VUI BUỒN TRONG NGHỀ NGHIỆP
Trần Văn Nam
(Trích: Trần Văn Nam 80 năm cuộc đời)
Cuộc đời hành nghề y sĩ của tôi bắt đầu vào năm đầu 1968 khi tôi đang học năm thứ 6 đang làm nội trú tại bệnh viện Bình Dân. Vì thiếu bác sĩ điều trị nên Sở Y Tế Đô Thành mỗi năm đều có một số ngân khoản để mướn các sinh viên năm thứ 6 làm y sĩ điều trị tại các chẩn y viện thuộc sở.
Mỗi sáng, chúng tôi phải đến các chẩn y viện khám bệnh từ 7 giờ đến 9 giờ, và mỗi tuần phải trực một lần. Tôi được phân chia làm việc tại Chẩn y viện Chánh Hưng bên kia cầu chữ Y. Chẩn y viện nầy thuộc Y Viện Xóm Củi do BS Lưu Đức Thụ (nguyên Y Sĩ Trung Tá) làm y sĩ trưởng và trực tại y viện Phú Lâm (gần trường Mạc Đĩnh Chi) và y sĩ trưởng nơi đây là BS Nguyễn Hữu Thư (nguyên chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa). Tất cả chúng tôi đều được trực thuộc thẩm quyền giám sát của BS Nguyễn Đình Mão, Chánh sự vụ Sở Y Tế.
Tôi còn nhớ là tôi được một sự vụ lệnh từ BS Đại Tá Đô Trưởng Văn Văn Của để đi làm và có thẻ nhân viên của Sở Y Tế Đô Thành. Chúng tôi còn được hưởng lương 4000 đồng mỗi tháng. Chúng tôi làm được một năm tại đây và cuối năm 1968, tất cả đều nghỉ việc để nhập ngũ.
Riêng tôi, được tiếp tục làm việc tại bệnh viện Bình Dân, khu Ngoài Da của GS Nguyễn Văn Út, mỗi buổi sáng trong chương trình Y Sĩ Thường Trú và mỗi buổi chiều tôi vào Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Hồng Bàng, phụ trách chỉ dẫn cho các sinh viên y khoa thực tập thuộc năm thứ 3. Đến đây, niên khóa 1969-70, tôi còn nhớ, vì các giáo sư quá bận, anh Lê Tài Sinh bận khám bệnh phòng mạch tư vào buổi sáng, nên GS Nguyễn Huy Can và GS Đào Hữu Anh đã cho tôi tạm thay anh Lê Tài Sinh giảng dạy thực tập cho sinh viên năm thứ 2, trong đó tôi có nhớ tên một người là Huỳnh Minh Châu, hiện đang hành nghề bác sĩ tại San Jose, California.
Sau khi hết làm tại Chẩn y viện Chánh Hưng, tôi lại được may mắn làm việc tại Bệnh viện Phước Thiện (Phước Kiến) mà giám đốc là BS Lương Phán, một bác sĩ đầy kinh nghiệm và lịch duyệt. Anh giao cho tôi khám tổng quát và đặc trách khám các bệnh ngoài da. Một số người Hoa nhập viện ở đây mắc bệnh Hansen và không có bác sĩ chuyên môn nào chịu điều trị cả. Tôi phải cho xuất viện và điều trị ngoại trú. Anh Phán đã viết vài cuốn sách về y khoa “thường thức” rất hay. Nhờ làm việc với anh, sau nầy, tôi đã viết 6 cuốn sách về y khoa tổng quát, sản khoa, y khoa phong ngừa. Tôi hy vọng sẽ viết thêm vài cuốn nữa.
Cuộc đời của tôi đang “lên hương” thì bỗng có một tin buồn xảy đến: chúng tôi không được hoãn dịch và được động viên vào khóa 12 Trưng Tập.
Lúc đó, cuối năm 1969, trường Đại Học Y Khoa Saigon lại xảy ra một biến cố mới: một số sinh viên biểu tình chống giáo sư khoa trưởng Phạm Tấn Tước. Hội Đồng Khoa đã đề nghị bãi nhiệm GS Phạm Tấn Tước vì nhiều vấn đề. Vì bận họp lu bù nên Hội Đồng Khoa không còn thì giờ để cứu xét về những trường hợp được đề nghị vào làm giảng nghiệm viên nên tôi phải nhập ngũ, chỉ có một mình Nghiêm Đạo Đại bị tai nạn gãy chân nên được giữ lại trường, khu giải phẫu. Nhờ vậy, sau nầy Nghiêm Đạo Đại được ở lại tiếp tục chương trình học vấn chuyên khoa, được vào ban giảng huấn và trở thành một bác sĩ nổi danh ở Việt Nam lúc đó và cả ở ngoại quốc sau nầy. Đầu tháng 4 năm 1970, Hội Đồng Khoa có một phiên họp để xét và tuyển chọn 3 người gồm tôi, Nghiêm Đạo Đại và Nguyễn Đan Quế vào làm giảng nghiệm viên. Nhưng tôi thì đã nhập ngũ rồi!
Tôi đã trình diện vào thụ huấn Khóa 12 Trưng Tập tại Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức (về phần quân sự), sau đó về trường Quân Y học về hành chánh, tài chánh, kỹ thuật quân y và mãn khóa ra trường. Cùng trình diện với tôi có Trương Văn Thịnh, hiện nay đang ở tại San Jose.
Vì có ước vọng đi về ngành giảng huấn, tôi đã cố gắng học hành và đạt điểm cao để được nhận vào làm Nội Trú Ủy Nhiệm, Y Sĩ Thường Trú. Tôi đã được xếp hạng nhất cùng với một bác sĩ tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Huế. Khóa Trưng Tập 12 gồm khoảng 100 người gồm các bác sĩ tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Saigon và Đại Học Y Khoa Huế.
Tôi cùng anh bạn Y Khoa Huế được ưu tiên chọn nhiệm sở, và tôi đã chọn Hải Quân. Tôi được bổ nhiệm làm y sĩ trưởng Phòng Quân Y của Bộ Tư Lệnh Đặc Nhiệm Trung Ương đóng tại căn cứ Cát Lái, bên kia sông Saigon và kiêm luôn chức vụ y sĩ trưởng Bệnh Xá Hải Quân Cát Lái. Cát Lái thuộc quận Thủ Đức, thuộc thủ đô Saigon, nằm bên kia Thủ Thiêm, cách Saigon độ 10 dặm. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đang bành trướng mạnh vì cần đáp ứng nhu cầu chiến cuộc gia tăng, cần nhiều y sĩ nên ngoài tôi còn có 6 anh khác như Văn Sơn Trường, Nguyễn Tấn Hiển…
Tôi đã ở chức vụ nầy khoảng 3 năm và theo cấp số thì chức vụ nầy phải là y sĩ Thiếu Tá nên tôi được thăng cấp Đại Úy rất sớm vào tháng 3 năm 1972…
Sau khi thăng Y Sĩ Đại Úy, tôi được thuyên chuyển về Bệnh Viện Hải Quân (Trung Ương) nằm ngay tại Bến Bạch Đằng, và giữ chức vụ Trưởng Phòng Khám Tổng Quát và Khám Ngoài Da. Vì lúc đó tại bệnh viện Hải Quân, các chuyên khoa khác đã đầy đủ chỉ còn thiếu chuyên khoa Ngoài Da. Do đề nghị của BS Trịnh Quốc Hưng (hiện ở San Jose) với BS Nguyễn Thanh Trước, y sĩ trưởng Bệnh Viện Hải Quân, với câu nói tếu “cho Nam hắn về đó để kể chuyên vui cho anh em nghe”. Thế là tôi được đề nghị lên bác sĩ trưởng khối Đặng Tất Khiêm và tôi được đưa ngay về Bệnh Viện Hải Quân, Khu Ngoài Da.
Đầu năm 1975, tôi đã được BS Khiêm cho đi tu nghiệp về Dermatology tại Bệnh Viện Hải Quân Hoa Kỳ ở San Diego, nhưng tôi chuẩn bị lên đường thì xảy ra biến cố 30-4, 1975. Với các tàu Hải Quân ngay trước mặt, việc đi nước ngoài của tôi thật dễ dàng, thế mà tôi “vì ngây thơ” nghĩ rằng mình chỉ là bác sĩ không đến nỗi nào, tôi đã ở lại, không ngờ cũng bị đi “học tập cải tạo”. Và định mệnh éo le nầy đã làm cuộc đời tôi thay đổi rất nhiều.
Sau khi tù cải tạo về (đầu năm 1977), nhờ chuyên khoa da liễu, tôi lại được may mắn làm việc tại Trạm Da Liễu của thành phố (Bệnh viện Thanh Quan) và rồi tại Bệnh viện Da Liễu (Trung Tâm Bài Trừ Hoa Liễu cũ, thời Việt Nam Cộng Hòa). Về sau, Bệnh viện Da Liễu (chiếm toàn bộ khu vực Y Viện Thanh Quan và Trung Tâm Bài Trừ Hoa Liễu cũ) là cơ quan duy nhất trị bệnh hoa liễu cho toàn thành phố. Tại đây, tôi gặp lại BS Nguyễn Thứ (nguyên giám đốc Trung Tâm Bài Trừ Hoa Liễu, đã đề cập đến ở trên) và BS Dương Duy Sử. Sau đó BS Sử giới thiệu tôi với bác sĩ trưởng Trung Tâm Da Liễu và tôi được giao cho tôi khám trị bệnh và kiêm luôn khoa xét nghiệm (chữ dùng sau năm 1975) cơ thể bệnh lý nhưng lúc đó không có dụng cụ và phương tiện. Cho đến khi sáp nhập khu Da Liễu của GS Nguyễn Văn Út vào bệnh viện Da Liễu, thì BS Vũ Khắc Thảo đảm nhiệm chức vụ nầy.
Rồi thì dần dần gặp lại các bác sĩ da liễu cũ như Hoàng Giang (chuyên khoa cùi, bệnh viện Chợ Quán), Vũ Ngọc Bội (Tổng Y Viện Cộng Hòa), Hoàng Xuân Tài (Bệnh viện Trần Ngọc Minh, trong trường Quân Y cũ). Rồi bộ môn Da Liễu của GS Nguyễn Văn Út cũng dọn về đây. Được gặp nhau, thầy Út và tôi đều cảm thấy vui. Ngoài thầy Út, bác sĩ Vũ Khắc Thảo, tôi còn gặp 2 bác sĩ đàn em mới ra trường là Ngô Ngọc Tuyên (hiện ở San Jose), Lý Hữu Đức.
Như trên đã viết, sau khi bị đi “học tập cải tạo” về, tôi đã gặp lại GS Út, thầy cũng vui vẻ nhận tôi làm việc chung với ông, nhưng vì trường Đại Học Y Khoa thuộc Hà Nội nên thủ tục giấy tờ rất khó khăn, phải chuyển giấy tờ ra Hà Nội mà tôi lại là sĩ quan tù cải tạo nữa. Cho nên tôi gấp rút nộp đơn tại sở Y Tế Thành Phố để được chấp thuận cho làm việc, để được ở tại Sài Gòn.
Cuối năm 1979, lại có anh Trương Đông (Tổng Y Viện Cộng Hòa chuyên khoa Hansen) và BSVăn Văn Của (nguyên Đô Trưởng thời Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ khoảng 1965-68) vào làm việc với chúng tôi tại bệnh viện Da Liễu.
Sau nầy, khi các anh em lần lượt ra đi, thoát cũi sổ lồng thì chỉ còn GS Út, BS Văn Văn Của, tôi và vài anh em khác. Đến cuối năm 1979, vì nhu cầu cần nhiều bác sĩ, nên “nhà nước” cho phép các bác sĩ có quyền mở phòng mạch tư ngoài giờ làm việc hành chánh với giá biểu ấn định là 15 tới 20 đồng mỗi lần khám.
Tôi may mắn được tiếng là bác sĩ “mát tay”, mỗi ngày bệnh nhân đến ngồi chật cả phòng khám. Sau khi khám hàng trăm bệnh nhân tại bệnh viện công, về nhà ăn uống qua loa, rồi làm việc ở phòng mạch từ 4 giờ chiều tại nhà. Vì số bệnh nhân quá đông, trên 60 người, nên tôi phải cho phát số đến số 60. Thế mà có hôm tôi phải khám đến cả trăm bệnh nhân. Ngày ấy, có lần dịch ghẻ ngứa (gale) lan tràn từ bắc chí nam, và có lần lại có dịch lậu mủ nên người bệnh rất nhiều, ùn ùn kéo đến phòng mạch tôi khám bệnh. Nói chung, thì cuộc đời tôi, trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1983, 4 năm đó tôi sống dễ chịu một chút, vì ngoài đồng lương ở bệnh viện, tôi còn kiếm được “chút ít” để chuẩn bị đi Mỹ.
Thuốc men lúc đó, có được là do một số thuốc từ ngoại quốc gởi về, còn thuốc pha chế thì tôi còn nhờ một cô làm việc tại pharmacy trên đường Tự Do pha chế dùm. Cô nầy làm việc cẩn thận và vui vẻ, nên về mặt nầy tôi có đủ thuốc men để điều trị. Về xét nghiệm, có một anh nguyên là xét nghiệm viên thuộc Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau có làm cho phòng mạch bác sĩ Pháp Crozafon, mở một phòng xét nghiệm trước cửa viện Pasteur. Tôi thường nhờ anh làm những xét nghiệm cần thiết để định bệnh. Nhờ những xét nghiệm nầy, nên việc định bệnh của tôi được nhiều dễ dàng, chữa bệnh thành công và giúp tăng thêm uy tín: bác sĩ “mát tay”. Nhờ đó nên nhiều “cán bộ” cao cấp cũng đến nhờ tôi chữa bệnh. Phòng mạch của tôi ở trong xóm mà đông vui như ngoài phố lớn. Nhiều lần tôi phải chích trụ sinh cho các bệnh nhân, có lần đang chích thì bị cúp điện, tôi phải nhờ cậu con trai cầm đèn cầy soi cho sáng để chích. Thế mà cũng xong và bệnh nhân càng đông thêm.
Thế rồi, cuối năm 1983, tôi được sang Mỹ đến Hawaii… đoàn tụ gia đình. Cuộc đời tôi lại đi về một hướng khác.
Đời hành nghề của tôi, kể ra cũng có nhiều chuyện vui:
Tôi may mắn được làm công chức (công nhân viên) ba chế độ: chế độ Việt Nam Cộng Hòa (bệnh viện Bình Dân, sở Y Tế Đô Thành), chế độ Cộng Sản sau 75, sang Hoa Kỳ tôi được làm công chức chánh ngạch tại Santa Clara County.
Ở bệnh viện Bình Dân, là bệnh viện chuyên khoa duy nhất chữa bệnh ngoài da nên có rất nhiều bệnh nhân ngoài da kinh niên.
Lúc làm việc ở Chẩn y viện Chánh Hưng, tôi khám tổng quát cho dân chúng nghèo, đa phần là những bệnh nhẹ đến khám được cấp thuốc miễn phí.
Ở quân đội, khi ở Cát Lái, tôi làm tham mưu cho bộ Tư Lệnh Hải quân để cấp phát thuốc men cho các đơn vị trực thuộc, lo về y khoa phòng ngừa, khám bệnh và lo quân y dân sự vụ…
Ở bệnh viện Hải Quân, tôi phải khám tổng quát cho sĩ quan, hạ sĩ quan, khám nhập ngũ, (có lúc tôi phải lên Trung Tâm Y Khoa Không Quân khám chung với họ), khám ngoài da hoa liễu. Khi các tàu về bến Bạch Đằng thì một số quân nhân thường xa nhà lâu ngày, hay nhậu nhẹt, chơi bời có đến gặp tôi. Vì khám sĩ quan, nên tôi quen biết các hạm trưởng, thế mà năm 1975, tôi đã ở lại. Đây cũng là số phận!
Trước năm 1975, khoa ngoài da và hoa liễu ít được quan tâm như những khoa khác, bệnh nhân thường hay giấu diếm vì xấu hổ và thường hay đến y xá để chích thuốc. Sau 1975, dân chúng mới thấy tầm quan trọng của bệnh nầy vì dịch bệnh lại xảy ra, như là dịch bệnh ghẻ ngứa, dịch bệnh lậu vì giang mai. Trước 1975, ngoài những bệnh viện công chỉ có một số bác sĩ tư chữa bệnh nầy.
Tại Mỹ môn da liễu là môn quan trọng, và các bác sĩ cũng được tuyển chọn khó khăn để vào môn y khoa nầy. Các bác sĩ da liễu bên Mỹ có lợi tức rất khá.
Khi ở Việt Nam, vì ở trong quân đội, ít thì giờ nên lợi tức chúng tôi cũng rất khiêm nhường.
Hồi tưởng lại, trong những năm hành nghề y sĩ, trong dân y, quân y, bệnh viện da liễu… tôi đã phục vụ đồng bào nghèo, các tầng lớp quân, cán, chính, với một tinh thần phục vụ hăng say nhiệt huyết.
Và hơn thế nữa, tôi đã hãnh diện phục vụ trong ngành y tế của Việt Nam.
HÌNH ẢNH










