Mùa Hè Ly Biệt
Phạm Văn Đình
(Nguồn: Đặc san 50 năm Petrus Ký 1973 – 2023)
Đã có nhiều ngôn từ nói về chuyện thời gian qua nhanh, một đi không bao giờ trở lại. Trong những ngôn từ ấy, có những câu thơ buồn êm ái của Vũ Hoàng Chương:
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa Thu đã sang
Buồn rơi dăm chiếc lá Thu vàng
Có những câu làm người đọc choáng váng như thơ của Tản Đà (Vèo trông lá rụng đầy sân, Công danh phù thế có ngần ấy thôi), và có những câu nhẹ nhàng bay bổng như thơ của Hoàng Hải Thủy – Dòng thời gian dài một cánh bay, Những ngày như lá tháng như mây.
Tôi cũng đã dài một cánh bay, 50 năm qua tôi chỉ bay đi mà không hề nhìn lại. Nhưng hôm nay, trong ngày Hè đầu tiên ở miền Bắc Texas, cũng là ngày ghi nhớ công ơn của những người Cha ở Hoa Kỳ, con cháu cũng mượn cơ hội đó để vượt đường xa về xum họp, tôi bồi hồi rung động, và tôi nhớ lại thời điểm này của năm mươi năm trước – Mùa Hè 1973, mùa mà những cậu học sinh 17 – 18 tuổi thời đó giã từ tuổi ấu thơ để đi vào miền giông bão. Nếu gọi đó là Mùa Hè Ly Biệt thì chắc cũng không xa sự thật là bao!
Tình thực thì tôi không nhớ những ngày cuối ở Trường Petrus Ký như thế nào, bạn bè vẫn còn đầy đủ chung quanh, có nghĩa là chưa ai phải đi Đồng Đế, Quang Trung, hay Thủ Đức, nhưng gần như chắc chắn chả người nào bình tâm. Tuy lệnh tổng động viên (từ tuổi 17) đã được rút lại sau Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), nhưng ai cũng biết đó chỉ là tạm thời, vì chiến tranh ngày càng khốc liệt.
Cùng lúc với áp lực của tuổi đôn quân là áp lực của kỳ thi Tú Tài 2 năm đó, chỉ sau ngày bãi trường khoảng một tháng, đó cũng là kỳ thi viết cuối cùng, và nếu rớt thì sẽ được Thủ Đức vớt.
Kể cũng lạ, thế hệ chúng tôi đã chứng kiến nhiều chuyện “cuối cùng” – năm 1966 khi vào trường Petrus thì cũng là năm cuối cùng của kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, đến năm 1972 thì chúng tôi thi Tú Tài 1 cuối cùng, năm sau đó là kỳ thi viết Tú Tài 2 cuối cùng. Năm 1973 cũng là năm cuối cùng của Học Bổng Quốc Gia, sau đó vì hết tiền hay vì lý do nào đó thì chương trình này đã chấm dứt. Năm 1973 cũng là năm mà Bộ Giáo Dục mở cửa cho bất cứ ai đậu từ Bình Thứ trở lên, không nằm trong tuổi động viên (sinh năm 1955 hay sớm hơn), không có tiền án, và gia đình có phương tiện thì được đi du học tự túc, muốn đi xứ nào cũng được, miễn là xứ đó năm trong danh sách của Nha Du Học – trong đó có Anh, Pháp, Ý, Đức, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Tây Ban Nha … vân vân. Trước đó, Nha Du Học không cho đi du học ở Pháp và Ý vì lý do chính trị. Nói một cách khác, năm 1973 là năm đầu tiên và cũng là năm cuối cùng mà Bộ Giáo Dục và Nha Du Học nới lỏng gọng kềm, sang năm 1974 thì chỉ còn con ông cháu cha hay là những người mua được cả ông lẫn cha mới có thể cho con cháu họ đi du học. Viết đến đây, xin được nhắc đến một khía cạnh không công bằng thời đó – chính quyền tính tuổi dựa theo năm sinh chứ không dựa vào ngày, tháng, và năm sinh như những quốc gia Âu Mỹ. Đại khái là dưới mắt chính quyền thời đó, một người sinh ngày 31-12-1954 thì vẫn già hơn người sinh ngày 1-1-1955 một năm, mặc dù trên thực tế tuổi của hai người chỉ xê xích nhau tối đa là 24 tiếng. Vì vậy mà đã có bao nhiêu nam sinh phải đầu quân, tuy rằng họ thực sự chưa tròn 18 hay 19 tuổi. Trở lại chuyện thi Tú Tài 2 năm 1973, với nhũng người chân chỉ hạt bột, hay là có phương tiện học thêm ở những lớp luyện thi, ở trung tâm văn hóa Pháp, ở hội Việt Mỹ, chưa nói đến chuyện trời phú cho họ một trí thông minh tuyệt vời – thì có lẽ, chuyện thi cử của họ chỉ là trò trẻ, gần như chắc chắn là họ thi đậu. Riêng đối với những cậu học trò mê gái hơn ham học, thích “làm thơ yêu em” hơn là “giải toán lý hóa”, thì chuyện thi cử có khác chi một trò chơi sấp ngửa – Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Thử xem con tạo xoay vần ra sao.
Tôi và một người bạn thân cùng bị bệnh mê gái, ban ngày thì cúp cua đi tán gái, buổi tối thì lại bù khú với nhau bên tách cà phê, tâm sự với nhau về những cô nàng mà mình nghĩ rằng đang yêu mình, hay sắp sửa yêu mình. Toàn là chuyện tưởng bở, dĩ nhiên!
Thường hai thằng đậu xe ở bên trường đại học khoa học, sau đó từ bãi đậu xe Petrus trèo tường sang lấy xe đi hành quân ở Trường Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Bá Tòng, Thánh Linh, Thiên Phước, etc. Riêng trường Bác Ái thì tuy chỉ cách trường Petrus Ký chưa đến nửa cây số nhưng tụi tôi không hề bén mảng đến, tại vì hai đứa tôi nghĩ rằng con gái Việt Nam vừa đẹp vừa đa tình hơn gái người Hoa? Hay tại vì là Trường Pháp kín cổng cao tường quá nên tụi tôi khớp?
Một hôm, tôi bị bắt quả tang đang trèo từ đại học khoa học về lại khuôn viên Petrus, tôi bị thầy Hiệu Trưởng (Nguyễn Minh Đức) lúc đó đang dạy Pháp Văn ở lớp 12B2 phạt cấm túc, Thầy còn trừ một điểm hạnh kiểm của tôi để làm gương cho cả lớp. Sau lần bị phạt đó thì tôi không cúp cua nữa, vả lại mùa thi cũng cận kề, dù muốn dù không cũng phải học bài.
Chúng tôi thi ở Trường Bác Ái, và đó cũng lần đầu tiên tôi biết khuôn viên của trường ra sao.
Trong phòng thi thì tôi ngồi cạnh một người tên là Lê Ngọc Đỉnh (12B3). Đây cũng là một cái duyên vì trước đó tôi không biết Đỉnh là ai, và sau đó thì tôi cũng chưa bao giờ gặp lại Đỉnh. Nếu ai có biết Lê Ngọc Đỉnh hiện đang ở đâu xin vui lòng cho biết.
Thi xong thì kết quả kỳ được niêm yết ở cổng trường Petrus, may mắn thay, không một ai trong lớp 12B2 bị rớt cả, và đó một niềm vui lớn. Người đầu tiên mà tôi báo tin là Mẹ tôi, bà cụ tuy vui ra mặt nhưng chỉ nói vỏn vẹn một câu – Má lúc nào cũng cầu nguyện cho con.
Nhà tôi nghèo nên không có tiệc tùng ăn mừng chi cả, vẫn chỉ là một ngày như mọi ngày với bữa cơm thanh đạm, nhưng những đứa em tôi thì khoe tùm lum với cả xóm, có lẽ vì vậy mà tự dưng mấy cô hàng xóm nhìn tôi với cặp mắt nhiều thiện cảm hơn. Lại tưởng bở đôi chút nhưng đó là chuyện nhỏ, cái đáng nói ở đây là tôi vẫn còn vương vấn một người. Vài ngày sau, tôi đi báo tin cho người Em gái ấy. Gọi là “Em gái” vì … cô ta đã có người yêu!
Câu chuyện đơn giản như thế này – một sáng chủ nhật mùa Xuân 1973, tôi đi lễ ở Nhà Thờ Bắc Hà, nằm trên đường Lý Thái Tổ, cạnh hai tiệm phở Tàu Bay Tàu Bò, và đó cũng là lễ hai, bắt đầu khoảng 8 giờ sáng. Bình thường thì tôi đi lễ ở nhà thờ Đồng Tiến vì gần nhà hơn, và cũng rộng rãi khang trang hơn, nhưng không hiểu sao hôm đó tôi lại lang thang ra nhà thờ Bắc Hà.
Nhà thờ Bắc Hà thu hút nhiều con chiên hơn nhà thờ Đồng Tiến, vì lễ xong là con chiên có thể tạt ngay vào Tàu Bay Tàu Bò làm một tô xe lửa với tái nạm gầu gân sách cộng thêm nước béo hành chần. Cha phó xứ Bắc Hà thì vừa đẹp trai vừa giảng đạo Đặc San 50 Năm PK 23 rất hay, con chiên rủ nhau đi ngùn ngụt, đi lễ 8 giờ thì phải ra nhà thờ trước bảy giờ rưỡi thì may ra mới có chỗ ngồi, nếu không thì chỉ có cách đứng trong sân nhà thờ hay ở cuối nhà thờ. Sân nhà thờ khá nhỏ nên thường chật ních người, chỉ có vỉa hè đường Lý Thái Tổ ở cuối nhà thờ là may ra còn chỗ đứng, và định mệnh đã cho tôi gặp hai chị em nàng ở đó.
Cô chị hơn tôi hai tuổi, khá xinh xắn. Cô em xinh hơn cô chị, lại thua tôi một tuổi, giống hệt như câu ca dao “Gái hơn hai trai hơn một”. Cô chị đã nghỉ học, cô em thì học ở trường Thánh Linh, một trường trung học tư thục công giáo dành riêng cho nữ sinh, đồng phục của các cô là áo dài màu xanh biếc. Trường tọa lạc trên khúc đường Phan Văn Trị giữa hai đường Nguyễn Biểu và Trần Bình Trọng, gần nhà thờ Chợ Quán.
Sau cái duyên gặp gỡ đó thì tôi trở thành một con chiên ngoan đạo của Giáo Xứ Bắc Hà, chả cần bố mẹ nhắc nhở tôi cũng sẵn sàng đi lễ ngày chủ nhật, nhà nàng lại nằm trên đường đi học Petrus nên dễ dàng cho tôi ghé thăm mỗi tuần, những lần như thế thì cô chị thường đi ra đằng sau để cho hai trẻ thoải mái chuyện trò. Bà cụ nàng thì tôi ít khi gặp, nhưng nếu gặp thì bà chỉ vui vẻ nói “cháu ngồi chơi” rồi đi ra ngoài cho đôi trẻ tự nhiên. Thần tiên quá phải không?
Một hôm, khi tôi đến thì đã có một anh chàng tên Đức (và một người bạn của hắn) đang ca hát với nàng ở đó, tôi hơi khựng nên chỉ ngồi lại một vài phút rồi cáo từ. Mấy hôm sau, biết là tôi ghen nên nàng nhỏ nhẹ nói với tôi rằng – “Em chỉ coi anh như một người anh, vì giữa em với anh Đức, ngoài tình bạn ra còn có một tình cảm khác nữa”.
Trời ơi! Đúng là Thần tiên gẫy cánh đêm xuân!
Một lần nữa tôi bị thất tình, lại cũng khoảng hai tháng trước khi thi Tú Tài, giống hệt năm ngoái!
Nhưng có lẽ nhờ vậy mà tôi thi đậu, hai tuần đầu buồn kinh khủng, tuần thứ ba cũng chưa thể nguôi nhưng bắt đầu nhận thức được áp lực của mùa thi, tuần thứ tư và mấy tuần kế tiếp – cúi đầu học để quên đời và quên người.
Trên một góc cạnh nào đó, đàn bà con gái được sinh ra để làm các anh giai đau khổ, nhưng họ cũng đem hạnh phúc đến cho các anh giai, vì thế mà Nhạc sĩ Từ Công Phụng, trong một buổi trình diễn văn nghệ, trước khi hát bài “Tạ ơn em” đã chân thành nói rằng – Tôi xin cám ơn tất cả những người đàn bà đã đi qua đời tôi, vì họ đã cho tôi biết thế nào là tình yêu, là đau khổ, là hạnh phúc!
Thời đó, tôi chưa nghĩ ra được chuyện cám ơn Em nhưng vì có chút duyên với nhau nên tôi muốn nói lời từ giã trước khi lên đường. Đêm cuối cùng ở Sài Gòn, một người bạn đưa tôi đến nhà Em, tôi bước vào, Em dàn dụa trong nước mắt – Tại sao ngày mai anh đi mà bây giờ anh mới nói?
Trong thoáng chốc, tôi chợt nhận thấy rằng – Giữa Em và tôi, ngoài tình bạn ra cũng còn có một tình cảm khác nữa!
****
Mùa thi 1973 đã không chấm dứt sau kỳ thi Tú Tài, tiếp theo đó là những cuộc thi tuyển vào trường Kỹ Sư Phú Thọ, trường Đại Học Sư Phạm, người nào may mắn đậu cao một chút thì đi xin học bổng, hay là xin đi du học tự túc, bận bịu kinh khủng, rồi thì đùng một cái, chúng tôi ly biệt nhau không kèn không trống, đó thì chúng tôi, những người bạn đồng môn Petrus từ suốt bảy (7) năm đã bung ra bốn phương trời, mạnh ai người ấy sống, thân ai người ấy lo, tưởng như sẽ không bao giờ gặp lại.
Thế rồi, như một phép lạ, chúng ta tìm lại được nhau sau mấy mươi năm, tuy không đầy đủ trọn vẹn nhưng được người nào hay người nấy. Một người bạn đã viết cho những phu nhân rằng – Chúng tôi bạc đầu rồi mới tìm lại được nhau, xin các phu nhân tha thứ nếu đôi khi, chúng tôi có vẻ thương bạn hơn yêu vợ”.
Nói gì thì nói, chúng ta sống chỉ một lần, tuổi thanh xuân không bao giờ trở lại, và khoảng thời gian đẹp nhất vẫn là khi chúng ta mặc quần áo đồng phục, mỗi ngày nhìn thấy nhau, cùng trong một lớp học, cùng dưới một mái trường. Thời gian ấy qua nhanh nhưng dư âm còn vương vấn suốt đời.
Phạm Văn Đình
