TRƯỜNG PETRUS KÝ GIỮA THẬP NIÊN 50
Trần Văn Nam
(Trích: Trần Văn Nam 80 năm cuộc đời)
Tôi được vào học trường Petrus Ký vào mùa thu năm 1955, sau khi đậu bằng Tiểu học và sau khi trải qua một kỳ thi tuyển gay go vào tháng 7/1955. Đây là một kỳ thi tuyển quy mô rộng lớn với số thí sinh tham dự vào khoảng 4000 người, trường chỉ lấy có 350 học sinh mà thôi.
Tôi vẫn còn nhớ ngày khai giảng là ngày 26-9-1955. Tôi được xếp vào lớp Đệ Thất D, tính đến nay đã 67 năm rồi, mà ngày khai giang vẫn còn nhớ trong ký ức của tôi, giống như cảm nghĩ của nhà văn Thanh Tịnh “Mỗi năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nao những kỷ niệm của buổi tựu trường”.
Nhà tôi ở đường Hiền Vương, ngay ngả ba Duy Tân – Hiền Vương, trong ngõ hẻm trường La San Đức Minh, tôi đã theo học tiểu học tại trường nầy, tôi chỉ đi bộ vài bước là tới trường. Đây là lần đầu tiên, tôi phải đi bộ ở trường xa nhà, gần vùng Chợ Lớn. Mỗi ngày, ba tôi phải đèo tôi lên một chiếc xe mô-bi-lết để đến trường, vì tôi còn nhỏ và không có phương tiện di chuyển. Tôi như một câu học trò nhỏ từ quê lên tỉnh và còn ngây ngô lắm.
Với một ngôi trường đồ sộ nguy nga, với danh tiếng của trường lúc bấy giờ, tôi vô cùng hãnh diện được học trường nầy và trường đã ghi sâu đậm cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
Vào năm 1955, hiệu trưởng lúc ấy là ông Phạm Văn Còn. Khi tôi vào học được một, hai tháng gì đó thì có vị hiệu trưởng mới thay thế là ông Nguyễn Văn Kính. Tôi thấy ông Kính rất nghiêm nghị: thầy mặc bộ đồ veste trắng hoặc xám, ăn nói rất hay và lưu loát. Sau ông Kính thì có ông Nguyễn Văn Thơ làm hiệu trưởng. Ông có giọng nói hơi eo éo, khô khan. Sau ông hiệu trưởng Nguyễn Văn Thơ đến ông Nguyễn Văn Trương làm hiệu trưởng, giám học là ông Trương Văn Huấn rất hiền từ, ăn nói nhẹ nhàng.
Lớp tôi gồm khoảng 45 học sinh mà tới nay, tôi vẫn còn nhớ một số tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Ngọc Bách, Nguyễn Thế Hiền, Phạm Đức Dụ, Võ Tấn Ngôn, Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Văn Mai, Trương Bá Hùng, Mai Hà Xuân, Ngô Văn Phủ, Trần Văn Thông, Nguyễn Võ Kỵ, Nguyễn Thái Chí, Phan Quang Khải, Trương Văn Tuấn… và khi lên lớp Đệ Lục D (niên khóa 1956-57), tôi lại có một số bạn khác như Nguyễn Thành Toán, Lê Phú Xuân, Trương Văn Thông…
Tôi được học buổi sáng và lớp tôi ở tên lầu dãy bên phải, nằm cùng một phía với văn phòng hiệu trưởng… Lớp tôi cũng nằm gần các lớp Đệ Tứ và tôi thấy có nhiều vị giáo sư tên tuổi dạy lớp nầy: đó là giáo sư Trần Văn Thử dạy toán về sau có thời gian làm hiệu trưởng Petrus Ký, giáo sư Bùi Trọng Chương ở miền Bắc vào. Về phía giáo sư của lớp chúng tôi, tôi còn nhớ nhiều thầy cô với nhiều kỷ niệm. Về Việt văn, tôi đã học với cô Nguyễn Thị Sâm ở cả hai lớp Đệ Thất, Đệ Lục. Về Pháp văn, có ông Hổ dạy lúc đầu, về sau có ông Nguyễn Phước Trạch thay thế. Ở lớp Đệ Lục có ông Phạm Văn Ba. Về Toán có ông Phấn dạy lúc đầu về sau có ông Nguyễn Trí Vị ở Pháp về dạy. Vì thiếu giáo sư, nên trường có nhờ một số nhân viên văn phòng và giám thị dạy chúng tôi như các ông Khiêm, ông Tốn, bà Ngà… Về Lý Hóa chúng tôi được một kỹ sư bên Pháp về dạy: đó là kỹ sư Võ Hoài Nam, tốt nghiệp kỹ sư điện bên Pháp. Khi mới về nước, còn chân ướt chân ráo và trước khi tìm việc cho đúng khả năng, ông đã dạy môn Lý Hóa ở lớp Đệ Thất, rồi khi lên Đệ Lục, tôi cũng được học với bà Nguyễn Thị Hai, cũng ở Pháp về, dạy chúng tôi môn Toán, Lý Hóa. Về Vạn Vật, ở lớp Đệ Lục, tôi được học với giáo sư Trần Thượng Thủ và Sử Địa với bà Dung. (Kỹ sư Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 ở Tây Ninh. Ông dáng người nhỏ con và lùn cũng như tôi, cũng có một cái răng khễnh và nói chuyện rất có duyên. Sau nầy, ông viết văn rất hay và dí dỏm với bút hiệu là Tiểu Tử, hiện đang sống tại Pháp).
Về Việt văn, tôi vẫn nhớ mãi và quý mến cô Sâm. Khi dạy chúng tôi, tuổi cô khoảng 24, tính tình vui vẻ nhưng rất nghiêm nghị, chúng tôi rất sợ cô. Cô dạy Việt văn rất hay, nói chuyện rất có duyên và có sức thuyết phục. Tôi rất yêu thích môn Việt văn khi học với cô. Có một điều lạ là, tuy dạy Việt văn nhưng cô lại thích học y khoa, nhưng vì lý do sức khỏe nên không học được, cô có ghi danh học ban Vạn Vật ở trường đại học Khoa Học và sau nầy cô có hoàn tất cử nhân khoa học (Vạn Vật), cô còn phụ trách môn Công Dân Giáo Dục. Nhà cô ở trong cư xá của trường, nằm phía sau lưng trường, gần bên Tổng thư viện, nên thỉnh thoảng, tôi có ghé đến thăm cô. Học sinh chúng tôi ai ai cũng đều thương mến cô Sâm.
Trong lớp tôi, có một học sinh rất giỏi về Việt văn, anh dáng người cao, tóc hơi quăn. Anh luôn luôn được điểm cao khi làm luận văn, và cô Sâm đã đọc bài làm của anh cho lớp tôi nghe, đó là anh Nguyễn Thế Hiền. Gia đình Hiền ở Biên Hòa, anh xuống ở nhà người bà con tại đường Hiền Vương để đi học, nhà anh trọ rất gần nhà tôi. Bài của anh thường được cô Sâm cho 14, 15, còn chúng tôi chỉ được 12, 13 thôi. Sau nầy, năm 1975, khi đi “học tập cải tạo” ở Trảng Lớn, tôi có gặp lại anh trong trại.
Một vị giáo sư khác mà ai ai cũng nhớ là ông Phạm Văn Ba. Ông nầy hơi mập, cằm có ngấn, ông hay nói chuyện tiếu lâm và diễu. Ông thường cho chúng tôi dịch một vài câu có hai nghĩa, chẳng hạn như câu “phòng nội vô phong, phàm tự lập” có nghĩa là trong phòng không có gió, cột buồm vẫn đứng và cả lớp cười ngất. dáng ông Ba rất lè phè, tôi thấy ông ta ưa ngáp và buồn ngủ, có lẽ vì thức đêm nhiều. Thỉnh thoảng, ông có nhờ tôi đi mua cà phê và vài cái bánh ngọt cho ông. Ông không chấm bài mấy mà chỉ đưa cho nhóm nầy chấm bài và ghi lỗi bài của nhóm kia và ông cho điểm. Ông dạy cũng vui vui, không có gì xuất sắc. Ông dễ tính và hay nói chuyện tiếu lâm, nên ai cũng nhớ đến ông. Sau nầy, nghe nói ông gặp nhiều chuyện không may.
Còn trước đó ở lớp Đệ Thất, chúng tôi có một vị giáo sư khác là ông Nguyễn Phước Trạch. Ông nguyên là giáo học bổ túc, được thuyên chuyển về trường Petrus Ký. Ông thường đem các bài ngụ ngôn của La Fontaine mà ông thuộc lòng ra giảng. Ông thường hay kể chuyện ông và gia đình. Chẳng hạn như ông học ở trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, với một số giáo sư tên tuổi, ông có xuất bản một tập thơ tên Duyên Thơ vào năm 1950, 1951 gì đó và đoạt giải thưởng hạng nhứt cuộc thi ở đài Pháp Á. Ông có cô con gái học Gia Long rất giỏi, bà xã ông thường hay véo ông…Khi dạy chúng tôi, ông chỉ có bằng Thành Chung. Sau nầy, ông tự học thêm và đậu Tú Tài II vào khoảng năm 1961, rồi sau nầy ông theo học Văn Khoa đỗ cử nhân Việt Hán và cao học.
Về môn Anh văn, chúng tôi được học với ông Nguyễn Văn Thái ở lớp Đệ Thất và Đệ Lục. Ông nầy người Bắc, đeo kính cận thị rất dầy, ông hay hút thuốc lá và sau giờ dạy học thường hay uống bia ở các quán gần trường. Sách mà ông dạy chúng tôi là cuốn Anglais Vivant, classe de sixième màu xanh. Ông thường bắt chúng tôi mua bộ văn phạm và ngữ vựng của Lê Bá Kông và Lê Bá Khanh soạn do nhà Ziên Hồng xuất bản. Chúng tôi phải soạn trước bài vở dựa theo sách nầy, vào lớp, ông truy chúng tôi về các bài nầy. Nếu không làm đúng ý ông, ông thường cho điểm thấp và thỉnh thoảng cũng có học sinh bị ông phạt. Tuy dạy Anh văn, nhưng ông không nói Anh văn lưu loát được. Tôi còn nhớ khi đó có một giáo sư người Anh đến thăm lớp học và được ông giám học dẫn đến lớp chúng tôi, ông đã nói chuyện với giáo sư đó bằng tiếng Pháp! Sau nầy, khi lên đại học, tôi có dịp gặp ông một lần tại đại học Văn Khoa. Đó là trong niên khóa 1961-62, tôi đang theo học chương trình y khoa, nhưng thường thường có qua Văn Khoa dự thính thì tôi gặp ông cũng theo học dự bị Văn Khoa tại đây. Ông ngồi ghi chép rất cẩn thận như một sinh viên gương mẫu. Sau nầy nghe nói ông mất vì một tai nạn xe cộ.
Còn một vị giáo sư nữa mà tôi phải kể ra đây: đó là Bà Dung dạy môn Sử Địa. Bà hay khảo bài trước khi dạy bài mới. Bà đem ra một bản đồ địa lý và thường hỏi các con sông bắt đầu từ đâu và chúng chảy ra đâu và bắt chúng tôi phải chỉ trên bản đồ. Lần đó, tôi rất thuộc bài, nhưng gặp bà, khớp quá, nên chỉ ngược từ biển vào, nên bị bà hỏi “Bộ cậu đẻ ngược hay sao mà chỉ ngược vậy?” cả lớp cười ngất, khiến tôi vô cùng đỏ mặt.
Có một vị giáo sư khác mà tôi còn nhớ: đó là giáo sư Trần Thượng Thủ. Ông nầy dạy môn Vạn vật ở lớp Đệ Lục. Hiện nay, tôi biết ông viết nhiều bài khảo cứu về thiên văn và lịch được các báo ở vùng Bắc Cali đăng tải. Ông hơi mập và cũng không cao mấy, thường bận áo sơ mi ngắn tay đi xe đạp. Ông cũng hay khảo bài và xét các tập vở của chúng tôi, nên chúng tôi rất sợ ông.
Một vị giáo sư chót là ông Trương Đình Ý, dạy môn Vẽ và Thủ công ở lớp Đệ Lục. Ông thường bắt chúng tôi nặn đất sét, làm những tượng hoặc hình và cho điểm. Ông có một xưởng nắn tượng ở đường Lê Văn Duyệt, gần chùa Xá Lợi và có dẫn chúng tôi đến xem một lần. Nếu không làm được, hoặc bị nứt, bị bể là ông cho điểm 0 hay bị phạt. Tôi rất yếu kém về môn nầy và suýt bị phạt vì những đồ nặn bị bể.
Nếu nói về Họa mà không nói về Nhạc, có lẽ là một thiếu sót. Năm Đệ Thất, chúng tôi học Nhạc với giáo sư Marcel, có mái tóc bồng bềnh rất nghệ sĩ, có vợ “đầm”, chân bị tật nên đi hơi khập khểnh. Vào lớp là ông lôi bài Quê Mẹ của Thu Hồ ra dạy chúng tôi về xướng âm: mi mi mi mi rề đô rề mí đô là… Ông thường hay cho viết chính tả nhạc. Chúng tôi lúc đó, chưa phân biệt được các tên gọi của các nốt nhạc, một hôm ông đọc cho hai câu nhạc, rồi gọi một vài người lên chấm điểm, trong đó có tôi. Tôi được ông ưu ái tặng cho hai con số 0 có gạch dưới (zéro consigne), cuối tuần đó, tôi phải mang bài vở vào trường để học dưới sự coi sóc của giám thị trực: tôi bị cấm túc.
Trong các ông giám thị, tôi nhớ đến ông Tốn. Năm đó, ông có dạy chúng tôi môn Lý Hóa. Ông bị gãy tay và đang bó bột, nhưng ông có tài chế biến. Ông chế biến chiếc xe gobel của ông thành một chiếc xe giống như xe hơi, chạy vòng vòng coi cũng đẹp mắt và khá vui. Lúc đó, ở Saigon, ông là người đầu tiên làm cho xe có mui, có cửa y như một chiếc xe hơi vậy. Ông hiền hòa và nhã nhặn, nhiều người rất mến ông.
Ngoài những môn chánh, chúng tôi có 1 giờ thể dục. Chúng tôi được học với các ông Giỏi, người Nam và ông Khê, người Bắc. Ông Khê có một thân hình giống lực sĩ, đá banh rất hay, tính tình cũng hiền hòa, ông Giỏi hơi khó tính. Hai ông nầy luyện tập rất kỹ và mỗi kỳ thi lục cá nguyệt đều bắt chúng tôi chạy, nhảy xa… để cho điểm. Tôi rất ốm yếu nên thường bị điểm thấp về môn nầy.
Đó là những kỷ niệm của tôi đối với một số giáo sư của trường, lúc tôi theo học tại đây, còn đối với anh em cùng lớp thì sao? Một số anh em cùng lớp cũng đã ghi sâu đậm nhiều kỷ niệm khó quên. Người mà tôi nhớ nhất là Trần Văn Thông, nhà ở trước nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Dáng người Thông cao lớn, nên được đề cử làm trưởng ban văn nghệ. Vì ở gần nhà tôi nên thỉnh thoảng có chở tôi đi học trên chiếc xe đạp của Thông. Thông đã học lớp Đệ Thất bên ngoài rồi mới vào Đệ Thất Petrus Ký năm 1955-56. Khi đi học, tôi thấy cũng không có gì xuất sắc lắm, nhưng khi học xong Đệ Lục, năm 1957, Thông đã thi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp, sau đó, học nhảy lớp Đệ Tam và thi đậu Tú Tài I năm 1958 và Tú Tài II năm 1959. Sau đó, ra Huế học, đậu MPC năm 1961, rồi đi du học tại Canada. Từ đó đến nay quá lâu, tôi không gặp lại. Vì thế, tôi cũng bắt chước Thông, tôi cũng học thêm ở trường tư trong niên khóa 1957-58 và cuối năm đó, tôi đã đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp. Sau đó, tôi đã bỏ lớp Đệ Tam, lên học lớp Đệ Nhị ở trường tư và đậu Tú Tài I năm 1959. Tôi đã rút học trình từ Đệ Thất đến Đệ Nhị 6 năm xuống còn 4 năm. Vì học nhảy nên tôi phải chính thức rời trường sớm vào năm 1958.
Lớp tôi, tôi không nhớ hết, nhưng sau nầy cũng đỗ đạt nhiều. Về y khoa có bác sĩ Ngô Văn Phủ, tốt nghiệp năm 1969, sau tôi 1 năm. Về dược khoa có dược sĩ Võ Tấn Ngôn, tốt nghiệp năm 1966, có dược sĩ Nguyễn Thành Toán (DS68) nay đều ở Nam Cali. Về bên khoa học có Nguyễn Duy Phương đã đậu Cử nhân và Cao học, là giảng nghiệm trưởng đại học Khoa Học. Về ngành tư pháp có Phan Quang Khải, làm biện lý ở Châu Đốc. Và kỹ sư có Trương Bá Hùng, có Trương Thành, kỹ sư công chánh Khóa 67 hiện ở Nam Cali.
Ở khu Tân Định gần xóm tôi cũng có vài người học Petrus Ký cùng một cỡ với tôi có Phạm Văn Ngọ ở ngỏ hẻm đường Pasteur, sau nầy cũng nhảy lớp, đậu Tú Tài II năm 1960 và đậu dược sĩ năm 1967. Học sau 1 lớp có Nguyễn Ngọc và nổi tiếng nhất là Nguyễn Hữu Anh. Học Petrus Ký từ năm 1956-63, Anh đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I và Tú Tài II đều hạng Bình. Thi đậu vào nhiều trường sau khi thi đậu Tú Tài và theo học đại học Sư Phạm Saigon, Anh đã đỗ 5 chứng chỉ trong 3 năm và sau đó được đi Mỹ để lấy Ph.D. Gia đình tôi thân với gia đình Anh lắm, trước khi đi, tôi có gặp Anh và Anh nói với tôi “Tôi sợ trở ngại về sinh ngữ Anh văn, không biết tôi có theo kịp chương trình master hay không?” Tôi cũng nói vài câu an ủi “Thì cậu cứ ráng, xem sao”. Sau đó, Anh không về Việt Nam mà qua Canada và đi theo một con đường khác. Sau năm 1975, tôi gặp Anh trở lại sau khi tôi “bị đi học tập cải tạo” trở về, và được biết trước đó Anh có về Hà Nội giảng dạy và sau năm 1975, giảng dạy tại Đại Học Tổng Hợp Saigon. Từ đó tôi không gặp lại Anh nữa.
Trong lúc học y khoa, vì muốn có thêm chút tiền tiêu, nên vào năm 1964 tôi có nộp đơn xin dạy học, nhưng số tôi không phải là số đi dạy học, nên mặc dầu đã được sự vụ lệnh của Giám Đốc Nha Trung Học Bộ Giáo Dục là giáo sư Lý Chánh Trung ký vào đầu năm 1964, tôi đến trường Petrus Ký để nhận việc. Nơi đây, tôi gặp giáo sư Trần Ngọc Thái, hiệu trưởng. Giáo sư Thái rất vui vẻ tiếp tôi và giới thiệu tôi đến gặp giáo sư Nguyễn Văn Long, giám học. Sau 15 phút nói chuyện cởi mở, giáo sư Long nói với tôi: “Tôi thấy anh nhỏ con quá, hiền quá, giống như một cậu học sinh, tôi sợ anh không điều khiển lớp học được, vì bây giờ, sau khi lật đổ ông Diệm, học sinh dữ lắm”.
Tôi coi như bị chê và tôi rất buồn ra về. Lần thứ nhì, tôi cũng được sự vụ lệnh của giáo sư Huỳnh Hòa làm việc trên bộ ký để đi dạy nữa, rồi cũng bị chê. Tôi thật không có duyên giống giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, được học Petrus Ký, được dạy và được làm hiệu trưởng Petrus Ký. Vì bị chê, nên tôi về ráng học tập nên trở thành một trong những sinh viên xuất sắc nhứt tốt nghiệp y khoa năm 1968.
Trường Petrus Ký với một kỷ luật nghiêm minh, với một tinh thần học tập tốt, tập trung nhiều học sinh giỏi, đã đóng góp nhiều nhân tài cho đất nước nên rất nhiều người, trong đó có chúng tôi rất hãnh diện là được theo học tại Petrus Ký. Tôi còn nhớ vào năm 1977, khi bị đi học tập về và đang làm việc tại bệnh viện Da Liễu, tôi và các anh em khác đi học tập chánh trị tại giảng đường bệnh viện Chợ Rẫy, tôi có dự một khóa thuyết trình của một cán bộ giảng dạy là một người Nam. Trong khi thuyết trình, anh cho biết anh đã từng theo học lớp Đệ Lục (deuxième année), Đệ Ngũ (troisième année) của trường Petrus Ký và rất hãnh diện để chứng tỏ mình cũng ngon lành về tiếng Pháp, sau khi đưa ra một nhận định gì, anh thường giơ tay lên và nói: Le voilà.
Thời gian trôi nhanh quá, mới đây mà đã gần 50 năm. Tôi ra trường đã lâu, mong có dịp đến thăm trường cũ để ôn lại những kỷ niệm ngày xưa. Tôi cũng mong chánh quyền hiện thời ở Việt Nam, mau mau trả lại cái tên Petrus Ký cho một ngôi trường đã nổi tiếng ở miền Nam, đã đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài: Trường Trung Học Petrus Ký Sai- gon. Mong lắm thay.
Trần Văn Nam (PKý 1955-58)
(Mùa Xuân năm 2002)