Nỗi buồn chưa đục màu sông
Vưu Văn Tâm
(đăng trên tạp chí Cỏ Thơm, số 104, tháng 6.2024)
Em về lại quê nhà sau nhiều năm biệt xứ, nơi đây sơn thủy vẫn giao hòa, ngọn núi trọc đứng trơ vơ dõi theo những áng mây xa, con sông buồn vẫn đêm ngày xuôi dòng ra biển lớn. Buổi sớm mai mặt trời vừa kịp thức, mưa đêm qua hay sương buổi sớm mà lá cỏ đầm đìa. Bà con, lối xóm không còn nhận ra con Hai Mừng chăn vịt, cấy mướn ngày xưa, nó đã âm thầm ra đi từ một đêm mưa tháng bảy.
Mười lăm năm trước, con Hai Mừng và thằng Tám Nhớ, hai đứa mồ côi cha mẹ, đi cấy mướn, gặt thuê, đến mùa nước lớn còn đi chăn vịt hòng chắt chiu cho cuộc sống mai sau có được một mái nhà đơn sơ lợp lá. Thương nhau từ củ khoai bẻ làm hai, uống chung chén nước, hai đứa tình trong như đã, nhưng cứ lần lựa vì “mình còn nghèo quá” và nhất là chưa được yên chỗ, yên nơi.
Đêm đó, một nhóm người lạ mặt trên tỉnh gom về đây để đi vượt biển, hai đứa cũng bày đặt trốn theo chiếc ghe lớn vừa kịp cập bến lúc xế bóng hoàng hôn. Nửa đêm về sáng, chủ ghe điểm mặt và thẳng chân đá thằng Tám Nhớ lọt xuống sông. Con Hai Mừng thân thể nhỏ xíu, và co mình trốn trong một góc tối nên không bị phát giác. Nó hoảng sợ đến điếng hồn, nghẹt thở trong khi tay chân đã tê cứng. Chiếc ghe âm thầm rời bến trong cơn mưa tầm tã với bao nỗi âu lo, con Hai Mừng nghẹn ngào trong tiếng nấc khe khẽ :
– Vậy là em xa anh thiệt rồi, anh Tám ơi. Anh nhớ chờ em nha !
Mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, chiếc ghe bị mất phương hướng và theo cơn giông bão tấp vào vịnh Thái-Lan. Đám người ngợm từ chiếc tàu đánh cá tràn qua vơ vét của tiền, vàng bạc và mang theo mười mấy phụ nữ trẻ đẹp. Con Hai Mừng cũng nằm trong số đó. Sau hơn hai tuần lễ hành lạc, mười mấy “cái xác” được vứt lại trên một đảo hoang. Cũng nhờ chiếc tàu buôn của vương quốc Phần-Lan đi ngang qua và cứu giúp kịp thời, đám phụ nữ được đưa vào trại tị nạn chữa trị và chờ ngày đi định cư ở một đệ tam quốc gia.
Từ khi lạc mất mối tình đầu, thằng Tám Nhớ đã hết nhớ, suốt ngày nó như điên, như tỉnh. Nó đi hết đầu trên đến xóm dưới và gào khóc thê thảm mong tìm gặp người thương, nhưng người xưa như bóng chim tăm cá. Nó sống bằng tình thương yêu và sự đùm bọc của đám dân làng nghèo tiền của nhưng giàu lòng nhân ái.
Không giống như ngày Thúy Kiều tái hồi Kim Trọng, phút giây gặp lại người xưa sau mười lăm năm dâu biển, thằng Tám có nhận biết được gì đâu, nó đưa mắt nhìn con Hai thật xa lạ nhưng lại mỉm miệng cười. Chòm xóm gạt lệ khi nghe được tiếng khóc la thảm thiết của con Hai Mừng :
– Anh Tám ơi, làm sao mà ra nông nỗi. Ngày xưa, em tiếc với anh từng cái nắm tay, một nụ hôn cũng không đặng, để giờ đây thuyền ghe ngược hướng, dòng nước buồn đã đục màu sông !
Con Hai đưa thằng Tám lên Sài-Gòn trị bệnh. Ngót một năm dài sống với tình thương cận kề và sự chăm sóc bởi một tấm lòng, bệnh tình thằng Tám đã có phần thuyên giảm. Tám bắt đầu nhận ra mọi vật chung quanh và làm quen với chân tình của người phụ nữ xinh đẹp ngày đêm túc trực. Con Hai nhẫn nại kể lể những chuyện ngày xưa, thuở còn thơ hai đứa dầm sương, gội nắng để gợi cho trí nhớ nó được sống lại ít nhiều.
Ngày Tám được bình phục thì con Hai phải về lại bên kia để lo thủ tục giấy tờ. Con Hai hứa sẽ cố gắng hết sức để thằng Tám sớm được đoàn tụ và qua bên đó tiếp tục điều trị. Tiễn nhau nơi sân bay, người ta thấy được đôi tình nhân tuổi tác không còn trẻ nữa, nhưng quấn quýt bên nhau với những lời thề non, hẹn biển. Trước khi bước vào bên trong, con Hai còn ngoảnh lại :
– Anh nhớ chờ em nha anh Tám, xong xuôi mọi chuyện, em sẽ về với anh ! Em thương anh nhiều lắm !
Những cái vẫy tay, những dòng nước mắt sao bùi ngùi giữa buổi tiễn đưa ngập nắng hoàng hôn. Tình yêu thương của anh và em được nuôi nấng bởi chờ trông mong đợi, vượt thời gian và vượt cả không gian. Anh ở nơi đây, em về bên đó, nỗi buồn này vẫn chưa đục màu sông.
TV
