Quân Y Sĩ: Những Chiến Sĩ Thầm Lặng
Chu Tất Tiến
Khi ghi nhớ về cuộc chiến 1954-1975, có thể nói là giới truyền thông và các nhà văn, nhà báo đều viết về những chiến công anh hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, những chiến sĩ Biệt Cách Dù, Lôi Hổ, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Hải Thuyền Xung Phong, Không Quân, và các chiến sĩ Sư Đoàn cũng như các đơn vị Địa Phương Quân. Thực tế, những người lính Cộng Hòa ở khắp 4 Vùng Chiến Thuật, từ Bến Hải đến Cà Mâu, đều là những dũng sĩ anh hùng đã làm nên những trang sử chói lọi, chứng minh với toàn thể thế giới Chính Nghĩa Miền Nam đích thực là dòng giống Lạc Hồng, được truyền lại từ các Vua Hùng từ hơn 4000 năm trước. Các nữ quân nhân trong các đơn vị tiếp trợ đích thực là hậu duệ của Hai Bà Trưng, Bà Triệu Thị Trinh, những vị đã liều mình tạo ra các cuộc Cách Mạng Dân tộc Đầu Tiên long trời lở đất trên thế giới, khi mà Âu Châu còn rừng rú, thiếu văn minh, khi mà các nước Á Châu còn triền miên tăm tối, khi mà Phi Châu vẫn là những bộ lạc sống bầy đàn. Giòng máu anh hùng của Dân tộc Việt vẫn chẩy trong tim của những thanh niên, nam nữ miền Nam, và chỉ bị gián đoạn vì thế lực quốc tế, vì đồng minh phản bội, bán đứng miền Nam cho Trung Cộng. Cho đến ngày nay, dù người miền Nam đã tản lạc khắp năm châu, bốn biển, nhưng khí hùng dân tộc vẫn chưa ngày nào lụn tắt với hàng triệu thanh niên năm nữ thuộc thế hệ thứ Một Rưỡi, Thế hệ Thứ Hai đang làm rạng danh các tên họ Nguyễn, Lê, Trần, Chu, Hoàng, Phạm, Phan, Vũ, Ngô, Bùi, Lý… trên danh bạ những người lừng danh của nước Mỹ, Canada, Úc Châu và trên các trang lịch sử Viêt Nam chính thống.
Tuy nhiên, có một điều có thể nói là không công bằng, thiếu sót khi không nhắc đến những sự hy sinh cao cả của một đội ngũ chuyên môn cũng khoác áo lính, cũng mang giầy sô, cũng đội mũ sắt, cũng chiến đấu, cũng đổ máu trên các mặt trận, mà công lao của họ ít được nhắc tới: Đội Ngũ Quân Y. Các Bác Sĩ Quân Y Trưng Tập hay Quân Y Sĩ là những chiến sĩ thầm lặng. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân để học về ngành Y với mục đích cứu người, để rồi cũng lăn vào mặt trận để cứu các chiến sĩ thuộc mọi quân chủng. Tuy tay họ không cầm súng và bóp cò, nhả đạn như các chiến sĩ khác, nhưng tay họ lại cầm các dụng cụ nhỏ bé mà nếu không có dụng cụ này thì số chiến sĩ Cộng Hòa chết sẽ lớn hơn rất nhiều: đó là cây kim chích và ống nghe.
Sau nhiều năm miệt mài trong các trường lớp Y Khoa, họ cũng phải trải qua những ngày tập luyện như một binh sĩ thường, cũng phải học cách bắn, cách bò, cách chạy, học đủ loại súng để sau này hiểu biết các vết thương, vết đạn sẽ gây ra những mảnh rách da thịt như thế nào, để rồi, sau khi tốt nghiệp, các Quân Y Sĩ hoặc các Y Sĩ Trưng Tập đến trình diện các đơn vị chiến đấu, Sư Đoàn, Trung Đoàn, Tiểu đoàn, và nhận lệnh ra mặt trận. Dưới quyền chỉ huy của họ, không có đến một tiểu đội, mà chỉ có vài Y Tá, Trợ Y, mang trên ngực, dấu hiệu Quân Y đỏ, và cặp nách một hộp đồ dụng cụ cứu trợ khẩn cấp, một số thuốc cần gấp cho các trường hợp bung da, rách thịt, gẫy xương, lòi ruột. Từ đó, họ sống chết với quân đội, với các đơn vị chiến đấu. Họ cũng lăn mình xuống hào nhưng không phải để tránh đạn mà để băng bó vết thương cho chiến hữu. Họ cũng bị trúng đạn, bị bắn, bị giết, bị tù như những người lính khác. Điều quan trọng nhất là khi mà nhiều cấp chỉ huy đã bỏ chạy, bệnh viện gần như bỏ hoang, đơn vị đã tan hàng thì họ vẫn đứng bên cạnh giường, an ủi những người lính bị thương, và tìm mọi cách làm cho các thương binh cảm thấy nhẹ nỗi đau thắt ruột. Có những vị Bác Sĩ Quân Y chiến đấu trên tiền đồn cũng dũng mãnh không kém gì lính chuyên môn, được anh em chiến hữu thân ái gọi là “ông Thầy này cầm súng nhiều hơn cầm kim chích”.
Vì thế mà danh sách các chiến sĩ Quân Y tử trận nhiều không nhớ nổi. Lại có những vị vừa nhận đơn vị đã bị trúng đạn tử thương. Con số những chàng trai đeo kính, thông minh, với tâm hồn hy sinh phục vụ mênh mông đã tử nạn, đã bị đầy ải, cầm tù khá nhiều, và điều đáng tiếc là ít có các cơ quan truyền thông vinh danh họ, có chăng là các cuốn sổ tay của chính các vị Quân Y Sĩ ghi lại: Đại Úy Bác Sĩ A đã hy sinh, Trung Úy Bác Sĩ B bị bắn chết, Bác Sĩ Quân Y bị nhốt trong tù.. Trong số đó, cũng có không thiếu những Bác Sĩ Quân Y phẫn nộ vì bị Cộng Sản giam nhốt và cảm thấy rằng sự hy sinh của mình để bảo vệ đất nước không đem lại kết quả mong muốn đã uống thuốc tuyệt mệnh trong tù.
Sau tháng 5 năm 1975, tất cả các vị Bác Sĩ, Dược Sĩ Quân Y bị đầy đi cải tạo. Điều ê chề nhất là vì đầu óc của bọn cai tù ngu dốt, nên có nhiều toán Bác Sĩ bị đưa vào Toán Vệ Sinh, mà không phải làm vệ sinh doanh trại, mà là đi đổ thùng phân mỗi sáng. Các Bác Sĩ chuyên cầm ống chích cứu người phải gồng gánh những thùng phân nặng nề, thối tha, đi đổ lên ruộng của cai tù, cho chúng trồng rau. Anh em bạn tù nhìn thấy cảnh các vị Bác Sĩ còng lưng gánh phân, mà xót xa, nhỏ lệ thương cảm, hận mình bất lực không giúp gì được cho những Thầy Thuốc từng cứu sống mình. Mãi cho đến gần 1980, danh dự của các vị Bác Sĩ, Dược Sĩ mới được coi trọng: gom vào trong Tổ Y Tế để chữa bệnh cho tù binh cải tạo. Đến giai đoạn này, các vị Lương Y Quân Đội lại tiếp tục sử dụng trí tuệ của mình cho việc cứu sống bạn tù.
Vậy thế mà trong các tài liệu ghi chép về những hy sinh cao cả và thầm lặng của các vị Bác Sĩ Quân Y, các ông Thầy Thuốc mặc áo lính lại ít được nhắc đến. Họ không nhận được huy chương Anh Dũng Bội Tinh nào cả cho dù họ chiến đấu hết mình, nhưng thật sự, họ chính là những người hùng Anh Dũng, Can Đảm đầy mình, không bỏ đồng đội bị thương, không quên trách nhiệm của mình là Cứu Người, góp một bàn tay vào công cuộc Bảo Vệ Tổ Quốc Việt Nam yêu quý. Trong các buổi tưởng niệm Chiến Sĩ Trận Vong, hình như cũng không có câu vinh danh nào dành cho quý vị Quân Y Sĩ. Thật là một sự thiếu sót trầm trọng, không thể tha thứ được.

Viết những dòng chữ này, xin thắp một nén hương lòng cho những vị Bác Sĩ đã hy sinh trên khắp các mặt trận, những vị Bác Sĩ chết trong tù Cộng Sản. Chân thành cảm phục.
Lính già Chu Tất Tiến. 30 tháng Tư, năm 2025.

