“Quan Toà” Mặc Áo Quan Xử Án Quan Tài là tựa bài gồm hai câu chuyện VC xử án 3 sĩ quan quân đội VNCH bị đi tù sau 30/4/1975 rồi vượt ngục.

Trước khi xử án, VC đã cho đào sẵn huyệt và đem quan tài đến.

            -Chuyện thứ nhất: “Phiên Toà Đầu Tiên” trích từ truyện dài Sống Trong Ngục Tù Cộng Sản của Dr TQLC Đông Vân Nguyễn Văn Dõng. Dr Dõng đã phát hành tập truyện này năm 2007 với mục đích tất cả cho Thương Phế Binh, và đã thành công.

            -Chuyện thứ hai: Trích từ truyện dài: “Đây Long Giao- Suối Máu-Hoàng Liên Sơn” của TQLC Tô Văn Cấp- tác giả Nửa Đường và Huynh Đệ Chi Binh.

            Xin mời độc giả theo dõi:

                                                            ***

Hôm nay toàn trại được miễn lao động để tất cả mọi người “có khả năng theo dõi phiên toà xét xử tên phản động Lê Đức Thịnh”.

Các lán trưởng và tổ trưởng thuộc tất cả các T đều được lịnh dự khán phiên toà, lũ lượt kéo nhau đi về hướng “trung đoàn” tức bộ chỉ huy trại Long Giao.

Trong T1 của tôi, từ hôm trước đã thấy có một số cán bộ được phái đến lăng xăng kéo thêm giây điện, gắn thêm máy phóng thanh ở hội trường để cho tất cả tù tập trung lên đó gián tiếp theo dõi phiên toà xử Đại Úy Lê Đức Thịnh.

TQLC Huỳnh Vinh Quang TĐ.2/TQLC, người bạn tù cùng tổ, nằm gần Thịnh cung cấp một số chi tiết như sau:

– Đại Úy Lê Đức Thịnh, xuất thân Khóa 15 Võ Khoa Thủ Đức. Ra trường anh được giữ lại làm sĩ quan an ninh, anh đã học các khóa tình báo tại trường Cây Mai và Okinawa-Nhựt Bản.  Nhà ở đường Bàn Cờ, Quận Ba, Sài Gòn, có vợ và 5 con.

Ngoài Quang, cùng đội và cùng tổ B8 với Thịnh còn có các Mũ Xanh Đàm Quang Toán, Quách Đức Thành, Lưu Trung Nghĩa, Nguyễn Hồng Điệp và Nguyễn Trọng Thiều.

Trại Long Giao trước đây là hậu cứ của Trung Đoàn 48 thuộc SĐ18/BB. Vì thời gian đầu anh em tù “cải tạo” chưa được viết thư về báo cho gia đình biết mình đang ở đâu nên các bà rất lo lắng, họ thường giả dạng dân địa phương đến lao dộng quanh trại để dò hỏi tin tức về chồng cha mình. Do đó Thịnh viết một bức thư với ý định sẽ nhờ người dân gởi cho vợ.

Buổi sáng đó vì Thịnh không đi lao động bên ngoài nên anh nhờ Nguyễn Trọng Thiều (người nằm bên cạnh Quang và Thịnh) giao thư cho một người nhờ chuyển về gia đình. Từ vọng gác, tên vệ binh nhìn thấy, chạy xuống chận lại và tịch thu bức thư.

Thịnh bị bắt bị biệt giam ngay, vì vi phạm nội quy, có tư tưởng chống đồi cách mạng. Tất cả tù chỉ biết có thế, còn nội dung lá thư thì không ai biết.

***

Đến nơi xử án, tôi nhìn quanh một lượt, đó chỉ là một căn nhà tiền chế, bên trong được sắp xếp đầy cả ghế lẫn băng, chỉ chừa một lối đi ở giữa và một khoảng trống ở đầu phòng dành riêng cho 4 cái bàn, phía sau là 4 cái ghế.

Tôi tránh hàng ghế đầu, nhưng cũng không muốn ngồi ở những hàng ghế cuối vì sợ không theo dõi được tường tận phiên xử. Còn đang tìm một chỗ ở hàng ghế thứ ba, thứ tư thì cán bộ Trung, quản giáo của tôi, không biết từ đâu bổng xuất hiện sau lưng và nhẹ nhàng dẫn tôi lên hàng đầu ở phía bên phải, tôi tránh ngồi ngay ở bìa và chọn chiếc ghế thứ ba kể từ lối đi trong số 7 cái ghế kê sát vào nhau. Trước khi bỏ đi, Trung không quên nói nhỏ cho tôi nghe lý do: trại đã ấn định cho tôi phải ngồi ở hàng đầu! Nghe nói thế tôi bấm bụng cười thầm:

– Bố khỉ! Ủ tờ mà còn được chiếu cố như vầy thì vui như Tết Mậu Thân!

Khi tất cả mọi người đều đã ngồi vào chỗ, không đầy năm phút sau đã có 4 tên bộ đội kéo đến đua nhau ngồi vào mấy cái ghế còn lại bên phải tôi. Bọn chúng xem chúng tôi như không có, không buồn chào hỏi mặc dù ngồi ngay bên cạnh tôi. Tôi cũng mặc kệ, chẳng lưu tâm đến chúng nó làm chi, chỉ để mắt nhìn quanh căn phòng. Bề ngoài tuy vậy nhưng thật ra tôi rất chú tâm vào tên y tá đang ngồi bên cạnh tôi. Tôi nghĩ hắn là y tá vì khác với ba tên bộ đội kia đều mặc đồng phục quân đội, hắn ta lại choàng lên người cái áo “blouse” trắng, với cái ống nghe được giấu trong túi bên phải. Sự hiện diện của tên y tá và cái “ống nghe” chưa làm thắc mắc. Tôi lơ đểnh theo dõi mấy tên bộ đội đang lu bu điều chỉnh hệ thống âm thanh trên bàn chủ tọa.

Vẫn chưa thấy mấy “quan tòa” xuất hiện, tôi lại quay về với tên y tá và ba đồng chí của hắn. Tôi nghĩ mấy tên nầy có lẽ thuộc bịnh xá trung đoàn, được lịnh đến đây mà không kịp thay đổi y phục. Rồi tôi cũng chẳng nghĩ gì thêm, bởi vì lúc đó đã có lịnh đứng lên chào đón các quan tòa vừa đến. Họ gồm có 4 người: thủ trưởng của trại, chính ủy của trung đoàn và hai là cán bộ từ trung ương đến. Phòng xử rơi vào một sự im lặng nặng nề. Tất cả tù cải tạo hồi hộp hướng mắt về góc trái của phòng xử, nơi có một cửa ăn thông ra sân sau. Tất cả chờ đợi sự xuất hiện của Lê Đức Thịnh mà đa số đều chưa biết mặt.

Chúng tôi đã chẳng phải chờ đợi lâu, cánh cửa góc cuối phòng mở rộng: Lê Đức Thịnh bị hai tên vệ binh kèm hai bên dẫn vào.

Vóc người tầm thước lại gầy gò do những ngày biệt giam kham khổ, nên trông anh Thịnh càng nhỏ người thêm ra. Tóc tai không được chải chuốt tô đậm thêm nét mệt mỏi, lo âu trên gương mặt xương xẩu của anh.

Hai tên vệ binh dẫn anh đến trước mặt các quan tòa, để anh đứng đấy rồi lui về phía cửa ở cuối phòng, sẳn sàng chờ lịnh.

Thịnh đứng yên trước mặt các quan tòa, hai tay chắp ra sau lưng, có vẻ bình thản chờ đợi. Các quan tòa còn đang bận rộn tra cứu hồ sơ, chẳng ai quan tâm đến tên tội phạm. Trong phòng xử tiếng xì xào bàn tán đã bắt đầu nổi lên. Tôi vẫn yên lặng nhìn anh Thịnh mà tâm trí suy nghĩ vơ vẩn, miên man: “Mãnh hổ sa cơ trông chẳng giống ai”!

Phiên tòa bắt đầu. thủ trưởng của trại mở lời tường thuật nội vụ với đầy đủ chi tiết, đúng hay sai thì chỉ có bọn họ và anh Thịnh biết.

Thủ trưởng ngừng lại nhiều lần để hỏi anh Thịnh:

-Có phải như vậy hay không?

Chỉ thấy Thịnh trả lời vắn tắt: “Đúng, sai”, không nghe anh nói gì hơn. Suốt phiên tòa, hình như anh chỉ được sử dụng có mấy tiếng: đúng, sai, có, không!

Sự việc nầy làm cho tôi hết sức nghi ngờ là Thịnh đã mắc vào bẫy của CS.

Khi nghe tên thủ trưởng đề cập đến đoạn thư Thịnh “đòi lật dổ chế độ CS”, tôi cũng như tất cả tù có mặt đều sửng sốt và tự hỏi lẽ nào anh Thịnh lại tối dạ đến như thế? Anh phải dư biết rằng thư của anh có thể bị lọt lưới bất cứ lúc nào.

Đang ào ào nghiêm khắc trách móc anh Thịnh, tên thủ trưởng trung đoàn đổi giọng, tiếng nói trở nên dịu dàng dễ nghe hơn khi hắn nhắc lại tính khoan hồng nhân đạo của Cách Mạng. Và hắn ta đã không ngần ngại giảng lại một lần nữa bài học mà tất cả tù cải tạo đều đã thuộc nhừ như cháo. Sau đó hắn ta mới chịu nhường lời lại cho tên chính ủy.

Trong 4 tên ngồi trên bàn chủ tọa, không tù nào biết chúng là gì. Theo cung cách, tôi nhận thấy thì tên thủ trưởng có vẻ giữ vai chánh án, tên chính ủy làm công tố, còn hai tên cán bộ từ trung ương đến chưa biết làm gì, có thể là quan sát viên, hay là chỉ đến để làm tăng thêm phần long trọng của phiên toà.

Đến khi tên chính ủy trung đoàn mở lời mới thấy “căng” hơn. 

Hắn ta không quên nhắc lại điệp khúc “Cách Mạng đưa các anh vào đây học tập là để bảo vệ an ninh cho các anh, tránh cho các anh sự trả thù của nhân dân…”. Và rồi anh em tù cải tạo lại phải nghe thêm một lần nữa đề tài “Cách Mạng là nhân đạo, trước sau như một”!

Tâm trí tôi lại quay về với hình ảnh những thằng chõng trôi lều bều trên dòng sông đã in sâu vào ký ức của đứa trẻ mới lên 7, tiếp theo là bao nhiêu hình ảnh cuộc thảm sát nhân dân xứ Huế trong lần công kích Tết Mậu Thân 68, hình ành thảm khốc của “đại lộ kinh hoàng”, những cuộc pháo kích nhắm vào làn sóng người chạy nạn Cộng Sản những tháng đầu năm 1975.

Chán ngán, tôi ngửa mặt nhìn lên nóc nhà như để tìm cách thoát khỏi những lời “vàng ngọc” của tên chính ủy, vì tôi không dại gì tự bịt tai lại khi đang ngồi ngay trước mặt, trước sự quan sát theo dõi của chúng nó. Tôi tự than thầm:

-Giống Hồng Lạc sao lại có thể có một lũ người ngu si, tàn bạo, dối trá đến như thế nhỉ? Quả thật là vô phúc cho dân Việt!

Phiên toà rồi cứ tiếp diễn một cách nhàm chán. Tôi có cảm tưởng CS chỉ muốn lợi dụng cơ hội này để trước là xử tội anh Thịnh một cách công khai, hợp pháp, thứ đến là để dằn mặt “bọn cải tạo phản động” không chịu học tập, và sau cùng là để tiếp tục nhồi sọ, uốn nắn những kẻ dễ dạy-những kẻ làm trật tự, làm thi đua v.v… chỉ muốn được “an tâm tư tưởng học tập tốt, lao động tốt” với tí hy vọng “bảng vàng đề tên” trong những dịp lễ lớn sắp đến để được về sớm

Tên chính ủy càng nói càng trở nên hung hăng cao ngạo. Hắn ta có vẻ như được dịp để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng hắn thông suốt lịch sử, quán triệt cả lý thuyềt Mác Lê, căn bịnh nầy rất phổ biến trong hàng ngũ cán bộ VC.

Sau phần lý thuyết về Mác Lê, về chủ nghĩa xã hội, về khoan hồng nhân đạo của Cách Mạng, tên chính ủy quay sang trách Lê Đức Thịnh vẫn còn ngoan cố, chưa chịu nhận thức đúng đắn về những tội lỗi tày trời mà “nước biển Đông không đủ để rửa sạch”, nay lại thêm hành vi phản động âm mưu chống phá Cách Mạng v.v…

Hắn ta không quên đưa cao lá thư của Thịnh cho mọi người nhìn thấy như để nhắc nhở rằng bằng chứng cụ thể đang nằm trong tay. Phần lớn thời gian hắn ta chỉ dùng trách cứ và lên án Thịnh. Hắn ta chẳng hỏi Thịnh được mấy câu, nhưng câu nào cũng buộc Thịnh trả lời có hay không, đúng hay sai, tuyệt nhiên không để cho anh một cơ hội nào giải thích hay tự biện bạch. Đôi lần Thịnh cũng cố ý phá lệ nói thêm về một vài điểm mà anh bị cáo buộc, nhưng anh liền bị chỉnh ngay tức khắc và được nhắc nhở là anh không được dài dòng. Giọng của tên chính ủy càng lúc càng trở nên gay gắt, đôi khi như quát tháo.

Sau gần 45 phút, hắn ta mới chịu ngưng và quay sang thì thầm hội ý với các đồng chí trên bàn chủ tọa.

Trong phòng xử, một bầu không khí im lặng hết sức nặng nề vẫn bao trùm lên những người tù dự khán phiên toà

Tên chính uỷ trao đổi xong, tên thủ trưởng lên tiếng:

– Toà tạm ngưng giây lát để nghị án…

Tất cả tù chưa kịp đứng dậy ra ngoài theo lệnh quản giáo, thì một “sự cố kỹ thuật” xảy ra ngoài dự tính của mọi người, kể cả 4 tên ngồi bàn chủ toạ:

Khi tên thủ trưởng chưa dứt lời, thì bất ngờ ba tên bộ đội và tên y tá đồng loạt đứng lên, phóng nhanh đến túm lấy Lê Đức Thịnh, lấy mảnh vải trắng bịt mắt, bịt miệng và cột hai tay Thịnh thúc ké ra sau lưng. Chúng hành động hết sức nhịp nhàng, thuần thục như đã được tập luyện từ trước, nhanh đến độ anh Thịnh hầu như không kịp có bất cứ một phản ứng nào.

Các “quan toà” cũng bất ngờ trong giây lát rồi tên chính ủy quát:

– Các đồng chí làm gì thế? Mở ra ngay, toà tạm ngưng để nghị án, các đồng chí trở về chỗ.

Ba tên bộ đội lật đật cởi trói, mở miệng, mở mắt cho Thịnh và lặng lẽ trở về chổ ngồi, bẽn lẽn như kẻ trộm vừa bị bắt quả tang.

Tên chính ủy ngả người ra ghế, biểu lộ sự bực dọc, chán nản. Hắn có vẻ bối rối, không biết phải nói năng ra sao về “sự cố” vừa diễn ra không đúng lúc.

Tên thủ trưởng thì ngồi lặng im, “đực” người ra, chắc là hắn ta rất sượng sùng với hai đồng chí từ trung ương đến chứng giám.

Khi tù đã ra hết ngoài dể cho toà nghị án, tất cả tù đều xôn xao về “sự cố kỹ thuật” rất có hàm ý trên. Sự lo âu, nỗi buồn dần xâm chiếm mọi người. Tôi nghe như có một loài thú dữ đang từ từ vùng lên muốn phá vở lòng ngực để thoát ra…

Mười lăm, hai mươi phút sau, toà tái nhóm.

Tôi trở về hàng ghế đầu. Bên phải tôi vẫn là tên y tá với áo blouse trắng và ống nghe trong túi, bên phải của y tá là ba tên bộ đội vẫn giữ nguyên vị trí.

Đến lúc bấy giờ cái ống nghe của tên y tá mới thật sự thu hút sự chú tâm suy nghĩ của tôi, tim tôi se thắt, vì cái ống nghe của tên y tá chính là dùng để xác định hơi thở của tử tội. Tuy vậy tôi vẫn bám víu vào ảo vọng rằng CS chắc cũng phải có phần biến chuyển vì dù sao giờ đây cũng chỉ còn có Nam với Bắc.

Bốn tên “quan toà” trở lại bàn chủ tọa. Từ giây phút nầy, chính ủy là nhân vật chính trong giai đoạn quyết định của phiên toà.

Hắn ta tóm lược lần chót sự việc, nhắc lại tội “trời không dung, đất không tha” của anh Thịnh và của cả bọn “Ngụy”, đề cao tính khoan hồng nhân đạo của “Cách Mạng” v.v… Hắn dông dài một lúc khá lâu trước khi ngưng lại uống một ngụm nước. Sau khi chậm rãi đặt ly nước xuống bàn, hắn khẽ hất hàm về phía ba tên bộ đội ngồi cạnh tên y tá như để ra hiệu, rồi hắn mới dằn mạnh từng tiếng, tửng câu một, tuyên án Lê Đức Thịnh:

– Tội tử hình!

Lần nầy ba tên bộ đội còn nhanh hơn lần trước nhiều. Khi ba tiếng “tội tử hình” chưa thoát ra khỏi miệng tên chính ủy thì cả ba tên bộ đội đã bay đến Lê Đức Thịnh, chúng hành động chớp nhoáng và thô bạo như một bầy dã thú.

Khi tên chính ủy chấm dứt ba tiếng ác nghiệt lạnh lùng của bản án thì anh Thịnh đã không còn có thể có bất cứ một phản ứng nào nữa! Tiếng la hét của anh chỉ còn là “ú ớ” sau chiếc khăn trắng đã bịt chặt kín miệng anh!

 Anh cố gắng vùng vẩy cũng vô ích vì anh không còn sức để thoát khỏi tay ba tên bộ đội đang lôi anh về cửa hậu của phòng xử và đẩy anh ra sân mất dạng!

Anh em tù trong phòng xử đều như trong cơn mê hoảng, ngơ ngác nhìn nhau chưa hiểu, chưa tin, chưa hoàn hồn như vừa bị sét đánh lầm.

 Bốn tên quan toà điềm nhiên thu dọn giấy tờ, trao đổi nhau vài ba câu rồi kéo nhau rời phòng xử theo cánh cửa hậu mà anh Thịnh vừa bị lôi ra.

Những người tù dự khán cũng lần lượt rời phòng xử với nỗi bàng hoàng.

Họ lặng lẽ theo cán bộ hướng dẫn trở về từng T. Mãi một lút lâu sau mới nghe họ bắt đầu bàn tán xôn xao, càng lúc càng ồn ào.

Tâm tư tôi miên man trong lo âu buồn bực, chán ngán, uất giận. Tôi tự hỏi không biết bao giờ chúng nó mới thi hành bản án, và liệu chúng nó còn “mời” tôi và một số bạn tù đến dự khán những vụ án nữa không?

Nhưng một tràng đạn AK đã nổ vang từ phía sau lưng đoàn tù vọng lại.

Như một cái máy hết xăng, đoàn người tự động dừng lại, quay mặt về phía sau như để tìm xem anh Thịnh ra sao!

Sau giây phút sửng sốt, mọi người đều lắc đầu thở dài, kẻ cúi đầu, người ngẩng mặt nhìn trời cao… Tôi có cảm tưởng trái đất này, khung trời kia không đủ để chứa nỗi uất ức, chán chường, ghê tởm của tù. Họ không còn gì để bàn tán nữa. Họ âm thầm trở về doanh trại trong sự im lặng lạnh lùng tang tóc phi lý, tuy không ai xác định được gì, nhưng tất cả đều tin chắc là anh Thịnh đã ra người thiên cổ!

VC công khai tổ chức rầm rộ phiên toà xét xử Lê Đức Thịnh, có sự tham dự của tất cả các “đại diện” tù trong toàn trại. Số tù không được dự trực tiếp phiên toà được tập trung lên hội trường để họ theo dõi phiên toà qua trực tiếp truyền thanh.

VC đã chỉ định một toán tù làm “công tác đặc biệt” ngay trong buổi sáng sớm trước khi phiên toà xử Lê Đức Thịnh.

Công tác đặc biệt nầy là đào sẵn một cái huyệt ở gần “toà án”

VC cũng đã đặt mua một cỗ quan tài loại rất thô sơ.

Buổi sáng hôm đó, quan tài đã được chở đến “toà án”.

Khi xong việc, toán nầy được dẫn trở về trại ngay.

Khi đó họ không hề nghĩ ngợi, nghi ngờ gì cả.

Cho đến khi loạt AK nổ dòn chưa đầy 5 phút sau khi nghe tuyên án tử hình Lê Đức Thịnh, họ mới giựt mình, thấy rõ, hiểu rõ: “Phiên toà chỉ là một trò lừa bịp”!

                                                   ***

Sau 30/4/1975, VC kêu gọi các sĩ quan Quân Đội VNCH đi trình diện học tập cải tạo, cấp uý mang theo đồ dùng 1 tháng, cấp tá mang theo đồ dùng 3 tháng. Thời gian đầu đại đa số các cấp uý, tá bị nhốt tại trại Long Giao (Long Khánh)

Sau 6 tháng học tập về “nguỵ quân nguỵ quyền”, vào khoảng đầu năm 1976, VC di chuyển các tù cấp tá từ trại Long Giao về trại tù Suối Máu (Biên Hoà), nơi đây, trước 1975 là nơi giam giữ tù VC, thì sau 1975 là nơi VC giam giữ quân ta.

Tù tại trại Suối Máu bị nhốt ở nhiều khu (K) khác nhau (K1, K2, K3, K4), ngăn cách bằng hàng rào kẽm gai. Mỗi K có 10 nhà tôn (lán), mỗi lán chứa khoảng 100 tù. Trong lán tôi ở có các TQLC là anh Trần Kim Hoàng, Đinh Xuân Lãm, Trần Văn Hợp, Tô Văn Cấp, Huỳnh Văn Phú, Lê Đình Bảo, Doãn Thiện Niệm, Quách Ngọc Lâm v.v… Như vậy thời gian này trại Suối Máu nhốt khoảng 4 ngàn tù.

Tất cả các K cùng nằm trong 8 hàng rào kẽm gai khác nữa ở vòng ngoài. Xung quanh trại là những chòi cao, súng thượng liên cùng mắt cú vọ canh chừng 24/24. Tù không đi ra ngoài lao động, mà chỉ loanh quanh trong lán, từng người làm việc riêng hoặc từng nhóm giải trí, làm cái gì đó cho qua ngày để chờ đợi một biến chuyển mới chưa biết đi về đâu. Tinh thần tù đang căng thẳng thì lại nghe tin đồn tại Long Giao có tù bị xử bắn vì vượt ngục khiến tù Suối Máu lo âu. Không ai biết xuất xứ tin đồ từ đâu, thật hay giả, có thể do VC xì ra với mục đích khủng bố tinh thần tù.

 Trần Văn Bé Và Phạm Văn Tư Vượt Ngục.

Tin đồn Lê Đức Thịnh bị xử bắn tại trại tù Long Giao dò rỉ đến trại tù Suối Máu gây hoang mang cho tù thời gian đầu rồi dần dần cũng đi vào quên lãng vì tù nào cũng đang phải chịu cực hình về tinh thần, thể xác thì một biến cố đau thương khác lại xảy ra:

Chúa Nhật 22/2/1976, khoảng 1 giờ trưa, đột nhiên cả trại nghe nhiều loạt đạn súng thượng liên từ trên chòi canh nổ giòn, tiếng hô: “Trốn trại, trồn trại”, rồi tiếng còi báo động của bộ đội, súng AK lên đạn bao vây các nhà giam tù, VC và AK la hét như quỷ khóc thần sầu. Cuối cùng sự thật biến cố đó là:

Có 2 tù trốn trại, một thoát, một bị bắn chết trên hàng rào.

Đó là Bé và Tư, 2 người bạn cùng Khoá 19 Võ Bị với chúng tôi.

Khi mới về đây, ban chỉ huy trại cần mốt số tù khéo tay gò thùng, hòm (rương) cho bộ đội, trong số này có Bé và Tư. Hằng ngày nhóm này ra ban chỉ huy trại (nằm ngoài các K) để gò. Bé và Tư khéo tay nên hai anh được ra ngoài gò thường xuyên. Đó cũng là mục đích cho Bé và Tư quan sát địa thế, tình hình bộ đội canh gác…Trưa Chúa Nhật, lợi dụng lúc bộ đội lơ là, Bé và Tư quyết định vượt ngục:

Trần Văn Bé đã thành công, vượt hẳn ra ngoài vòng rào cuối cùng, nằm sát mé lộ chờ Tư, nhưng Tư bò ra tới hàng rào cuối cùng thì áo quần của Tư đã bị vướng vào kẽm gai. Lúng túng mãi mà Tư không gỡ ra được, tên độ đội gác trên chòi canh phát giác, đã nổ súng vào anh. Một số bộ đội chạy tới, anh Tư bị bắn đang nằm thoi thóp dưới hàng rào kẽm gai, chúng bắt bạn tù vào kéo anh Tư ra.

Thương Thay Phạm Văn Tư.

Các bạn tù khó khăn lắm mới đem được anh Tư ra, vừa đặt anh Tư nằm bên vệ đường thì tên thiếu uý Hải, trưởng trại K3, mặt đằng đằng khát máu, rút khẩu K54 bắn liền 4 phát vào 2 tay, 2 chân anh Tư cho nát xương thêm, những tù khiêng anh Tư ra bàng hoàng, sửng sốt bật khóc trong lòng!

Chúng tôi đều là lính tham dự nhiều trận chiến khốc liệt với nhiều thương vong cho cả hai bên. Người bị thương, cho dù là dịch quân, vẫn được quân ta săn sóc băng bó, thuốc men đầy đủ, nhưng chúng tôi chưa bao giờ phải chứng kiến một con (người) cầm súng bắn nhiều phát vào một “thương binh” đang chờ chết!

Anh Tư được bạn tù khiêng vào một gian nhà hoang mái tôn trống vách, VC bắt để anh Tư nằm dưới đất, không cho băng bó săn sóc, Tư chỉ còn thoi thóp.

Một bạn tù cùng lán với Tư là BS Nguyễn Lãng Uyên, được lệnh mang tất cả đồ đạc của Tư sang cho anh Tư. Khi trở lại lán BS Uyên cho biết:

-Anh Tư không được băng bó, máu ra nhiều quá, anh đang nôn mửa, chỉ chịu được một lát thôi!

Sáng hôm sau, vệ binh kêu 6 bạn tù khiêng anh Tư đi chôn!

Thân xác anh Tư nằm trên nền đất lạnh lẽo, nhưng không cô đơn, anh “được” bao quanh bởi nhiều đồng chí kiến, ruồi, muỗi, mối!

Người Trốn Thoát: Trần Văn Bé.

Khi nghe súng nổ, biết bị bại lộ, Bé nhảy vội lên xem Lam Hố Nai-Biên Hoà vừa chạy ngang qua. Khoảng một tuần lễ sau, anh Bé bị bắt lại, bị đem nhốt vào conex phơi nắng, nằm ngay dưới họng súng của bộ đội gác trên chòi canh.

Conex là một cái thùng sắt kín mít 4 bề như một cái kho, nay nó lại là một cái quan tài bằng sắt nhốt Bé, nóng như thiêu ban ngày, lạnh buốt ban đêm.

Sau vài ngày bị còng chân tay, bị hành hạ với nóng lạnh và đói khát, Trần Văn Bé muốn tự sát mà không thể, thì may quá, cách mạng “khoan hồng nhân đạo” đã mởphiên tòa quân sự đặc biệt xử án anh.

Sáng 10/4/1976, các tù lán trưởng, lán phó được kêu lên hội trưởng để chứng kiến phiên toà, còn các tù khác ngồi trong lán nghe phiên toà qua loa phát thanh.

Từ các loa phường đường phố Saigon sau ngày gẫy súng, ai ai cũng phải điếc tai vì chính sách của kách-mệnh:

“Chính sách khoan hồng nhân đạo của nhà nước ta trước sau như một”!

Trước sau như một nên những thủ tục xứ án Lê Đức Thinh (Long Giao) cũng là thủ tục xử án Trần Văn Bé (Suối Máu):

Trần Văn Bé bị còng hai tay sau lưng, bọn vệ binh dẫn anh đến trước mặt tên trung tá “chánh án”, rồi tháo còng, tên chánh án mở đầu bẳng lời xoa dịu:

 –Anh có điều gì cứ trình bày, khai thật, khai hết, để đảng và nhà nước sẽ xét xử khoan hồng tha cho anh trở về với vợ con.

Tên trung tá “chánh án” nói xong, anh Bé không nói gì thì tên thượng úy “công tố” đọc bản cáo trạng, chúng buộc tội anh Bé đủ thứ kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ. Chúng đã viết những gì trong bản án thiết tưởng chẳng cần ghi lại thì chúng ta cũng đã thừa biết rồi, và sau cùng chúng tuyên án:

-Trần Văn Bé: Tử hình.

Khi chúng vừa tuyên án tử hình thì lập tức hai vệ binh nhào tới, một tên nhét khăn vào miệng anh Bé, tên kia còng tay và bịt mắt anh rồi chúng dẫn anh ra pháp trường, ngay cạnh nơi xử án, nơi đã có sẵn một quan tài, một lỗ chôn, một cọc sắt. chúng cột anh Bé vào đấy và những tràng AK kết liễu đời anh.

Trần Văn Bé gục đầu trút hơi thở cuối cùng lúc 10 giờ 30 ngày 10 tháng 4 năm 1976.

Trần Văn Bé và Phạm Văn Tư vượt ngục không thành công, bị tử hình khiến hơn 4 ngàn tù Suối Máu rúng động, đau xót cho hai anh và cho chính bản thân.

Nhưng một sự kiện lạ lùng của trời đất ngay sau khi tiếng súng nổ, ngay khi đầu anh Bé gục xuống, linh hồn của anh hùng Trần Văn Bé vừa lìa khỏi xác thì…

Bầu trời đang quang đãng, trong xanh, nhưng ngay sau loạt đạn AK lấy đi mạng sống của Trần Văn Bé thì trời đất bỗng nổi cơn gió bụi, mây đen kéo tới, gió lốc vần vũ phủ kín toàn bộ trại tù Suối Máu, cát bụi tung bay mịt mù, mưa rào cùng sỏi đá rơi ào ào trên mái tôn. Trong chốc lát, bão lốc bốc lên cao, mưa tạnh gió tan.

Bất cứ anh em nào ở trai tù Suối Máu trong thời gian này đều chứng kiến và hẳn còn nhớ hiện tượng lạ lùng này đến hôm nay và mãi mãi!

Tất cả “cải tạo viên” trại tù Long Giao và Suối Máu mất nhớ mãi những phiên toà với lòng “khoan hồng nhân đạo” của XHCN:

Một “phiên tòa” của “quân đội nhân dân”, một “toà án” của Xã Hội Chủ Nghĩa, của cách mạng xét xử một người tù trốn trại đã được chuẩn bị thật kỹ càng và chu đáo!

Súng AK bao quanh toà án sẵn sàng nhả đạn vào nhân chứng!

 Một phiên toà đầy đủ thủ tục xuất phát từ lòng “nhân đạo” là đã đóng sẵn quan tài, đóng cọc tử hình và đào lỗ chôn nhưng chỉ thiếu một nhân chứng, một lời biện hộ.

“Chánh án” mở đầu phiên tòa bằng lời khuyên nhủ tử tội hãy thành thật khai báo thì sẽ được khoan hồng thả về với gia đình, với vợ con thì “chánh thẩm” liền đọc ngay bản kết tội có sẵn là “tử hình”, bịt miệng tử tội đem đi bắn!

Đó là “khoan hồng nhân đạo” của con người XHCN, của chế độ CS!

Lê Đức Thịnh, Trần Văn Bé, Phạm Văn Tư, Trần Văn Hợp chỉ là 4 trong số 993 tù chính trị VNCH “tử nạn” trong các trại tù VC!