Về mái nhà xưa
Phạm Văn Đình
(Nguồn: Đặc san 50 năm Petrus Ký 1973 – 2023)
Paris, France
Mùa Thu nơi tôi ở, miền Bắc Texas, lạ hơn những nơi khác ở chỗ trời mát mẻ, khô ráo, bầu trời xanh biếc, không một áng mây, và nắng thì vàng trong, nhẹ vương lên lưng đồi, như bài hát Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn. Nói thế không phải để khoe mà để nói rằng – Mùa Thu ở đây thiếu mưa giăng lá đổ, thiếu sương mù buổi sương mai, thiếu khói lam chiều lúc hoàng hôn, rồi thì những hôm thật hiếm hoi có mưa thu buồn rả rích, thì lại thiếu bóng dáng của những người bạn tri kỷ! Thế mới biết, người ta không thể vui một mình, có thể buồn một mình, nhưng vui buồn có nhau thì vẫn hơn.
Cách đây khoảng ba tháng, tôi có dịp ghé Paris, vào lúc mùa Thu bắt đầu trở lại. Hôm đó, trời mưa tầm tã, mưa tới mức bạn tôi nói rằng – Tao ở đây đã tròn nửa thế kỷ, nếu nhớ không lầm thì chưa bao giờ Paris lại mưa dầm dề như thế!
Nhưng đó đích thực là một kỷ niệm đẹp. Bạn tôi vượt đường xa để đón tôi ở Chales De Gaule Airport, đường trơn ớt nguy hiểm, nhưng bạn tôi không màng, nói theo ngôn ngữ Phú Lang Sa thì tạm dịch là “Oui, je le sais mais je m’en fous!”
Bữa cơm trưa với vợ chồng bạn tôi và những người bạn thân khác rất thân tình, trong một khung cảnh tuyệt đẹp với mưa Thu rơi tí tách trên mái hiên nhà, bao quanh bởi một mảnh vườn nho nhỏ với một màu xanh rất riêng tư, không gian cô đọng vì chỉ có vợ chồng tôi với những người bạn thân, và tôi chợt nhận ra rằng – đây là một hạnh phúc trong những niếm hạnh phúc.
Sở dĩ tôi có cảm giác như thế bởi vì trong những năm Petrus, nơi mà tôi đóng đô nhiều nhất chính là nhà của Khánh, của Truyển, và của Qúy Bình. Và cũng may mắn cho tôi là Ba Mẹ của những người bạn ấy coi tôi như con, nếu đến vào giờ cơm thì lúc nào cũng được mời dùng bữa, và đó là những lời mời rất chân tình, tôi không bao giờ từ chối và đã ăn uống rất tự nhiên như một thành viên trong gia đình. Ba Mẹ của Truyển và Bình gọi tôi bằng cháu, riêng Mẹ của Khánh thì gọi tôi bằng “Anh”, đây là một cách gọi của người Bắc với con trai, vừa lịch sự vừa thân tình. Bà Cụ có lần bảo tôi – “Tôi rất mừng vì nó thân với Anh. Nó ham chơi còn Anh thì ham học. May ra nhờ vậy mà nó cũng sẽ đỗ đạt nên người”.
Chính xác! Đúng là không ai biết con bằng Cha Mẹ, nhất là người Mẹ của mình. Tuy nhiên, bạn tôi đỗ đạt không phải tại vì tôi ham học, mà vì nó là một đứa rất thông minh. Người ta học mười nó chỉ học một, nếu chịu khó học đến “cấp năm” (level 5) thôi thì có lẽ giờ này đã được giải Nobel 🙂
Đúng hôm Bà Cụ của Khánh mất, tôi có một giấc mơ kỳ lạ – tôi ngồi trên một cái xích đu, sau lưng là một hàng rào bằng những cây mọc tự nhiên mà tôi không rõ là loại cây gì. Chợt có một bóng người đi xăm xăm về phía tôi từ cuối chân trời, người đó đi nhanh lắm, chỉ thoáng một cái là đã thấy dáng của một người đàn bà đầu chít khăn mỏ quạ (trang phục truyền thống của người Bắc), rồi thì rõ hơn… rõ hơn … nhưng sau cùng thì chỉ thấy hình dáng của mặt người chứ không nhìn thấy mặt người, tôi đã sợ tới mức phải kêu thét lên và thức giấc lúc nửa đêm!
Sáng hôm sau, tôi được tin Mẹ của Khánh đã từ giã cõi đời. Một người Em của Khánh nói với tôi – Mẹ của Em đi chào Anh đó!
Và tôi đã khóc thương Bà!
Tôi không nhớ Bình và tôi quen nhau như thế nào nhưng cái nôi của tình bạn khởi đầu từ lớp Thất hai ở Trường Petrus, tính đến nay như vậy là đã hơn năm mươi bảy (57) năm. Trong những năm đầu Petrus, tôi với Bình có thể xem như là hàng xóm , vì nhà của hai đứa rất gần nhau – gia đình của Bình nằm trong Trại Công Binh Đào Duy Từ, ở trên đường Nguyễn Tri Phương nối dài, phía bên kia cổng trại là Nhà Thờ Đồng Tiến, cuối nhà thờ là Trường Trung Học Đồng Tiến, nơi mà các anh giai Petrus của niên khóa 1966-1973 thi Tú Tài một vào năm 1972. Gia đình tôi thì ở cạnh Nhà Thờ Đồng Tiến, nên chỉ cần băng qua khuôn viên Nhà Thờ là đã đến cổng trại Đào Duy Từ, từ đó đi bộ thêm vài trăm thước là đến nhà của Bình. Dù vậy, lâu lâu tôi mới ghé thăm, mãi về sau này khi nhà Bình dọn về đường Trần Bình Trọng (rất gần Trường Petrus và sân vận động Lam Sơn) thì tôi mới đến thường, nhất là trong hai năm cuối thời Trung Học.
Khoảng cuối năm 73 thì Bình đi du học ở bên Pháp, nhưng đến đầu năm 1976 thì sang Mỹ đoàn tụ với gia đình ở vùng Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Thời đó, phương tiện truyền thông không được như bây giờ, cách duy nhất để liên lạc với nhau là qua thư từ hay bằng điện hoại viễn liên. Thư thì chỉ cần dán lên phong bì một con tem là xong, mà tem thì đầy dẫy, bởi vì ông anh giai nào cũng có bồ phương xa, nhưng … viết cho bồ thì tràng giang đại hải, còn viết cho bạn trai thì tự dưng – nó kỳ kỳ làm sao, chả lẽ mở đầu lá thư bằng “Bình thân mến” hay là “Khánh yêu dấu” … thì một là cải lương, hai là đồng tính, cả hai cùng mang niềm “mắc cở” như nhau … nên … gọi điện thoại cho chắc. Nhưng gọi viễn liên thời đó cũng khá đắt nên lâu lâu mới thăm hỏi nhau một lần, mà hình như lần nào cũng ngắn ngủi! Xin miễn nhắc đến những “giờ” các anh giai tỉ tê với bồ ở phương xa 🙂
Nhưng còn duyên thì tương ngộ, sau cùng thì chúng tôi cũng gặp lại nhau, đó là cuối mùa Hè năm 1977.
Từ chỗ tôi đến Bình khoảng 12 giờ xe hơi nếu lái nhanh, từ 13 đến 14 tiếng nếu đi đúng vận tốc giới hạn vào thời điểm đó – tối đa là 55 dặm một giờ (khoảng 90 km), một vận tốc mà có thể làm người lái phát điên trên đường xa vạn lý, và tôi đã lái chiếc xe “cóc vàng” đi thăm bạn. Gọi là xe cóc vì hình dáng chiếc xe Volkswagen Beetle chả khác chi một con cóc, và khoảng 70 phần trăm của chiếc xe có màu vàng nên gọi là “cóc vàng”, chính xác hơn thì phải gọi là “cóc tam thể” vì xe có ba (3) màu – Xanh, Đỏ, Vàng. Mà thật thế, tuy thân xe màu vàng nhưng cánh cửa xe bên phía hành khách (passenger side) có màu đỏ tươi, và cái nắp che máy xe thì màu xanh lá cây.
Tôi vẫn còn nhớ khi đến biên giới của Hoa Kỳ, cảnh sát biên phòng đi qua đi lại quan sát chiếc xe, có lẽ bởi vì rất hiếm khi họ thấy một cái xe dị hợm như thế, nhưng khi biết tôi chỉ một là sinh viên nghèo sang Mỹ thăm bạn, họ gật gù thông cảm và chúc tôi lên đường bình an, có nghĩa là “tôi chúc Anh là xe sẽ không bị hỏng giữa đường để Anh có thể đi đến nơi về đến chốn”.
Xin có vài dòng giải thích tại sao xe lại có ba màu chói lọi như vậy.
Thời du học sinh ở xứ người, vừa đi làm vừa đi học là chuyện bình thường. Với những người 38 Đặc San 50 Năm PK đi học xa, và đi làm cũng xa thì bắt buộc phải có một cái xe. Dĩ nhiên, nếu chỉ quanh quẩn trong những thành phố lớn như Montreal, Toronto … thì có thể dùng những phương tiện chuyên chở công cộng, nhưng tôi học ở một tỉnh nhỏ miền núi, cứ học một khóa thì lại phải đi làm một khóa ở một thành phố nhỏ khác, vì thế bắt buộc phải có một cái xe, và “xe cóc” là một trong vài loại xe rẻ nhất ở Gia Nã Đại, nhất là xe cũ.
Xe cóc rẻ bởi vì máy của nó làm nguội bằng gió (thay vì bằng nước như những xe hơi khác), chính vì thế mà mùa đông thì trong xe không ấm và mùa hè thì nóng toát mồ hôi. Nhưng sinh viên nghèo thì có được một xe cóc là vui lắm rồi, xin đừng nhắc đến chuyện phải mua bảo hiểm, vì làm gì có tiền để mua. Rồi một hôm, xe cóc lún tuyết giữa đường, đang tìm cách thoát khỏi vũng lầy của tuyết thì có một ông xớn xa xớn xác lùi xe của ông ta từ garage để đụng vào cánh cửa bên hành khách của xe “cóc vàng” một cái rầm. Lỗi rành rành nên ông ta xin lỗi rối rít và dúi vào tay vài trăm đô để sửa xe, bù lại tôi sẽ không gọi cảnh sát để làm biên bản.
Sinh viên nghèo, thương người như thương thân … nên OK. Mấy tuần sau, người sinh viên đó ra nghĩa địa xe, tìm được một cánh cửa màu đỏ, giá rẻ bèo nên mua về thay, từ buổi đó, xe “cóc vàng” có hai màu – vàng trước, đỏ sau!
Chuyện chưa ngừng ở đó bởi vì ít lâu sau, bối cảnh vẫn là mùa đông Gia Nã Đại, xe cóc hai màu đang đợi đèn đỏ ở cuối dốc thì có một cái xe lộng lẫy khác ở trên đầu dốc từ từ trườn xuống, người tài xế cố tránh xe cóc hai màu nhưng không được vì đường đã bị đông đá, thế là chiếc xe lộng lẫy đụng vào đít xe cóc hai màu một cái rầm, lại xin lỗi rối rít, lại được dúi vào tay vài trăm đô, lại ra nghĩa địa xe tìm cái nắp che máy, lần này thì tìm được một cái nắp màu xanh lá cây tuyệt đẹp, người ta gọi đó là màu “British Racing Green”, và “cóc hai màu” nay đã thành “cóc tam thể”.
Trở lại chuyện thăm Bình vào cuối hè năm ấy – 1977, người mở cửa đón tôi không phải là Bình (vì lúc đó Bình không có nhà) nhưng là Bà Cụ. Bà nhìn tôi rưng rưng nước mắt, và tôi cũng thế. Đây không phải là tha hương ngộ cố tri mà còn hơn cả ngàn lần, bởi vì Bà Cụ lúc nào cũng xem tôi như một người con trong gia đình. Tuy chưa bao giờ gọi Bà là Mẹ nhưng tình cảm của tôi với Bà cũng ngang ngửa như thế, và tôi đã nhờ Ba Mẹ của Bình đại diện cho gia đình tôi trong ngày thành hôn của tôi.
Hôm nay, trong một ngày cuối Thu tuyệt đẹp tôi nhớ đến Bà, một người đàn bà tuyệt vời, người mà lúc nào cũng coi tôi như con, đã nhắc với tôi rằng – “Đây cũng là nhà của cháu, và cháu cứ trở về đây bất cứ lúc nào.”
Và tôi đã trở về mái nhà xưa đó nhiều lần. Mỗi lần nhớ lại, mắt tôi cay.
Phạm Văn Đình

