Tôi, những năm ở lớp 1,2,3, (tiếng gọi lúc đó, 194X… là lớp Năm, Tư, Ba) vì gia đình quá nghèo, cha tôi phải dọn nhà tới lui nhiều lần, xách con di chuyển từ trường nầy sang trường khác không biết bao nhiêu bận, cho nên thằng bé lên tới cuối lớp Nhứt để thi vô Đệ Thất thì đã lớn xầm xầm, 14 tuổi rồi! (1954).

Hai năm lớp Nhì, lớp Nhứt, tôi được học ổn định tại trường Trương Minh Ký, ở góc đường Galliéni và Boresse Quận Nhì Sàigòn. Trường nầy nay là trường Tiểu học Nguyễn Thái Học. Ngày trước 1951, vì cha tôi đã mất sớm, mẹ tôi một mình nuôi năm đứa con không nổi, cô Năm tôi mang hai cháu – tôi và ông anh mà sau nầy đậu vô trường Petrus Ký trước tôi một niên khóa và về sau thành Giáo sư trường Quốc Gia Nghĩa Tử cho tới năm 1975 – về nuôi ở cái góc chợ Cầu Ông Lãnh, cả nhóm rất nhiều người của hai thế hệ túm húm tùm nhum trong một phần đất rất nhỏ của khu kêu là Chợ Cháy phụ giúp cô coi chuyện bán buôn những thứ lỉnh kỉnh như xà bông, lược, kem đánh răng, bao bồng bột, móc áo… ngoài giờ đi học.

Tôi không còn nhớ thầy dạy mình ở lớp Nhì, nhớ lờ mờ là vợ ông là cô giáo trường Nữ Tiểu Học Tôn Thọ Tường, phía bên kia đường Galliéni đối diện với trường Trương Minh Ký lúc đó. Chỉ nhớ thầy dạy mình lớp Nhứt và nhớ ơn thầy nhiều. Đó là thầy Đại mà học trò thường kêu là ‘ông Đại mô-tô’ vì nội trường không ai đi mô-tô hết. Cái mô-tô Harley bự kềnh của thầy làm ngạc nhiên cả trường kể cả các thầy giáo, cô giáo khác. Các thầy khác thường đi xe đạp hay mobylette, các cô thì đi bộ nếu nhà gần, đi xích lô nếu nhà xa. Thầy Đại phụ trách luôn chuyện tập thể dục cho chúng tôi và ông bắt học học sinh hít thở cho thiệt sâu để lớn phổi sau nầy khỏe mạnh. Cuối năm học, trước khi bãi trường để chúng tôi thi vô Đệ Thất thầy nhắc tới nhắc lui là ‘bây phải làm bài sao cho có vẻ đặc biệt vì người ta chấm cả ngàn bài, bài nào cũng giống nhau thì nhàm chán và mệt mỏi tới buồn ngủ luôn, tới chừng gặp một bài hơi khác khác là họ cảm thấy thoải mái và sẽ sẵn sàng cho điểm lớn. Mà bây biết không, chừng 1, 2 điểm trội hơn thì bây có thể nhảy lên trên mấy trăm đứa. Trúng bài toán đố nữa thì kể như đậu chắc’. Tôi mang trong lòng bí kíp đó nên khi đi thi tôi tìm cách vẽ hình cho những Câu Hỏi Thường Thức, nhớ đâu như là ‘bình thông nhau’ tôi vẽ hai ba hình mỗi hình một chi tiết, kể như đánh cá với số phận vì nếu gặp giám khảo khó sẽ bị coi là làm dấu đặc biệt và bài sẽ bị loại. May quá, gặp giám khảo dễ và phóng khoáng cho nên tôi được… đậu. Tôi còn nhớ mình đậu hạng 118 và tôi thiệt sự nhớ ơn thầy Đại của trường Trương Minh Ký đã trao cho mình bí kíp kia. Còn nhớ như in là thầy Đại nói, trong lớp nầy may ra chỉ có thằng Tùng là học trò ở lại lớp nầy năm ngoái đậu được, còn thằng Sâm thì chó dắt mới đậu vì nó làm bài lụp chụp, không bao giờ dò lại. Ông ngó thẳng vô tôi nói: Nên cẩn thận nha mấy con, dò đi dò lợi cho tới hết giờ mới nạp bài làm vì nạp rồi khi trực nhớ lợi là còn chỗ sai hay thiếu thì không thể lấy bài lợi được. Tôi biết ông nói chung chung nhưng là dặn cho riêng tôi thì nhiều. Và ngoài bí kíp trên tôi còn thêm cẩm nang là dò tới dò lui bài của mình cho tới phút chót trong kỳ thi.

Vô trường Petrus Ký tôi được xếp lớp Đệ Thất G, chung với anh Trần Tuấn Anh vốn năm đó thi tuyển vô đậu đầu, tôi nghĩ là mình sẽ khó học lại anh… nhớ lại càng cám ơn thầy Đại đã truyền bí kíp cho học trò nhà quê là chúng tôi vốn con nhà nghèo. Bây giờ lớp G đó sau bảy mươi năm còn có vài ba người ở Mỹ như Châu Thành Tích – anh nầy sau cũng là giáo sư trường Petrus Ký từng sống ở Orange County. CA và nghe đâu gần đây đã về nghỉ dưỡng già ở quê mình bên Việt Nam, Lưu Hữu Lễ, Mai Thanh Truyết – TS Hóa Học Pháp hiện sinh sống ở Houston, TX, Nguyễn Hữu Trí, Hàn Minh Đức, anh Lưỡng, anh Nam… và chúng tôi vẫn còn giao tình thân mật như xưa mỗi khi gặp lại nhau. (Rất ít khi, vì sống rời rạc và mỗi người mỗi hoàn cảnh…)

Sẵn đây cũng nên nhắc lại để cám ơn một vị thầy khác là thầy Nguyễn Văn Phú, của trường Văn Lang, thầy cũng truyền bí kíp để thi dễ đậu:

– Xin 2, 3 tờ giấy nháp để khỏi lật qua lật lại mất thì giờ và mất công tìm kiếm phần mình đã viết.

– Với bài bình luận về văn chương hay luân lý thì nhớ câu thơ nào viết ra câu nấy sau nầy dùng được câu nào thì dùng để dẫn chứng, cố gắng cho xen vô hết trong bài làm những câu mình đã nhớ, đã ghi.

– Luôn luôn viết nhập đề và kết luận trước trên giấy nháp sau đó khi dùng cho bài thì mài dũa lại câu văn cho trơn tru, lưu loát.

Những bí kíp nầy tôi đã dùng cho tất cả những kỳ thi sau nầy từ các lớp Trung học cho tới những lớp Đại học, kể cả kỳ thi năm thứ nhứt Tiến Sĩ – kỳ thi độc nhứt của VNCH 1973.

Trở về nhớ ơn các thầy ở trường Petrus Ký.

Trước nhứt là thầy Nguyễn văn Thái dạy Anh văn chúng tôi năm Đệ Thất, ông nhấn mạnh trên sự quan trọng của việc phiên âm quốc tế và cách đọc tiếng Anh khi nhìn phiên âm quốc tế, thầy chỉ dẫn phương pháp phiên âm nầy một cách tận tình và rõ ràng. Hình như thầy có một ái nữ sinh sống ở Little Sài gòn và tôi đã chào chị ấy, nhắc là tôi là fan của thân phụ chị thì chị cười vui thân thiện.

Trường hợp cô Nguyễn thị Sâm. Cô dạy chúng tôi năm Đệ Thất, môn Việt văn. Tôi không nhớ mình học được gì từ cô nhưng nhớ câu nói của cô: Các em phải học viết chánh tả cho đúng vì khi lớn lên người ta sẽ đánh giá mình qua chuyện viết chánh tả đúng/sai… Sau nầy khi có dịp về Việt Nam, tôi ghé thăm cô vài ba lần ở cư xá ở phía sau trường Petrus Ký và cô rất cảm động khi nghe học trò cũ nhắc tới lời nhấn mạnh của cô ngày xưa. Cô Sâm có một bài về Thúy Vân mà nhiều sách về truyện Kiều đều đã đăng như là một bài độc đáo của một người nữ nhìn về thái độ sống của một nhơn vật nữ trong truyện Kiều rất lu mờ, đã sống trong cảnh lấy chồng hờ chờ ngày trả lại cho chị mình.

Thầy Trần Huệ dạy chúng tôi môn Vạn Vật, tôi mang ơn thầy ở cách đối xử thân mật mềm mỏng với học trò. Có lần một bạn cùng lớp ‘đánh bùa’ trong kỳ thi Lục Cá Nguyệt thầy nhẹ nhàng thâu bài của anh ấy, không la lối mắng mỏ gì, chỉ kêu anh ấy ngồi không chừng 20 phút rồi cho bắt đầu làm bài bằng tờ giấy mới. Cách đối xử nầy không làm mất tư cách và khiến ‘ phạm nhơn’ phải hổ thẹn. Sau nầy cả trăm lần gác thi ở nhiều địa phương, gặp nhiều trường hợp khó xử tôi đã lướt qua được vì sự mềm mỏng nhẹ nhàng đã học được từ thầy Trần Huệ. Bây giờ thầy đã trên chín chục và đang sống những ngày thảnh thơi cuối đời ở San Jose, CA xứ Mỹ…

Bà/cô Lâm thị Dung (dạy Sử Địa) mà sự nghiêm nghị của bà làm cho học trò cả lớp xanh mặt mỗi khi bà đưa cây viết dò theo sổ điểm danh để kêu họ trò lên trả bài. Bà nhắc tới nhắc lui rằng chỉ con sông trên bản đồ thì chỉ từ nguồn của nó ra tới biển thay vì chỉ từ biển trở vô. Quan trọng là cái nguồn của sông. Tôi chỉ còn nhớ bao nhiêu đó về bà. Nghe đâu như bà sau 75 sống và qua đời ở Canada.

Có một điều trao truyền đáng nhớ ơn nữa từ thầy nào mà tôi đã quên nghe được từ mấy chục thầy đã cho tôi kiến thức để thành người. Ông thầy đó kể chuyện rằng có một người lính Nhựt Bổn bị quân Pháp bắt và kết án tử hình. Ở trong tù chờ ngày bị xử án anh ta luôn đọc sách, cho tới lúc đoàn người thi hành án vô xà lim để dẫn ra pháp trường cũng thấy anh ta chúi đầu vô sách. Câu nói của ông thầy đó còn đọng lại trong đầu tôi: Những giây phút đọc sách là những khoảnh khắc quí giá của đời chúng ta. Phải tự mình tìm thời gian để mà đọc sách…

Còn nhiều điều tôi đã học được từ các thầy nầy nọ như thầy Trần Thượng Thủ (dạy môn Hóa Học, tôi không hân hạnh được thọ giáo với thầy, nhưng nghe anh tôi nói lại), thầy Phạm Văn Thới dạy Pháp Văn, thầy Ưng Thiều dạy Việt Văn, thầy Thẩm Túc (dạy Pháp Văn), thầy Lê Xuân Khoa (dạy Việt văn nhưng tôi không có học với thầy ở trường Petrus Ký mà học với thầy môn Triết học Ấn Độ ở trường Đại Học Văn Khoa Sài gòn sau nầy, hiện thầy Khoa còn sống ở miền Nam CA, tuổi cũng đâu tròm trèm một thế kỷ, thầy Nguyễn Thạch(dạy Toán), thầy Nguyễn Hữu Kế (dạy Toán)… xin được kể lại trong một dịp khác …

Mỗi người thầy/cô cho chúng ta những lời dạy dỗ như những muỗng đường thêm vô tách cà phê cuộc đời ta. Ly cà phê có ngon, ta có thích hay không tùy theo khẩu vị tiếp cận của mỗi người nhưng những muỗng đường đó chắc chắn là có góp phần làm thay đổi hương vị ly cà phê cuộc đời của mỗi học sinh chúng ta… Và chúng ta có bổn phận phải nhớ ơn các thầy đã cho những lời dạy dỗ có lợi để làm hành trang cho ta.

Những điều nho nhỏ mà tôi kêu là bí kíp trên chẳng khác nào bùa thần của tôn sư trao cho họ học trò Vân Tiên trước khi anh chàng xuống núi đi thi. Thương lắm học trò mới cho bùa thần để hộ thân:

         Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo bùa thần đem theo.
        Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an…

Xưa Vân Tiên đi thi thì đậu Trạng Nguyên, Tiến Sĩ, còn học trò ngày nay thì bước vào đời thực tế từ những tiếp nhận nho nhỏ mà mình tùy theo cơ duyên thủ đắc từ các thầy qua muôn ngàn lời giảng hay cách sống, cách xử thế của những vị nầy để dùng cho mình bước qua những bất trắc cuộc đời.

Nguyễn Văn Sâm

(Nguyên học sinh lớp Pétrus Ký niên khóa 1954-1957)
Victorville, CA. Tháng 07, 2024