Xé Lá Thư Tình
Tô Văn Cấp
Tấm hình bị xé
Cơm nước xong, theo lời đề nghị của nội tướng, gia đình tôi ngồi lại coi video “Lá Thư Chiến Trường” của Trung Tâm Asia. Vị nể tình vợ con nên tôi phải ngồi cho có mặt vậy thôi chứ khiếu văn nghệ của tôi thì vô cùng tồi, nhất là đối với những sáng tác về sau này, đại loại như: “Tình anh ngọn nến, xin em đừng đến”, hoặc giả “dậy đi em đừng ngủ dây dưa, dậy đi em mà nấu canh chua”, nhất là sau 10 năm đại hộc máu XHCN mà nghe các cô cậu hét bên tai “Trái tim ngục tù” thì chỉ có chết! Lời ca tiếng hát không hợp khẩu vị, quần áo ca sĩ thì nghèo nàn, xệ trên hở dưới thấy mờ mờ ảo ảo, dẫu có nhìn sát màn hình thì chỉ thêm nhức đầu, chẳng ích gì cho tuổi xế chiều như tôi.
Hơn nữa, không hiểu sao hồi này cứ sau bữa cơm tối là cô nàng “Song Thị Nhãn” lại rủ tôi lên giường, viện cớ với lý do “căng da bụng thì chùng da mắt”. Da bụng căng sẽ kéo da mắt khép lại. Khi đi “khám” bác sĩ, ổng nói rằng sau khi ăn, đường trong máu tăng cao làm ta buồn ngủ chứ không phải tại da bụng căng làm mi mắt khép lại. Đang lơ mơ ngủ gật, tôi giật mình nghe tiếng con gái:
– Bố bố, dậy xem trên TV kìa, người ta đang đọc lá thư chiến trường của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú kìa, lời thơ tình tứ và cảm động quá! Có phải đó là thư của bác Phú TQLC/K19 của nhà mình không? Có phải bác ấy viết cho bác Phượng không? Nếu không phải bác Phượng, má của Mimi thì làm sao bác Phú dám liều mạng đưa thư gửi người tình lên TV?
Tuy chưa mở mắt ra được, nhưng nghe con hỏi là tôi biết tác giả lá thư tình đó là ai rồi. Trong chốn văn chương tình ái, chưa có ai trùng tên Phú họ Huỳnh nên tôi xác định ngay:
– Còn ai vào đây nữa, chính là bác Phú K19/TQLC của nhà mình đấy.
Không hiểu con gái tôi học được ở đâu câu nói: “của nhà mình” thay vì “bạn của bố”. Không riêng bác Phú mà bất cứ bác nào cháu biết thì đều vơ vào “của nhà mình”, như bác Chiến, bác San, bác Giáng, bác Miên, bác Khương, bác Hải, bác Trân v.v.. Tôi đã nhắc cháu nhiều lần, nói như thế có thể làm các bác buồn, nhưng cháu lại lý sự: “Gọi như thế mới thân tình hơn chứ bố”. Thấy cháu biết kính mến bạn của bố khiến tôi vui nên giải thích thêm về lá thư:
– Lá thư có thật đó con, bác Phú viết cho người yêu, còn người yêu là ai thì bố không nhớ hết, vì là lính đánh giặc từ Bến Hải đến mũi Cà Mâu, dừng quân đâu là có tình yêu đó, độc thân vui tính lại biết thả thơ, biết tán, có tài khôi hài làm người khác cười tít mắt thì ắt có nhiều tình yêu, có nhiều thì sợ gì mà không dám kể.
Thấy bố mạnh miệng bênh vực cho bạn, con gái nháy mắt với mẹ ngồi bên:
– Bố có dám kể cho mẹ và con nghe lá thư bố viết cho người yêu không?
– Bố không nhớ hết những lá thư bố viết, và viết cho ai, có lá thư bố viết cho người tên Mai Liên, Thu Cúc, Trúc Xinh v.v.. thì đều bị trả lại với dòng chữ ghi trên bì thư “không có người nhận”, duy có một lần nhận được thư hồi âm của người yêu, bố chưa kịp đọc thì lá thư đó bị xé nát…
Vừa nói xong câu đó thì tôi thấy nhói bên hông, hình như có người nào nhéo ba sườn thì phải, rồi nghe tiếng nho nhỏ bên tai: “Xạo hoài”! Nhưng con gái thì không biết chuyện vợ chồng tôi vừa “cấu-chí” nhau nên cháu hỏi bố tới tấp là ai mà dám xé thư người yêu của bố? Người xưa ấy là ai? Yêu từ hồi nào, hiện nay bà ấy ở đâu? Ở Hoa Kỳ, hay còn kẹt lại ở Việt Nam? Có phải lá thư bị mẹ con xé vì bả ghen?
Liếc sang mẹ con gái, thấy bà ấy đang ngó lên TV nên tôi nói nhỏ với con:
– Coi chừng bố bị xé xác bây giờ! Để bố kể lại chuyện xưa:
* * *
Tết năm 1963, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị là Thiếu Tướng Trần Tử Oai cho phân nửa K19 có điều kiện được đi phép Tết. Nhân dịp này, tôi quen được cô Th…, nữ sinh lớp Đệ Tam Gia Long, em họ của người bạn cùng học Pétrus Ký. Đêm giao thừa năm ấy, SVSQ Võ Bị cầm tay cô nữ sinh Gia Long, dung giăng đi xem hoa Tết và xin xâm ở Lăng Ông, Gia Định, xâm phán: “Tiền hung hậu kiết”, nghĩa là tình trục trặc lúc ban đầu, hồi sau sẽ tốt đẹp.
Từ đó Th… và tôi quen nhau, thư đi tin lại được một thời gian thì chiến trường sôi động mạnh, vì tôi là lính Thủy Quân Lục Chiến, di chuyển liên tục khắp nơi, ranh giới giữa sống chết khó phân biệt, thời gian dành hết cho đơn vị, vuốt mắt tiễn đồng đội ra đi và nhận bạn mới, không còn thời gian nghĩ đến mẹ già và gia đình nên tình yêu của tôi với Th… bị gián đoạn, mất liên lạc cho đến Tết Mậu Thân 1968, tức 5 năm sau chúng tôi mới gặp lại nhau trong một hoàn cảnh khá bất ngờ.
Nghe tôi kể vậy, con gái tưởng tôi thêu dệt nên nói tiếp thay lời bố:
– Lại là chuyện tình éo le thời chiến, hai người yêu xưa nay bất ngờ gặp nhau trên phố, em thì đã tay bế tay bồng, còn anh bận lo giữ biên cương nên vẫn còn độc thân, liếc mắt ngậm ngùi nhìn nhau, thăm hỏi vài câu xã giao rồi đường ai nấy đi! Có phải vậy không bố?
– Không phải gặp nhau trên phố, mà gặp trong một trận đánh nhau và cô ấy vẫn chưa có chồng.
Mắt con gái tròn xoe ngạc nhiên vì hiểu lầm chuyện “đánh nhau”, còn mắt mẹ thì vẫn cứ nhìn lên TV xem người ta đọc những “lá thư chiến trường”, phần tôi thì nhớ lại những kỷ niệm ngày gặp lại Th.. khá bất ngờ trong trận đánh nhau với VC trong Tết Mậu Thân 1968 sau mấy năm xa cách và những gì xẩy ra sau đó cho tới ngày “lá thư tình bị xé”.
Tết Mậu Thân 1968, VC đánh chiếm nhiều nơi ở Saigon Chợ Lớn, TĐ2/TQLC đang hành quân tại Cai Lậy thì được trực thăng Chinook bốc về Saigòn, đổ quân xuống ngay trong sân cờ Bộ TTM. Rồi từ ngày đầu Tết Nguyên Đán TĐ2 hành quân liên tục khắp nơi, nội ngoại thành phố Saigon Chợ Lớn, từ đợt 1 qua đợt 2 (tháng 5/68) cho tới tháng 9/68. khi Saigon thanh bình thì Tiểu Đoàn 2 mới rời Saigon đi Hố Bò, Bời Lời thuộc Chiến Khu D của VC.
Vì VC đánh chiếm nhiều nơi trong thành phố nhưng mỗi nơi chỉ là những đơn vị nhỏ cấp đại đội, trung đội hoặc các toán đặc công nên TĐ2/TQLC ít khi phải hành quân chung cấp tiểu đoàn mà thường giao cho mỗi đại đội, với quân số trung bình trên 100, để thanh toán những mục tiêu khác nhau.
Sau khi cùng Đại Đội 2 của Đ/Úy Vũ Đoàn Dzoan thanh toán mục tiêu khu vực chùa Ấn Quang (bắt tên Bảy Lốp tại đây), đại đội tôi được lệnh thanh toán mục tiêu tại bến xe đò Miền Tây, nằm trên đường Thành Thái (Chợ Lớn).
Xe GMC đổ quân chúng tôi xuống tại ngã ba đường Thành Thái và Cộng Hòa để tiến dần về hướng Chợ Lớn, dọc theo hai bên đường Thành Thái, vượt qua ngã tư đường Thành Thái & Trần Bình Trọng vẫn an toàn, nhưng khi trung đội đi đầu gần tới bến xe thì súng nổ, một vài anh em bị thương nhẹ. Tôi cho tạm dừng quân để báo cáo và thăm dò địch tình, tìm cách thanh toán mục tiêu cách nào để hạn chế tối đa thương vong, “đánh giặc trong thành phố”, địch trà trộn với khu vực dân thật khó nuốt vì không được dùng hỏa lực của Pháo Binh và Không Quân yểm trợ.
Trong lúc chúng tôi tạm dừng quân thì dân chúng hai bên đường hé cửa bước ra hỏi thăm. Dĩ nhiên quân tới đâu thì dân được bình an tới đó, nhất là những thanh niên tới tuổi “tòng quân”, thấy lính với súng đạn quanh mình thì các chàng tò mò hỏi han đủ chuyện. Chợt thấy ai vỗ vai và gọi: “Anh Cấp”. Tôi quay lại thấy người thanh niên cao lớn đẹp trai, trông quen quen, người thanh niên tự giới thiệu:
– Em là Tuấn, em của chị Th…, chắc anh không nhận ra em.
– Trời ơi Tuấn! Em mau lớn quá, sao em đến đây và nhận ra anh?
– Lúc đầu em còn ngờ ngợ nhưng sau thấy tên anh trên nắp túi áo, mấy hôm rồi sợ quá nên nhà cứ đóng cửa, nay thấy lính về tụi em mừng nên chạy theo xem các anh đánh Việt Cộng, anh khỏe không?
Tuấn vừa nói vừa tay chỉ về căn nhà gần đấy. Tôi sực nhớ lại căn nhà số 347 đường Thành Thái, nơi gia đình Th… sinh sống, đó là nơi lần đầu tiên tôi được người bạn cùng lớp và cũng là em họ của Th.. dẫn đến thăm.
Với quân phục sinh viên sĩ quan Võ Bị, tôi bước vào nhà.., vừa thấy tôi, “cô bé” đang ngồi đọc sách ngoài phòng khách vội đứng dậy gật dầu chào rồi chạy tuốt vào bên trong. Dù được bạn báo trước nên tôi biết cô bé đó là ai nhưng tôi vẫn bị bất ngờ với vẻ đẹp “nữ sinh”, tính nhút nhát. Tôi ngẩn ngơ nhìn theo mái tóc ngắn, cái cổ trắng ngần. Hình như tôi nghe thấy tiếng “sét…”
– Anh khỏe không?
Tiếng Tuấn nhắc lại câu hỏi thăm tôi giật mình, ngượng ngùng trở về hiện tại, vội hỏi thăm Tuấn mà không giấu được niềm xúc động:
– Cả nhà được bình an cả chứ em?
– Ba mẹ và chúng em bình an cả nhưng anh Phong đã tử trận rồi! Còn em thì sắp đi Hải Quân.
Tin Phong tử trận làm tôi choáng váng! Phong là con trai trưởng và là em kế của Th… Muốn được cảm tình của chị thì phải “lấy lòng” mấy cậu em trước nên tôi và Phong rất thân nhau, Phong giúp tôi liên lạc thư từ với chị, Phong “ét-coọc” chị ra khỏi nhà để bố mẹ an tâm. Khi chúng tôi gặp nhau rồi thì Phong giao chị cho tôi rồi Phong đi chơi riêng, hẹn giờ đến đón chị v.v… vậy mà “cậu em” tử trận tôi không biết! Em thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, một thiếu úy trẻ tuổi đẹp trai đầy tương lai. Nghĩ tới Phong, lòng tôi chùng xuống, thương em vô cùng!
Phong đã tử trận! Đời lính là vậy đó, biết bao gia đình có con đã hy sinh cho Tổ Quốc. Vinh quang thay, nhưng cũng đau đớn thay cho các bậc cha mẹ khi con lớn tử trận rồi đến con thứ hai.. Gia đình Th.. là một trong những trường hợp đó.
Tuấn đi Hải Quân, cuối năm 1973, vào những này giáp Tết âm lịch, Tuấn chuẩn bị cưới vợ, người yêu của Tuấn là một cô gái công, dung, ngôn, hạnh, tên Mai. Nhưng bất ngờ Tuấn được lệnh theo tàu HQ10 đi công tác.
Ngày 19/1/1974 tin chấn động cả nước và riêng với gia đình Th.. về trận hải chiến Hoàng Sa giữa Hải Quân Việt Nam và quân Trung Cộng, hai bên cùng thiệt hại, nhưng tin HQ10 bị đánh chìm đem theo Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và một số tử sĩ, thành phần còn lại thì đã vượt thoát bằng phao đem theo các thương binh, nhưng tất cả chưa xác định được danh tánh!
Tâm trạng lo âu, hồi hộp và hy vọng đối với các bà mẹ, người chị có con, em tham dự trận hải chiến Hoàng Sa là cầu xin Thượng Đế, van vái tứ phương, cầu Chúa, lạy Phật, kể cả thày bói v.v..
Vào khoảng hai tuần sau Tết Âm Lịch 1973, một anh Hải Quân, bạn thân của Tuấn, tìm đến nhà báo tin:
Khi trận hải chiến xảy ra, trọng pháo của tàu Trung Cộng bắn vào HQ10, anh này và Tuấn cùng nằm song song trở đầu đuôi trên “boong” tàu HQ10, Tuấn bị thương vào đầu. Khi HQ10 bắt đầu chìm thì Hạm Trưởng lệnh cho anh em tự thoát, Tuấn được đồng đội dìu xuống phao cấp cứu. Vì bị thương vào đầu máu ra nhiều nên Tuấn đã trút hơi thở sau nhiều giờ lênh đênh trên biển cả, đồng đội đành thủy táng Tuấn! Khoảng 20 người còn lại trên bè vài ngày sau được tàu Nhật cứu vớt. Trước khi thủy táng Tuấn, người bạn của Tuấn còn giữ lại được vài kỷ vật của Tuấn, trong đó có tấm thẻ bài và lá thư gửi cho Mai, vợ sắp cưới!
Vài ngày sau, phái đoàn Bộ Tư Lệnh Hải Quân đến nhà Th… làm lễ truy thăng cho Hải Quân Nguyễn Văn Tuấn đã anh dũng chiến đấu với quân xâm lược Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa.
Ngày nay ở hải ngoại, hằng năm vào dịp kỷ niệm tướng nhớ 74 tử sĩ Hải Quân trong trận hải chiến Hoàng Sa tại tượng đài Việt Mỹ Westminster CA, gia đình Th… vẫn nhận được thư mời đến tham dự…
Hoàng Sa! Đã hơn 40 năm rồi, nước mắt vẫn còn rơi!
Trở lại chuyện Mậu Thân.
Sau khi giải tỏa mục tiêu xong, tôi trở lại thăm và chia buồn cùng gia đình Th…, thắp nén nhang cho Phong. Bố của Th… cảm động khi tôi tới chào, ông nói:
– Các cháu đánh giặc giỏi lắm, lính của các cháu rất kỷ luật.
Nghe sao mà ấm lòng, và thật mát dạ khi người cũ đưa tôi chai “33” và bao thuốc lá Ruby Queen (màu tím nhạt), hai thứ này là bạn thân của tôi. Ngoài yếu tố “tình cũ không rủ cũng đến” thì sự thương mến đời lính chiến của gia đình Th… khiến hai chúng tôi gắn bó hơn ngày xưa, nhưng tình vẫn chỉ là chuyện tình lính, một năm dăm ba ngày phép, rủ nhau dạo phố Nguyễn Huệ, Lê Lợi, ăn gỏi đu đủ bò khô gan cháy, uống nước mía Viễn Đông, ngồi café Mai Hương v.v.., hết phép anh trở ra tiền tuyến em vẫn ở lại hậu phương.
Tình yêu vẫn chỉ là thư đi tin lại, yêu nhau trên giấy được hơn một năm. Cho tới một hôm, ngày 19/6/1969, TĐ2/TQLC hành quân vùng Hỏa Lựu, tỉnh Chương Thiện, dừng quân bên hông chợ Hỏa Lựu để nhận tiếp tế và thư từ do hậu trạm mang tới. Tôi cũng nhận được lá thư của Th.., chưa kịp ngắm nghía cái tên người gửi thì hai chàng ĐĐT/ĐĐ2 và ĐĐ4 là Đ/Úy Trần Văn Hợp, Đ/Úy Vũ Đoàn Dzoan cùng với Phạm Hiệp Sĩ, thuộc TĐ4/TQLC cùng hành quân chung, đến kéo tôi vào quán cháo lòng bên hông chợ. Buổi sáng sương mù phủ kín đồng quê, trời lạnh, cháo nóng, bạn đồng khóa đông (4 tên), lại thêm cái bi-đông đế luôn bên hông của Hiệp Sĩ nên tôi để yên lá thư tình trong túi áo.
Khi đi hành quân, đang leo núi, băng rừng, lội sình mà nhận được thư gia đình, nhất là thư của người yêu thì mừng và quý lắm, cứ như gặp được người thật. Tâm trạng mừng vui tùy người, có anh vồ vập đọc ngay, có chàng từ từ mà cởi, mà mở sao cho cái bì thư không bị rách (?). Chàng khác thì cầm chắc trong tay cứ như “tay lại cầm tay”, mắt len lén nhìn quanh xem có ai để ý không rồi đưa thư lên mũi hôn như để tìm mùi thơm da tay, mùi nước hoa quen thuộc. Còn tôi thì lúc nào cũng hôn tên người gửi rồi gói kỹ lại để dành tới cuối ngày, khi dừng quân, nằm đong đưa trên võng, uống café, hút thuốc lá mới bóc thư tình.
Còn gì vui bằng khi đóng quân xong, leo lên võng, đặt thư tình lên ngực tưởng như hai ta cùng nằm chung võng, vừa đu đưa vừa đọc thư, kéo một hơi thuốc lá, nhả khói vòng tròn thấy khuôn trăng người tình trong đó. Chuyện lính chiến trường khi dừng quân, nhận và đọc thư người yêu thấy lãng mạn và dễ thương làm sao! Người hậu phương nếu biết được tình cảm này chắc chẳng bao giờ nỡ cách xa, nỡ sang ngang.
Nhưng thực tế không đẹp như mong ước mà nhiều khi còn vỡ nát con tim, gặp nhiều đau thương sau khi đọc thư tình: “Anh ơi, em vẫn thương anh, nhưng mẹ bắt em đi lấy chồng, em không muốn mất chữ hiếu!” Cũng có khi chưa đọc thư, hoặc vừa đọc thư em xong thì anh làm người thiên cổ!
Ai đã từng đọc “Những Buổi Sáng Của Lựu” trong tập truyện “Mùa Xuân Âm Thầm” của nhà văn Huỳnh Văn Phú chắc khó tin đó là chuyện tình có thật, chuyện tình đẹp như tranh giữa Trung Úy TQLC Nguyễn Quốc Chính, K20 Võ Bị, và người tình tên Lựu, nhưng nửa đường gãy gánh!
Đã lâu lắm rồi nhưng tôi còn nhớ rõ như mới xảy ra. Chiều ngày 29/12/1967, sau khi đóng quân xong, Chính và tôi nằm võng cạnh nhau bên bờ sông Cai Lậy, café, thuốc lá và tâm tình, Chính lấy thơ của Lựu ra đọc, họ mới trao nhẫn đính hôn trước khi đi hành quân. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, hôn hình vợ chưa cưới, Chính thở dài:
– Sao lần này đi hành quân, em thấy có cái gì lấn cấn và nhớ Lựu quá!
Quả như lời Chính nói, trong chuyến hành quân ấy, Chính đã tử trận, không bao giờ trở về với người vợ sắp cưới, y như trường hợp của Tuấn sau này, Tuấn không về được với Mai nữa! chỉ có lá thư Tuấn viết cho Mai mà chưa kịp gửi khi còn sống!
Khi tôi nhận được thư, nhìn tên người gửi, tôi cầm lá thư dày là biết có hình trong đó, vì thư trước Th… đã hứa: “Sẽ bất ngờ đến thăm anh”. Tôi biết cuộc hành quân vùng Chương Thiện này là phải lội qua nhiều kinh rạch nên tôi bọc lá thư thật kỹ bằng nhiều lớp nylon, giằng dây thung bên ngoài, để thư lên túi áo cho khỏi ướt.
TĐ2/TQLC chia làm hai cánh để tiến vào mục tiêu, cánh A do TĐT Nguyễn Xuân Phúc chỉ huy, gồm có ĐĐ4 của Trần Văn Hợp, ĐĐ1 của Tr/Úy Lâm Tài Thạnh. Cánh B do tôi chỉ huy kiêm luôn ĐĐ3 và ĐĐ2 của Dzoan.
Khi cánh B đổ trực thăng xuống cánh đồng ruộng nước để tiến vào làng, tôi phát giác có dấu vết khả nghi trên các đường mòn dẫn vào mục tiêu. Theo lý thuyết học tại quân trường thì không bao giờ đi trên các đường mòn, vì vậy tôi cho lệnh các đại đội lội dưới ruộng mà đi, men theo các bụi dừa nước để tiến vào làng. Nào ngờ, thực tế lại khác, Việt Cộng đã gài sẵn mìn dưới gốc dừa nước, dây cước giăng chìm dưới nước làm sao biết mà tránh. Mìn nổ tung ngay giữa ban chỉ huy cánh B, cố vấn Mỹ bị cụt tay, cận vệ tử thương, tôi bị trọng thương.
Đ/Úy Dzoan gọi máy báo cho Anh Phúc và Trưởng Ban Ba Chiến Đoàn là Đ/Úy Trần Kim Đệ, họ đang bay C&C, Đệ đáp trực thăng xuống tải thương cho tôi về bệnh viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Trong lúc y tá phân loại thương tích theo tình trạng từ nặng tới nhẹ, tôi mới biết mình bị gãy xương chân phải, gãy tay trái, bể xương hàm, máu từ mũi và hai lỗ tai đang chảy ra. Tôi nghe loáng thoáng một viên bác sĩ sờ chân tôi rồi nói: “Phải cưa!” Rất may vừa lúc đó, Bác Sĩ TQLC Nguyễn Văn Hạnh đến nhận thương binh TQLC chuyển thẳng ra phi trường, đem về bệnh viện Lê Hữu Sanh tại Thị Nghè Saigòn điều trị. Tôi thều thào nói với BS Hạnh:
– Đừng cưa.
BS Hạnh mỉm cười, vỗ vỗ tay tôi an ủi rồi chích cho tôi thuốc ngủ, giảm đau.
Nửa tỉnh nửa mê nằm trên giường bệnh, toàn thân bị bó bột, thoáng nghe tiếng ai nhỏ nhẹ bên tai, nhướng mắt lên, nhận ra mẹ tôi và Th…, hai người thân yêu của tôi đang cạy những vết máu và bùn đã khô còn dính lại trên đầu và mặt tôi. Thấy tôi mở mắt, Th… mim cười, hỏi nhỏ:
– Anh đã nhận được thư và hình của em chưa?
Lúc đó tôi mới sực nhớ đến lá thư trên túi áo trái, tôi vội hỏi Binh Nhất Xiêm, người em đi theo săn sóc tôi, chú Xiêm lôi trong bọc nylon ra bộ đồ trận ẩm ướt hôi rình! Túi áo trái bị miểng mìn xé rách, lá thư và hình trong túi cũng bị rách! Trong bọc nylon gói lá thư còn có một miểng kim loại lớn hơn đốt ngón tay út cuộn trong những miếng giấy vụn.
Tôi hiểu ngay điều may mắn kỳ diệu đã đến với tôi, lá thư chưa đọc, bọc trong nhiều lớp nylon, tấm hình và những tờ giấy “pelure” tuy mềm nhưng đủ sức giữ miểng kim loại ở lại trong túi áo. Nếu không có lá thư và hình làm “lá chắn” thì miểng kim loại đó đã chui vào tim tôi! Tôi đã nằm trong tủ lạnh ở nhà xác nào đó rồi! Tay run run cầm tấm hình bị xé rách và miểng đạn, tôi thều thào nói với Th..:
– Thư và hình của em đã bị miểng đạn xé nát, nhưng cũng chính nó đã cứu anh khỏi tay thần chết, nay anh tặng em miểng đạn này để làm kỷ niệm…
Vừa nghe tôi kể tới đó thì con gái lau nước mắt, cười ré lên rồi nói:
– Lãng mạn, lãng mạn: “Khi em sang sông, anh tặng em viên đạn đồng để làm kỷ niệm” Thế rồi cô Th… thấy tương lai của bố mờ mịt quá, bố lê lết trên đôi nạng gỗ nên cô ấy sang sông. Rồi bố được mẹ con mang về nuôi có phải không?
Nghe con cười và chọc quê bố, mẹ cháu cũng vui lây hát nho nhỏ:
– Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về không làm dang dở đời em.
Lúc này thì trên TV, lá thư tình của nhà văn Huỳnh Văn Phú đã sang trang. Mẹ toan đi ngủ thì con gái cầm tay mẹ kéo lại rồi quay qua điều tra bố thêm. Cháu có vẻ như ghen thay cho mẹ.
– Thế cô Th…, người bố yêu ngày xưa ấy bây giờ ở đâu, có bao giờ bố gặp lại bà ấy chưa?
– Gặp thường xuyên, bà ta tuy có chồng có con nhưng vẫn còn đẹp lắm. Bố và bà ta vẫn thỉnh thoảng cùng nhau coi lại tấm hình và lá thư tình ngày xưa bị xé rách đó.
Con gái tôi ngạc nhiên tròn xoe đôi mắt:
– Thôi nghe bố, bố đừng có lạng quạng với bà ấy mà có ngày cả bố lẫn con bị bỏ đói, hay phải ăn food-to-go. Nhưng mà bố này, bữa nào bố mượn lại bà ta tấm hình đó đem về đây cho con xem bà ta có đẹp hơn mẹ con không mà bố dám liều mạng.
– Nếu con muốn coi tấm hình đó thì hỏi mẹ, mẹ đang giữ.
Nghe tôi nói vậy bà già mỉm cười, còn con gái thì nũng nịu với bố:
– Nãy giờ con tưởng bố kể chuyện tình éo le của bố, hóa ra cô Th… chính là cô Thúy mẹ con. Cám ơn mẹ, cám ơn bố./.