Nguyễn Công Danh và chí làm trai Nguyễn Công Trứ
Trần Minh Quang
(Nguồn: http://www.petrusky.de/images/Dokus/BaoDienDan/Chilamtrai.pdf)
Lời mở đầu:
Lần đi Bĩ vừa rồi với nhiệm vụ bắt nhịp cầu thân hữu cựu học sinh Petrus Trương Vĩnh Ký, tôi được hân hạnh mang về cho hội hai bức họa của thầy Vũ Ký do anh Ðạt gởi tặng. Tôi xin gởi lại cho Hội hai bức họa và xin kể lại đây ít kỷ niệm dưới mái trường củ với thầy, với các bạn thân trong thời niên thiếu, cũng như số phận hẩm hiu của một số học trò củ của thầy Vũ Ký.
Nhìn dòng chữ thầy viết tặng học trò thân Petrus Ký đang sinh sống bên Bĩ, lòng tôi thật bồi hồi cảm động, tôi nhớ thầy thật nhiều, cách đây đúng ba chục năm, hồi tôi còn học thầy môn Việt văn ở lớp Ðệ nhị B3. Nét chữ của thầy vẫn không thay đổi, y hệt như những dòng chữ thầy phê trong tập; hồi đó kiểu chữ này là Modell, phần đông học trò chúng tôi bắt chước viết theo cho đến ngày hôm nay.
Nhớ thầy Vũ Ký, tôi không quên nét mặt nghiêm nghị và khắc khổ của thầy. Thầy ít khi cười, nhưng mỗi khi thầy cười thì rất có duyên, lúc đó bọn học trò chúng tôi cũng vui lây. Nói vậy không phải là thầy khó, nhưng trông thấy thầy có quá nhiều nổi suy tư. Thầy hút thuốc nhiều lắm, mỗi lần thả khói cặp mắt thầy lim dim cuốn theo làn khói thuốc tỏa rộng trên trần nhà, có lẽ đó là niềm cảm hứng của thầy, của một nhà văn, nhất là khi thầy nói đến cuộc sống hào hùng, phóng khoáng của cụ Nguyễn Công Trứ. Lúc nào cũng vậy, sau khi bước vào lớp, vẩy tay cho phép học trò ngồi xuống, thầy quẳng cái cập da đen to nặng trĩu lên bàn, xong thầy rút từ túi áo trên gói Bastos ra, mồi một điếu thuốc, rít một hơi thật đã, hãm khói thật sâu vào buồng phổi, xong nhẹ nhàng thả khói ra bằng đường mủi. Lúc đó tôi và một số bạn bè bập bẹ hút thuốc, nhưng mùi Bastos của thầy nặng và hôi quá, chúng tôi chịu cũng không nổi.
Một hôm trong giờ học thầy vừa hút thuốc, vừa chấm bài, vừa run đùi; có lẽ thầy đang khoái chí vì đọc một bài hay của một học trò nào đó. Ở cuối lớp, chúng tôi vừa làm luận giải, vừa chuyền nhau điếu Ruby; bỗng nhiên thầy ngưng đọc bài, ngẫng đầu lên, có lẽ mũi thầy đã đánh hơi được mùi khói thuốc lạ, thầy không giận mà lại nhẹ nhàng hỏi:
– Ðứa nào hút thuốc ở dưới đó bây?
Rồi thầy lại cúi đầu vào chồng tập đang chấm dở, coi như không có chuyện gì xảy ra. Thầy cho điểm rấp …xộp, mặc dù là môn Việt văn, nhưng bài nào hay thầy cho đến 18 điểm, còn bài dở, lạc đề thầy vẫn cho điểm nâng đở. Có một kỷ niệm rất vui mà tôi không bao giờ quên được giửa thầy Vũ Ký và Nguyễn Công Danh, khi thầy dạy đề tài Nguyễn Công Trứ và Chí làm trai.
Như thường lệ, sau phần hỏi bài hay trả bài kiểm cho học trò, thầy bảo chúng tôi lấy tập vở chuẩn bị cho bài mới, và lần đó bài về cụ Nguyễn Công Trứ. Thầy đi lên bục bảng viết ngắn gọn “Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ”, xong thầy đọc hết bài qua một lần trước khi cho viết vào vở:
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kỳ,
Ðã sinh ra thì phải có chi chi,…
Thầy vừa đọc xong chữ “chi” sau cùng thì cả lớp phá lên cười, thầy ngừng lại một chốc chờ cho cả lớp im lặng, xong vừa định đọc tiếp, bổng ở dãy bàn trên có một tên chưa đưa tay xin phép đã hỏi ngay -đó là Nguyễn Công Danh, biệt hiệu “Danh Xía”- hắn làm ra vẻ trang nghiêm, lể phép hỏi:
– Dạ thưa “thày“, cái …chi chi của ông Nguyễn Công Trứ là cái gì vậy?
Cả lớp lại một lần nữa cười rộ lên đồng tình! Chờ cho sự im lặng trở về với lớp học, thầy nhẹ nhàng trả lời, không chút gì giận dử:
– Cái thằng chỉ nghĩ tầm bậy, mày nên biết là cái chi chi của ông rất quan trọng, phải học cho kỷ, năm nay thầy ra đề thi Việt văn đó!
Năm đó chúng tôi học rất kỷ “Chí làm trai” và thật sự…trúng tủ. Cũng nhờ Danh Xía phá thầy mà chúng tôi học rất nhẹ nhàng, không phải học thơ văn Cao Bát Quái, Nguyễn Khuyến hay các nhà văn thơ khác mà điểm môn Việt văn được rất cao…
Nguyễn Công Danh hay Danh Xía, biệt hiệu này do tay Trần Văn An, con ông Ðại tá Xồi Quân Vận đặt cho hắn, có lẻ tại hắn hay xía vào chuyện người khác, hay vì hàm răng của hắn đưa ra như mái hiên? Trong những năm đệ nhất cấp, An, Danh Xía, Phạm Công Chánh hay Chánh cao bồi, Dương Quan Minh và tôi là bộ năm! Chỉ có An , vì con nhà giàu, đi học có xe đưa rước đến nơi đến chốn, nên ít tham dự các buổi dợt banh với chúng tôi.
Sau giờ học hay những giờ trống vì thầy cô nghỉ, chúng tôi hay đạp xe ra sân vận động Lam Sơn sau trường đá banh, lắm lúc quên cả giờ về. Mê chơi, sợ mất xe, chúng tôi hay khóa xe chung vào nhau, có hôm cởi áo quần đồng phục để làm trụ thành, rồi lạc mất chìa khóa; thế là đưá đầu, đưá đuôi khiêng mấy chiếc xe ra đến tận đầu đường Cộng Hòa, ở đó có thợ sửa xe để chặt ống khóa. Nhiều bưả đi học về, tôi hay đến nhà Danh, nhà Chánh chơi, được má các bạn cho ăn một bưả cơm thì thật là sung sướng, hảnh diện. Nhà Chánh nằm trong ngỏ hẻm lớn sau rạp hát Nguyễn Văn Hảo, thỉnh thoảng chúng tôi bày khung thành trước nhà Chánh đá banh, lúc đó đường chưa tráng nhựa, còn trải đá nên thường sút móng chân, trầy đầu gối. Nhà Danh thì ở trong xóm nghĩa địa bến xe Nguyễn Cư Trinh, giang hồ đặt cho cái tên là xóm Mã Lạng, nơi tập trung dân đâm thuê, chém mướn. Có lẻ ở đó Danh cũng hấp thụ được chút ít mùi giang hồ, nên khi mở miệng đầu tiên là Ð.M.. Danh Xía rất giỏi toán, trong suốt bảy niên học, năm nào cũng hạng nhất hay hạng hai môn toán và là học trò cưng của cô Khả, đệ tử “ruột” của thầy Thử, thầy Biên. Năm nào hắn cũng được lảnh phần thưởng và đậu Bình trong các kỳ thi Tú Tài. Có tài thì cũng có tật, hắn rất tếu lâm, hay phá thầy cô. Hồi lớp Ðệ lục hắn chọc thầy Huấn qua câu đầu giới thiệu thầy Mẩn Tử …, qua Ðệ ngủ hắn phá thầy Thẩm Túc giáo sư Pháp văn với “Demain Matin”, thầy Thái Chí với sự tích chó “tò li… tò le”, với “sông Sài Gòn, sông bao…”.
Năm Ðệ nhất, biến cố Tết Mău Thân làm những thằng ở khít tuổi động viên như chúng tôi chán nản học hành; những thằng bạn lớn hơn một hai tuổi đã tình nguyện hết vào quân đội. Có tên đi Không Quân, có tay đi Biệt Kích, ai giỏi Sinh Ngử thì đi làm thông dịch, có thằng chờ ngày nhận giấy nhập ngủ thì đi trình diện ở trường vỏ bị Thủ Ðức. Chiến tranh xãy ra ngay trong lòng thành phố Sài Gòn. Ðường đi đến trường dọc từ Ngả bảy đến cuối đường Cộng Hoà mọc đầy lô cốt với hàng rào kẻm gai, từ trong chỉa ra những họng súng đại liên lúc nào cũng sẳn sàng nhả đạn. Những thằng bạn bị động viên trước đó đã nằm xuống như Nguyễn Thành Mạc, tay thủ môn xuất sắc của lớp tôi. Thằng Nhựt, thằng Nhàn vừa đậu Tú tài I đã nhận lệnh nhập ngủ của trường bộ binh Thủ Ðức. Dù là bạn rất thân, nhưng tụi nó không về thăm tôi, thăm trường, phải chăng vì mang mặc cảm bị bỏ rơi ?
Cũng may cho tụi tôi là năm đó vì trường học đóng của dài dài, nên kỳ thi Tú tài II cuối năm được cắt nửa chương trình và chúng tôi tất cả đều đổ đạt. Danh Xía, nhờ siêng năng, giỏi toán nên đậu Bình, sau đó can đảm nhảy qua Ðại học Khoa học. Thằng An đi du học bên Mỹ; Chánh cao bồi, Minh củi du học bên Ðức; Minh đen vào Y khoa, còn tôi thì học dở ham chơi, nên tạm lánh thân tu hành tại Ðại học Vạn Hạnh, chờ ngày tình nguyện vào binh chủng Hải Quân. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không còn gặp nhau nữa…
Năm 1980, tôi gặp lại Minh trong trại cải tạo Hàm Tân. Thằng bạn nối khố của tôi! Mới ngày nào hai đưá còn cùng khiêng xe đạp đi cắt khóa, bây giờ cả hai đều nằm trong rọ Cộng sản. Hai thằng đau khổ nhìn nhau không nói nên lời. Minh kể cho tôi nghe, sau khi đău Tú tài II, thi được vào Ðại học Y Khoa; với thật nhiều ý chí, gần đạt được mục tiêu, nhưng chỉ một lần thi rớt đã bị gọi đi Thủ Ðức. Dầu sao nhờ có những chứng chỉ y khoa, hắn được theo nghành trợ y. Mới vài năm lính mà giờ đã phải vào tù, lúc đó là năm thứ năm “Ðại Học máu”.
Tôi gặp lại Danh sau mười hai năm kể từ ngày rời xa mái trường thân yêu, mỗi đưá một nơi ! Danh cũng như xưa, ốm nhom, đen đúa, râu mép lưa thưa lún phún không đủ để che dấu hàm răng vẫn chưa được gò dũa. Hai thằng nhìn nhau ngở ngàng. Tôi thì sau sáu năm cải tạo, được thả ra, người như bộ xương cách trí, chỉ còn 45 kg; nắng Hàm Tân đốt cháy da người đến nay vẫn chưa nhả, vợ con đi cả rồi, chỉ còn đơn thân độc mả, cả ngày cởi chiếc xe đạp lộc cộc đi vòng thành phố để vơi nổi nhớ nhung. Danh không khá hơn tôi bao nhiêu, hắn vừa tậu được chiếc xe bán thuốc lá cách đây không lâu, vừa bán thuốc lẻ, vừa bán rượu đong để kiếm chút đình tiền chợ. Vợ thì vừa lo cơm nước vừa chạy hàng, Danh thì vừa ẳm con mới 6 tháng trên tay, vừa bán hàng. Hắn kể cho tôi nghe, sau khi đậu Tú tài II hạng Bình, hắn ghi danh vào Ðại học Khoa Học đeo đuổi tiếp những phương trình toán học, với cái mộng làm giáo sư Toán đứng trên bục bảng cùng học trò giải những bài toán khó. Ðeo đến năm cuối thì trượt. Lúc bấy giờ cường độ chiến tranh lên cao, sau Mùa hè đỏ lửa thì Danh bị gọi đi trình diện Thủ Ðức. Cũng may nhờ những chứng chỉ Ðại học Khoa học, hắn được chọn nghành Công Binh. Ra trường chẳng được bao lâu, vì phải học thêm mấy khóa chuyên môn ở Bình Dương thì Cộng Sản đã vào. Khôn ngoan dấu tông tích, trở về xóm Mả Lạng Danh khỏi phải đi tù. Những năm đầu tiên, lúc phong trào vượt biên lên cao, Danh cũng đi buôn bán dụng cụ máy móc cho tàu ghe vượt biên để chờ cơ hội. Nhưng số trời đành chịu, sau bao lần chạy trốn trật vuột, bị lường gạt, tiền mất tù mang, hắn muộn màng đi dến quyết định lập gia đình, sống ẩn thân chờ thời.
Từ ngày gặp nhau, chiều nào tôi và Danh cũng ngồi bên xe thuốc lá lai rai vài xị rượu thuốc để quên đời. Có lần tôi hỏi Danh:
– Mày còn nhớ hồi Ðệ nhị, mày chọc thầy Vũ Ký với “cái chi chi” của Nguyễn Công Trứ không?
Danh trả lời là hắn không bao giờ quên được thầy Vũ Ký, vì nhờ thầy rầy rà mà năm đó hắn chỉ học nhẹ nhàng một bài một thôi cho cả năm và …trúng tủ; bây giờ ngao ngán chán đời, hắn còn thêm:
– Nếu thầy Vũ Ký dạy tao kỷ thêm bài lúc Nguyễn Công Trứ về già, thì giờ đây tao đở phải bon chen!
Tôi hỏi Danh là câu gì, thì hắn ngân nga:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”
Sau hơn một năm chờ đợi, cuối cùng tôi cầm đươc tờ giấy xuất cảnh trên tay. Sung sướng tôi định chiều hôm đó sẽ đến khoe với Danh, nhưng chợt nghĩ, thằng bạn mình bây giờ thất chí đến như vậy, nếu biết được chắc hắn sẽ buồn lắm. Giử bí mật cho đến khi chỉ còn vài ba ngày trước khi lên máy bay, chiều đó tôi mua nhiều đồ nhậu mang đến, Danh rất ngạc nhiên, nhưng chắc chắn cũng đã đoán ra được khi thấy tôi lấy từ túi xách ra chai Napoléon Saint-Remi, thứ rượu mà hắn thích nhất, vì thường khi nhấp một ly rượu thuốc hắn vẫn hay ao ước một ly Remi mà lúc còn trong quân ngủ hắn đã uống pha với nước dừa xiêm. Hắn không hỏi gì về vụ xuất cảnh của tôi cả mà chỉ nói “tao nhậu say với mày đêm nay”. Tôi mời vợ Danh ra ngồi chung với nhau, con hắn lúc đó đã biết đi rồi nên không còn phải ôm giử nữa. Chúng tôi ngồi nhậu từ từ, nhâm nhi từng hớp rượu ngon, vừa tâm tình nhắc lại chuyện xưa, chuyện khổ, chuyện vui trong đời… Chai rượu tây tuy thật ngon, nhưng quá nhẹ, không đủ sức làm cho chúng tôi say. Ðến nửa đêm, vợ Danh bắt đầu dọn quán, chúng tôi chuẩn bị chia tay; tôi mới nói với Danh là ngày mốt tôi sẽ lên máy bay sang Ðức đoàn tụ với vợ con. Thoáng thấy mắt Danh ướt ướt, hắn ôm vai tôi, hai thằng choàng vai nhau như đôi tình nhân, im lặng, mổi đứa một suy nghĩ; tôi vừa buồn, vừa vui, nhưng Danh chắc chắn đang buồn lắm, tương lai mịt mờ xa mút. Không nằm vô dạng HO, tiền bạc không có thì làm sao còn hy vọng ngày nào có thể
vươn lên được!
Sau khi qua Ðức đoàn tụ gia đình, tôi gặp lại Chánh cao bồi, Nguyễn Phước Thọ, Dương Quan Minh, Ðổ Quang Minh…. Những thằng bạn củ Petrus Ký ngày nào, đứa qua sớm đổ đạt thành danh, thằng qua trể lở làng phải cày hai ba ca, làm hai ba Jobs…. Dàu vậy những nổi nhọc nhằn của chúng tôi làm sao sánh bằng nổi đau khổ của bạn Nguyễn Công Danh!