Tháng ngày xa xưa…

Thầy sinh ra và lớn lên ở Hà nội.

Năm 1954, Thầy rời xa thành phố 36 phố phường của một thời lãng mạn đầy mơ mộng của Khái Hưng, Nhất Linh vào năm vừa 16 tuổi. Thầy theo cả  triệu người rời bỏ miền Bắc gió bấc, mưa phùn, di cư vào Nam.

Vào Saigon, các túp lều vải do Liên Hiệp Quốc viện trợ, được dựng lên ở các cánh đồng ngoại ô thành phố như Ngả Tư Bẩy Hiền, Phú nhuận,… nơi tạm trú cho người tị nạn. Các trường học ở Hà Nội cũng được các trường ở Saigon mở rộng vòng tay đón nhận như thầy cô học trò tiểu học Trần quí Cáp tiếp tục giảng dạy, học tập tại trường Tôn Thọ Tường quận Một, trường nữ Trưng Vương được trường Gia Long nhận, trường nam Chu văn An nhận một số phòng học trong trường Petrus Ký. Thầy Lưu tiếp tục theo học trường Chu văn An, trong trường Petrus Ký. Khoảng sau vài năm, các trường di cư vào Nam đã được chính phủ xây cất cho các cơ sở riêng biệt. 

Sau bậc trung học, trước ngã rẽ: toán hay âm nhạc, Thầy Lưu đã chọn ngành sư phạm môn toán. Ra trường và sau ba năm dạy trường trung học Kiến Hòa (Bến Tre), Thầy về dạy môn toán lớp 12 tại trường Petrus Ký từ năm 1965.

Niên khóa 1969-1970 Thầy Lưu dạy toán lớp 12 B6 mà tôi là một trong hơn 50 học trò vốn vẫn thường được gọi là rường cột, tương lai của quốc gia? Trong lớp học, Thầy Lưu vẫn giữ phong cách người Hà Nội, điềm đạm, khá kín đáo nên không bao giờ Thầy bộc lộ nóng giận, to tiếng. Có lẽ cũng phần vì trong lớp học, ngôn ngữ chính của Thầy là toán, chỉ cần sự chính xác, không thể dùng “tham sân si” để giải phương trình ?

Sau trung học tôi không có dịp trở về trường cũ Petrus Ký dù theo học ĐH Khoa học kế bên cạnh. Đất nước vẫn chìm đắm trong chiến tranh cho đến ngày 30/4/1975, cả miến Nam như đảo lộn, mọi trật tự kinh tế, văn hóa bị xóa sạch, chiến tranh biên giới  lại nổ ra. Hoang mang nhiều người vượt biển trong sợ hãi để tìm quê hương mới!

Bao năm gặp lại thầy cũ ở Melbourne như có duyên…

Khoảng năm 1998, tình cờ đến dự tiệc sinh nhật con gái anh Kiều Tiến Dũng, tôi gặp lại Thầy Lưu cùng Cô Thịnh. Thầy không thay đổi nhiều, người vẫn mảnh khảnh, vẫn phong cách từ tốn. Thầy cho biết gia đình qua định cư ở Melbourne từ năm 1978, và tiếp tục dạy toán tại một trường trung học Công giáo ở ngoại ô phía đông Melbourne. Nghề giáo ở Úc tương đối nhàn nhã, lương bổng cũng khá, không phải lo xoay sở như ở Việt nam. Lúc gặp Thầy, tôi còn đang làm cho Wang, một công ty computer đang trên đà tụt dốc không phanh. Thầy Lưu  đang chú tâm computer nên Thầy trò hăng say chuyện trò, không phải chuyện cũ mà về computer.

Một thời gian sau gặp lại Mạnh, bạn cũ Petrus Ký. Mạnh có con trai thứ hai đang học toán ở nhà thầy Lưu, Tôi cũng cho con gái đến nhà Thầy cuối tuần để kèm thêm về môn toán. Trước đó, cuối tuần con gái tôi còn học thêm tiếng Việt với cô Thịnh.

Năm tháng qua, Thầy  già đi, trò cũng phải già chứ trẻ mãi sao?  Nên mới lại có duyên gặp trong hội người “cao niên”…

Một dịp Thạch, học trò 12B6 Petrus Ký, từ Sydney đến Melbourne muốn thăm thầy Lưu. Cô Thịnh và Thầy đang tham gia nhóm ca trong hội Văn hóa người Việt cao niên ở Melbourne VSCA, hẹn gặp cả 3 học trò ở hội cho tiện. Cũng từ ngày đó tôi tham gia sinh hoạt văn nghệ ở VSCA, cùng anh Phương, Thạch, Dũng thành ban nhạc đệm hát, có hai bài tủ “Saigon đẹp lắm”, “Ghé bến Saigon” trình diễn không thua gì ai?

Năm ấy Thầy Lưu đã gần 80. Thầy rất thích ca nhưng cũng nhận ra không còn làn hơi mạnh như xưa. 

Một ngày Thầy và Cô gặp ở hội, kể lại với tôi chuyện Thầy bị té khi đang chờ Cô ở chợ, “Không hiểu sao đang đứng tôi lại tự nhiên té gập xuống?”. Sau đó sức khỏe về thể chất cùng tinh thần của Thầy xấu dần. Vài lần gặp sau, thường khi gặp lại hỏi “Anh có phải tên Tuấn không?”.

Dịch Covid lan tràn, tôi lại bận việc nhà, ít tham gia hội nên cũng không gặp Thầy Cô. Cách đây vài tháng cô Thịnh cho hay Thầy không còn nhớ ai, thường ngủ suốt ngày. Cho đến một ngày tôi nhận tin nhắn từ cô Thịnh “Tuấn Lan ơi! Thầy Lưu đã ra đi …”

Trên đỉnh bình yên.

Đám tang Thầy Lưu đơn giản, trang nghiêm. Trong chapel không còn chỗ ngồi, tôi và con gái đứng ở phòng ký sổ tang. Từ cửa nhìn vào, di ảnh Thầy Lưu giữa bàn thờ, phía dưới một vòng hoa duy nhất trong đám tang, cạnh bàn thờ cây đàn guitar nằm lặng lẽ trên giá, lùi về sau dịch về tay trái là  quan tài đã đóng kín.

Con gái của Thầy lên nói về người Bố, người Ông thương yêu, qua các giai đoạn thăng trầm từ Việt nam qua quê hương mới… Học trò TS Kiều Tiến Dũng nói lên ý chính câu tục ngữ có gíá trị cho muôn thế hệ “Không Thầy đố mày làm nên!”. Chị Yến hội trưởng VSCA nhắc lại các đóng góp quí giá của Thầy Lưu cô Thịnh. Màn hình cho chiếu lại các hình ảnh kỷ niệm của Thầy và gia đình với nhạc nền là các bản nhạc Thầy ưa thích. Cuối cùng là video Thầy cầm đàn, đứng ca một cách sôi nổi trước micro, một nữ cao niên hưởng ứng múa xoay vòng quanh…

Tôi nhớ lại có một lần Thầy chọn bài hát “Mùa xuân trên đỉnh bình yên” để Thầy ca trò đàn. Đây là môt bài khó ca nhưng Thầy thích và đã ca nhiều lần. Rồi tuổi tác đã không biết chìu theo lòng người, Thầy chỉ ca được vài đoạn, nghẹn giọng không thể ca tiếp, ánh mắt đã ngẩn ngơ, nuối tiếc như đã đánh mất điều gì mình vô cùng yêu thích!

Thầy ra đi khi Melbourne đang những ngày cuối đông, tia nắng ấm dịu dàng đã chen vào cơn gió lạnh. Thầy vượt qua được cơn mê do căn bệnh Alzheimer quái ác đã chịu đựng bao năm, cuối cùng Thầy đã lên đỉnh yên bình, nơi không hận thù, không chiến tranh, không còn chịu đựng nỗi thống khổ của thế nhân, nơi con người sống hòa vào thiên nhiên như hơi thở lẫn vào không khí, bước chân êm nhẹ như gió thoảng… Chỉ còn lại, khi ra đi Thầy đã để quên  niềm thương nỗi nhớ vô cùng cho bao người thân!

Đám tang Thầy Lưu – học trò KT Dũng đang vinh danh người Thầy

Nguyễn Anh Tuấn 12B6 (69-70)