồi chờ, một lúc sau tôi được ra về như không có chuyện gì xảy ra. Thế là tôi tiếp tục nghỉ tại gia, chờ tái khám cho tới khi cắt bột, là thặng số thương bệnh binh (TBB) Bệnh Viện Lê Hữu Sanh.
Thời gian này (1969 – 1971), chiến trận bùng nổ dữ dội khắp nơi, thương binh dồn dập về bệnh viện, nên thặng số TBB đông lắm, gồm thành phần thương binh nhẹ đã hồi phục chờ đợi trả về đơn vị cũ, thành phần bị thương nặng chờ phân loại thành thương phế binh (TPB), chờ thuyên chuyển về Trung Tâm Quản Trị Trung Ương. Tùy theo hồ sơ bệnh lý để được cấp giấy phép ngày, phép tuần, phép tháng, hết phép, “đến hẹn lại lên”, trở lại bệnh viện để gia hạn hay cấp giấy phép mới, hoặc nhận giấy thuyên chuyển ra khỏi TQLC.
Mỗi buổi sáng đoàn quân “chân thật, chân giả, ba chân, bốn cẳng” ra vào bệnh viện khá đông nên trật tự không được ổn lắm. Cũng thời gian này, khắp Sàigòn – Gia Định xẩy ra phong trào “TPB cắm dùi” do TPB Nguyễn Rô (?) đâu têu, chỗ nào có đất trống là “cắm dùi”. Hai bên lề đường trong thành phố đều có lều tranh dựng lên với khẩu hiệu “Người cày có ruộng thì TPB cần nhà”. Vùng Thị Nghè, ngã tư xa lộ Hàng Xanh đã thấp thoáng có bóng dáng rằn ri trong đám ‘‘liên quân TPB”. Nghe thiên hạ xầm xì rằng “TPB cắm dùi” là do ai đó xúi, hai ông “chủ tịch” N.V.T. và N.C.K. chơi nhau, gây xáo trộn.
Vì những lý do trên nên thượng cấp chỉ định tôi – tên to đầu nhất trong đám què cụt – làm Trưởng Khối Thặng Số Thương Bệnh Binh Bệnh Viện Lê Hữu Sanh, để kiểm soát, ký giấy phép và duy trì tật tự, nhất là canh chừng, không cho TPB/TQLC cắm dùi.
Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ Trưởng Khối, làm việc như một nhân viên bệnh viện, quyền lợi là được đi chung xe Jeep với Bác Sĩ Trần Công Hiệp nếu cần.
Một buổi sáng, tiếng chuông điện thoại réo có vẻ bực dọc gắt gỏng từ Bộ Tư Lệnh gọi qua “văn phòng” Trưởng khối TS/TBB, tôi bốc máy:
– Tô Văn Cấp Trưởng Khối Thặng Số tôi nghe.
– Ông làm cái gì mà để lính của ông đang cắm dùi ở chợ Thị Nghè kia kìa, ra dẹp ngay, không thì tôi cạo đầu…
Mới sáng sớm, lòng không dạ trống mà bị ực một ly cối café đen không đường khiến tôi muốn bịnh thêm! Tôi biết “Ngài” là ai mà ngài dọa cạo đầu tôi? Cạo đâu cũng được, mất vài nắm tóc thì ăn thua gì so với “chân thật, chân giả”, nhưng tôi phải tuân lệnh.
Tôi mượn xe Jeep của Bác Sĩ Hiệp chạy ra Chợ Thị Nghè, không có ai, nhưng tại ngã tư xa lộ Hàng Xanh thì TPB “liên quân” với gậy gộc, cây que, lá dừa nước, bìa carton sẵn sàng dựng chòi. Thấp thoáng trong đó có vài TPB/TQLC, trông thấy tôi, anh em vẫy tay…
Đúng là thủ phạm khiến tôi bị uống café đắng đây rồi. Tôi chân thấp chân cao chống ba-toong đến, chưa kịp mở miệng trách thì đã nghe giọng thân mật của Trung Sĩ Nhất Nguyễn Lô trước kia là Trung Đội Phó của tôi ở TĐ5/ TQLC; Lô bị thương cụt chân trái tới quá đầu gối, trong trận Mộ Đức Quảng Ngãi ngày 12/6/1966. Trận này TĐ5 thiệt hại nặng: Thiếu Tá Dương Hạnh Phước và Bác Sĩ Lê Hữu Sanh tử trận. Lô nói nhỏ:
– Ông thầy đứng đây, tụi em dựng cho một cái chòi, vật dụng có đầy đủ rồi.
Chỉ cần 4 cây cọc, 4 cây gác ngang, che lên đó vài tấm lá dừa, vài miếng carton làm vách là xong một cái chòi. Biết anh em có lòng tốt chứ không có ý dùng tôi làm bia … nhưng tôi chưa có nhà “tôi”, chỉ có một trái tim nên chưa cần một “túp lều tranh” nên nói:
– Cám ơn các em, anh còn độc thân, chưa cần lều, cái cần là mong cái đầu không bị cạo trọc, anh vừa bị V.I.P. đòi cạo đầu! Vậy các chú làm ơn thay quân phục rằn ri bằng quần áo dân sự, hoặc núp vào đám đông “liên quân” để không bị phát giác.
Anh em thương tình nghe lời tôi nên không có gì đáng tiếc xảy ra và tôi vẫn còn tóc để che đầu cho tới khi Bệnh Viện Lê Hữu Sanh chuyển xuống Rừng Cấm Thủ Đức.
Trong Sư Đoàn, chức vụ Trưởng Khối to lắm đấy, thí dụ như Trưởng Khối Chính Trị bao gồm Phòng Tâm Lý Chiến, Phòng Chính Huấn, Phòng Xã Hội, v.v… như vậy tôi là “Trưởng Khối”, bự hơn trưởng phòng nên có văn phòng, có 1 bàn, 3 ghế, 1 điện thoại, còn di chuyển, nếu cần vì công vụ thì dùng chung xe Jeep với Bác Sĩ Trần Công Hiệp.
Khi Bệnh Viện Lê Hữu Sanh chuyển xuống Rừng Cấm thì nhà cửa khang trang, tiện nghi, cái gì cũng mới, đất cũng mới nên mới … nắng bụi, mưa sình. Mà “nhân công” thì nhiều, ngồi chơi không có nước mà xơi thì nói chi đến cơm nguội, nên tôi thưa với Bác Sĩ Thế – Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Quân Y:
– Thưa Bác Sĩ, hiện nay bệnh viện ở xa Thị Nghè và Thủ Đức nên anh em thặng số (TS) lưu lại bệnh viện khá đông, mà không có chút gì trám vào dạ trống nên tôi đề nghị với BS vài điều để “nhất cử tam tứ tiện”.
(Bác sĩ Nguyễn Văn Thế là lương y thực sự, sau này ở hải ngoại phòng mạch của ông trên đường Bolsa quá đông khách, nhưng điều đáng quý nhất: Ông là thần tượng của dân homeless vùng Bolsa, ông thương thặng số là dĩ nhiên.) Bác Sĩ Thế cười:
– Cấp cần gì cứ nói.
Tôi nói:
1) Bác Sĩ gửi văn thư đến tiểu đoàn nào có thương binh là thặng số thì họ chuyển hàng quân tiếp vụ của anh em về đây cho anh em có chút cháo, đó là quyền lợi của họ.
2) Nhận thấy khẩu phần ăn của các thương bệnh binh đang nằm bệnh viện khá dư thừa nên có thể “du di” cho anh em thặng số chút đỉnh cho bớt đói. Ngược lại tôi sẽ nhờ anh em bới đất, cuốc cỏ phủ xanh sân bệnh viện bằng cách… Anh Thế vui vẻ nhận lời, O.K. mọi chuyện, chỉ một thời gian sau, hàng quân tiếp vụ của anh em được chuyển về cho anh em, họ có thể trao đổi, thương lượng để có chút “lương” thực. Rồi vào những buổi chiều, những thặng số xa nhà ở lại bệnh viện thì quây quần bên nhau, bên thau cơm “du di”, tức là những phần cơm mà thương bệnh binh không ăn hết.
Đời lính chiến đã khổ, đời thặng số thương bệnh binh còn khổ hơn, sự thật là vậy, những cấp chỉ huy thích đi trên mây, đâu có thấy cảnh này!
Tôi hỏi Thượng Sĩ Tuyết – Thường Vụ Thặng Số:
– Anh em vững dạ không?
-Tàm tạm Ông Thầy.
– Bác Sĩ Thế nhờ anh em TS mình “phủ xanh” sân bệnh viện, liệu có làm được không?
– Phủ thế nào?
– Thế này… thế này…
– Dễ dàng, anh em càng vui, thay vì ngồi đánh cờ tướng chống đói, chực cơm.
TQLC Tụt Quần Làm Cỏ:
Từ đó, mỗi sáng Thượng Sĩ Quốc – Thường Vụ TĐQY – cấp cho Thượng Sĩ Tuyết (TS) 1 xe GMC và nhiều cuốc, xẻng. Thượng Sĩ Tuyết tuyển mộ những thặng số còn “đủ bộ”, tương đối khỏe, theo GMC ra khu vực Rừng Cấm, Cò Mi, bãi tập chiến thuật, lựa những vạt cỏ xanh mịn, xắn từng miếng vuông vức 20x20cm, chất lên GMC mang về sân đất bệnh viện.
Anh em thặng số thì chỉ có một bộ quân phục (có ai cấp phát đâu) nên khi cuốc cỏ anh em phải tụt quần ra, cất đi, giữ gìn cẩn thận, xong việc mới mặc vào.
Một buổi sáng trong lúc anh em đang tụt quần ra … thì xe Jeep Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú – Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến – đi ngang qua. Thấy tôi, ông ta dừng lại hỏi thăm, nghe tôi kể chuyện cuốc cỏ, Thiếu Tá Phú bèn “xuất khẩu thành thơ” diễn tả công việc của TS, tôi không dám ghi hết, vì sợ đọc giả cười văng miểng nên tôi chỉ xin ghi lại câu đầu mà thôi: “TQLC Tụt Quần Làm Cỏ”.
Xe GMC chở cỏ từ rừng Cò Mi vào sân bệnh viện thì đã có toán “trực chiến”, xuống cỏ trải đều phủ kín những khoảng sân đất đỏ theo sơ đồ tôi đả vẽ sẵn. Tôi dóng hướng, giăng dây, đóng cọc sao cho sân bệnh viện “có vẻ” là một công viên ghế đá với hoa lá cành đề chiều chiều thương binh ra ngoài hóng gió. Cái khó là làm sao cho mặt sân cỏ bằng phẳng như xe hủ lô cán đường?
“Cùng tắc biến, biến tắc thông”, tôi tìm được thùng phuy (200 lít), đem bỏ đầy đá vào rồi bịt miệng thùng phuy lại, cho thùng phuy lăn trên mặt cỏ sau khi đã tưới nước cho mền ra. Hai bên thùng phuy có hai chú thặng số đẩy tới đẩy lui như xe hủ lô lăn trên sân cỏ, một chú đứng ngoài chỉ huy, họ vui vẻ cười đùa tự diễu: “Năm thằng lúc lắc một thằng.”
Công việc trông khá khôi hài, nhưng “có công lúc lắc, cỏ này phẳng phiu”, dần dần toàn bộ sân bệnh viện đất đỏ được phủ kín lớp cỏ tương đối bằng phẳng. Cỏ thì bỏ đâu cũng sống nên chỉ vài tuần sau là một màu xanh “cỏ non mát mắt” phủ khắp nhà thương.
Có cỏ mà thiếu những chậu hoa đỏ vàng xanh tím thì như giai nhân thiếu son môi, nhân lúc Bác Sĩ Thế đứng ngắm sân cỏ gật gù khen, tôi vẽ thêm chuyện ngay:
– Ở góc tường, gần dãy nhà tiền chế, có một đống kẽm gai cuộn, anh cho tôi vài cuộn để đem đổi lấy mấy chậu hoa kiểng để trang trí sân bệnh viện cho mát mắt.
Bác sĩ Thế ngần ngừ rồi nói:
– Những cuộn kẽm gai đó để gài thêm vào hàng rào phòng thủ, nhưng em có thể lấy in ít chừng … chục cuộn thì được.
Dân nhà vườn hoa cây kiểng vùng Thủ Đức, Lái Thiêu họ rất chuộng những cuộn kẽm gai này, tôi giao cho Thượng Sĩ Tuyết nhiệm vụ đổi kẽm gai lấy hoa, rồi một số anh em thặng số vùng Lái Thiêu, Bình Dương vấn kế:
– Ông Thầy cho em đi phép 1 tuần, em sẽ mang về 1 chậu kiểng.
Thông thường, mỗi buổi sáng, thư ký “văn phòng” trình tôi ký một xấp giấy phép từ 1 tới 7 ngày cho anh em thặng số, tôi chả cần biết lý do. Anh em TS/TBB có vắng mặt vài ngày thì “làm gì nhau”, không lẽ V.I.P. cứ hù “cạo đầu”? TBB cạo lông, lóc da, xẻ thịt, cưa xương, cắt ruột thì sá chi vài sợi tóc. Cái khó là mấy ông Quân Cảnh làm khó anh em nên mới cần giấy phép. Nay anh em xin đi 7 ngày rồi mang về 1 chậu hoa, chẳng thiệt hại ai, trái lại “nhất cử tam, tứ tiện”, bệnh viện đẹp thêm thì ngu gì mà không ký!
Chẳng bao lâu sau, những chậu mai vàng, mai tứ quý, cau kiểng đứng rải rác khắp sân nhà thương, Bác Sĩ Trưởng Bệnh Viện, Bác Sĩ TĐT/TĐQY tủm tỉm cười, tôi thầm nghĩ: “Thương Phế Binh chúng tôi đâu phải thứ phế thải!”
Khi sân bệnh viện trông “có vẻ” là công viên rồi thì tôi lại thấy thiếu ghế đá, tôi mách nước cho BS Thế:
– Thiếu ghế đá mài trong công viên bệnh viện để cho anh em Thương Bệnh Binh ngồi hóng mát thì Ông Thầy nhắc phôn nói với CHT Trung Tâm Huấn Luyện là Trung Tá Nguyễn Đức Ân, ông Ân chỉ thị cho Trung Úy Trần Đình Thêm là có ngay, “bi nhiêu” cũng có, ông Thêm xây hồ tắm cho tân binh học bơi lội thì sá gì ghế đá ngồi cho TBB.
Bác sĩ Thế nhắc phôn gọi cho Trung Tá Ân, bao nhiêu ghế đá công viên cũng có, thế là tôi giải quyết tạm xong công việc của một y công, không còn nợ TBB “ghế đá công viên”.
Thời gian làm y công, tôi còn độc thân, cũng chẳng một mảnh tình vắt vai, không phương tiện di chuyển, lại chân thấp chân cao, nhà thì xa nên tôi ở lại bệnh viện luôn. Ban ngày chân giầy chân dép, chống ba-toong, chỉ tay năm ngón cho anh em thặng số “lặc” cỏ. Chiều chiều tôi đi tán dóc với mấy thương binh. Lúc này trận chiến bùng nổ khốc liệt khắp nơi, thương binh về bệnh viện nhiều lắm, trong đó không ít Trâu Điên mà một thời đã là đồng đội thân thiết của tôi. Đôi khi tôi theo Bác Sĩ Đông Vân Nguyễn Văn Dõng xem ông săn sóc thương binh, nhất là những anh em bị thương cột sống, nằm liệt một chỗ khiến lưng lở loét. Có gần 20 anh em trong tình trạng tương tự. Ông Thầy Dõng là chuyên viên chỉnh hình, sửa sắc đẹp cho anh em sứt môi nên mỗi khi thấy ông Dõng đến là anh em cười.
Suốt thời gian hơn năm, vừa là thương binh, vừa là thặng số rồi là “y công”, tôi gần như ở lại bệnh viện 24/24 nên tôi quen biết hầu hết các quân y dược sĩ của bệnh viện, nhưng luôn biết giữ vị trí bệnh nhân và thày thuốc, chỉ thân tình với Bác Sĩ Dõng.
Săn sóc và sống gần gũi với TPB, nên Bác Sĩ Dõng hiểu được nỗi đau khổ tột cùng của phế nhân. Sau khi đi tù về, ông nâng đỡ và víu lại những mảnh đời vỡ vụn nên anh em và Cọp Lạt Ma gọi ông là “Đốc tờ Gí-va-gô” (Zhivago). (Khi định cư ở Pháp, Bác Sĩ Dõng viết truyện “Sống Trong Ngục Tù Cộng Sản”, năm 2007 Bác Sĩ Dõng giao cho tôi, Thiếu Tá Quách Ngọc Lâm và anh Chu Trọng Ngư in ấn và phát hành, tất cả tiền thu được tặng cho anh em TPB hết, Bác Sĩ Dõng còn bỏ tiền túi $2,000 để trả tiền in sách. Bác Sĩ Dõng còn là một nhà văn với bút hiệu Đông Vân, viết rất nhiều vì vậy tôi lại có dịp tiếp xúc nhiễu hơn nên kết thân với ông, đùa giai với ông, vì ông bình dân, ông là cây khôi hài bậc thầy và cũng là “cây tùng trước bão” trong ngục tù Việt cộng và cho đến nay, tôi vẫn liên lạc thường xuyên với ông, không phải để xin thuốc … mà để dòi ông “trả bài” cho đạc săn Sóng Thần TQLC.)
Theo chân ông Dõng xem ông săn sóc các vết thương lở loét của bệnh binh, những tiếng hét đau đớn khiến tôi rợn người. Đôi khi tôi ghé phòng bác sĩ trực xem các thầy xoa “tổng thùng soọc màn”, trong đó con chim sẻ (mã tước) tượng trưng cho quân nhất sách (soọc) nên dân chơi gọi là xoa mạt chược (mã tước), còn dân ấm ớ như tôi thì gọi là xoa bài chim, ngắn gọn là “xoa chim”.
Sống cùng anh em thương bệnh binh, tôi có dịp so sánh mới thấy: Đời lính chiến đã khổ, đời thương binh còn khổ hơn, nhất là những anh em “được” tặng thêm chữ “phế”: thương phế binh thì tận cùng bằng số. Nhưng có lẽ đời sống của anh em đã xuống tận cùng rồi nên anh em không còn thấy khổ mà vẫn lạc quan, vẫn cười vui mỗi khi có “thiên thần áo trắng” xuất hiện. Y tá, y sĩ, bác sĩ là thiên thần áo trắng của thương bệnh binh.
Cám ơn quý thầy, quý anh em y tá đã săn sóc thương binh T.V.C. như người thân trong nhà. Cám ơn các “cộng sự viên” khối Thặng Số/TBB đã cùng tôi đem lại màu xanh mát mẻ cho Bệnh Viện Lê Hữu Sanh.
Đến nay (2020), tôi vẫn nhớ kỷ niệm vui khi anh em phong chức cho tôi là y công. Nhớ các anh em, nhưng chắc đã có nhiều anh em TPB, nhiều anh em thặng số đã về “trên ấy” rồi. Thế cũng tốt, trước sau cũng tới, còn hơn vất vưởng mà không chân đứng, không tay bưng chén cháo, thiếu tay chào thượng cấp, trừng mắt nhìn đời mà có thấy gì đâu!
Người lính già thương phế binh không sợ chết, sợ … chết không được! ⬛
Mùa ôn dịch VC (virus china) CA, 13/5/2020
TĐ1/TQLC 1967 – 1968:
Trái – phải: Trung Uý Tôn Thất Trân*, Đại Úy Huỳnh Văn Lượm*, Y Sĩ
Trung Úy Nguyễn Văn Dõng, Thiếu Úy Nguyễn Trí Nam* (* Cả 3 đã tử trận)

