Chương mở đầu
TINH THẦN DÂN TỘC
Cái mái của ngôi nhà văn hoá Việt Nam
♦
A. Khái niệm
Bản thân vấn đề đã có tính cách trừu tượng, nên trước hết chúng tôi xin bàn qua về một số khái niệm để nội dung vấn đề được sáng tỏ thêm khi dẫn các sự kiện lịch sử hầu xét đến quá trình hình thành và phát triển của tinh thần dân tộc Việt Nam.
- Xác định nội dung danh từ “tinh thần dân tộc”
Tinh thần dân tộc là toàn thể sinh hoạt tâm linh như ý thức về tập thể (dân tộc), tình yêu đối với tập thể ấy cùng ý chí sinh tồn của cả tập thể kết tinh từ lâu đời rồi thể hiện trong nếp sống vật chất và tinh thần, đồng thời biểu lộ được cá tính, khuynh hướng cho đến quan niệm về nhân sinh, vũ trụ của một dân tộc với những nét cá biệt khiến dân tộc ấy khác với các dân tộc khác.
2, Yếu tố cấu thành
Như vậy, tinh thần dân tộc có ba yếu tố cấu thành:
- Yếu tố tình cảm: Đó là tình yêu đối với đồng bào, đất nước, (cảnh trí quê hương) và di sản của tiền nhân để lại, đặc biệt là di sản tinh thần như lịch sử, ngôn ngữ, tập tục, luân lí, tín ngưỡng v.v… Một cá nhân sống càng lâu trên đất nước mình, một dân tộc càng có lịch sử lâu dài thì tình cảm này càng sâu đậm.
- Yếu tố ý chí: Đó là ý muốn sống quần tụ và phát triển mãi mãi. Đây là sức mạnh tâm lí thúc đẩy một dân tộc vượt mọi trở lực, đương đầu với mọi đe doạ để sinh tồn và phát triển. Thí dụ: tinh thần bất khuất chống ngoại xâm.
- Yếu tố lí trí: Đây là nhận thức về đoàn thể chủng tộc của mình cùng giá trị của đoàn thể chủng tộc ấy. Nhận thức này đưa đến niềm tự hào dân tộc và cắt nghĩa tại sao dân tộc nào cũng có những huyền thoại về nguồn gốc cao cả thần bí của mình (1). Yếu tố lí trí cũng tạo nên ý thức quốc gia, và cùng với lòng tự trọng tự ái cá nhân, tạo nên lòng tự ái quốc gia, mà nếu bị va chạm tổn thương, sẽ bùng nổ mãnh liệt, gây nên hậu quả khôn lường.
3. Ý thức quốc gia
Đó là sự thể hiện tinh thần dân tộc ─ ở đây yếu tố lí trí là chủ yếu ─ thành ý thức tổ chức đoàn thể (toàn dân) để sống vững mạnh. Như vậy ý thức quốc gia có quá trình hình thành lâu hơn (tức có sau) tinh thần dân tộc, đủ để kết hợp ba thành tố: một chính quyền độc lập tự chủ đủ khả năng cai quản một lãnh thổ trên đó một đoàn thể dân tộc được sống yên vui. Gộp tinh thần dân tộc và ý thức quốc gia mà giữa hai khái niệm này có sự liên hệ mật thiết, ta có thể gọi chung là tinh thần quốc gia dân tộc bao hàm ý thức độc lập tự chủ.
4. Văn hoá dân tộc
Là trình độ sinh hoạt chung của một dân tộc đã biết sống quần tụ thành đoàn thể có tổ chức, thể hiện ở sinh hoạt vật chất như thức ăn, trang phục, nhà ở, đồ dùng trong đời sống hàng ngày, kể cả trong sản xuất và thể hiện trong sinh hoạt tinh thần như ngôn ngữ, tập tục, luân lí, tín nguỡng v.v… Như vậy, dân tộc nào cũng có văn hoá riêng, dù có thể khác nhau ở trình độ cao thấp.
B. Các giai đoạn hình thành và phát triển
- Giai đoạn khởi thuỷ (từ đầu đến 111 tr. Tl.): tinh thần quốc gia dân tộc hình thành
Thoạt tiên, cũng như bất cứ cá nhân trong đoàn thể con người nào, mỗi cá nhân trong đoàn thể người Việt cũng nhận thấy phải cộng tác với các thành viên khác mới có thể vượt qua được những trở lực thiên nhiên để sống còn: đốn cây để làm nhà che mưa nắng (khi hang động tự nhiên không còn đủ chỗ ở), để đóng bè qua sông, giết thú dữ để tự vệ hoặc để lấy thịt ăn, lột da may quần áo che thân. Rồi đoàn thể con người này chiến đấu chống lại đoàn thể con người khác khi địa bàn sinh hoạt bị xâm phạm (săn thú, hái trái cây lấn sang địa phận của nhau). Thế là có sự tranh chấp, xung đột, và ý thức tập thể nẩy sinh và càng ngày càng củng cố. Sự đoàn kết trở nên một nhu cầu không thể thiếu được, cuộc sống cá nhân cô lập là không thể có (2).
Khi nhân số của một tập thể sinh sôi nẩy nở, con người dần dà có thêm nhận thức về huyết thống, giống nòi, tổ tiên, nguồn gốc; mối liên hệ tình cảm ràng buộc các phần tử của một tập thể lại với nhau phát sinh và ngày càng sâu đậm. Lâu dần khi nguồn gốc thần bí được truyền tụng và tin tưởng thì có thêm niềm tự hào về dòng giống của mình như ở dân tộc Việt là con Rồng cháu Tiên.
Nông nghiệp phát triển nhờ dụng cụ sản xuất ngày một cải tiến, nền kinh tế cũng phát triển theo; khi nhân số cứ tăng mãi lên thì địa bàn sinh hoạt cũng mở rộng thêm mãi ra. Rồi va chạm, đụng độ đưa đến chiến tranh thôn tính giữa các thị tộc, bộ lạc khiến phạm vi tập thể ngày càng lớn (3). Nhu cầu điều hành công việc chung ngày càng phức tạp đưa đến việc tổ chức bộ phận chuyên quản trị và xử trí những công việc chung đó, sau này gọi là chính quyền, nhà nước v.v… Đến đây là vượt qua giai đoạn suy tôn một thủ lãnh ở tập thể nhỏ như tộc trưởng của thị tộc, tù trưởng của bộ lạc để suy tôn tù trưởng của bộ lạc lớn mạnh nhất làm “vua” một “nước” gồm nhiều bộ lạc khác như Hùng vương, tù trưởng của bộ lạc Văn Lang làm vua cả nước Văn Lang gồm thêm 14 bộ lạc khác nữa. Đứng đầu các bộ lạc nhỏ hơn ấy có thể là các em vua Hùng được anh phái đến (theo truyền thuyết) hoặc là các tù trưởng đã qui phục được vua Hùng cho giữ nguyên địa vị cũ. Tầng lớp người nắm giữ quyền lực xuất hiện gồm các lạc hầu, lạc tướng, quan lang… phân biệt dần với quần chúng bị trị: bộ máy chính quyền thành hình dần, dù còn thô sơ.
Sau những cuộc chiến tranh thôn tính, những sự qui phục để được sống yên ổn, phải có chất keo dính mọi phần tử trong các tập thể khác nhau lại. Đó là ngôn ngữ để thông cảm, để kêu gọi sự cộng tác, là tập tục, tín ngưỡng để hoà hợp mọi người trong sinh hoạt chung đụng bình thường. Yếu tố văn hoá trong cộng đồng ngày càng trở nên quan trọng. Hùng vương thứ mười tám rượu chè, bỏ bê việc nước, đánh mất lòng dân nên bị Thục Phán đánh bại. Nước Văn Lang phải sát nhập vào nước Tây Âu (hay Âu Việt) để trở thành nước Âu Lạc lớn mạnh hơn, dưới sự lãnh đạo của vua mới có tài hơn, đủ để đánh bại quân Tần xâm lăng và chống Triệu Đà (4). Sở dĩ Thục Phán sát nhập nước Văn Lang mà không gặp sự chống đối mạnh mẽ và kéo dài là vì hai bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt cùng thuộc nhóm Bách Việt, có cùng nền văn hoá.
Đến khi Triệu Đà dùng hôn nhân để thực hiện âm mưu gián điệp, thắng được An Dương Vương, chiếm được Âu Lạc, hợp với quận Nam Hải thành nước Nam Việt rồi lên làm vua thì nước Việt coi như đã bị Hán thuộc một phần. Sở dĩ nói “một phần” vì Triệu Đà tuy là người Hán, ông ta hùng cứ lâu năm ở phương Nam, vốn đã có ý đồ chiếm Âu Lạc để lập một quốc gia riêng biệt, không phụ thuộc triều đình mẫu quốc phương Bắc. Vả lại các đời vua Triệu vẫn tôn trọng, duy trì tầng lớp quí tộc và mọi tập tục của các bộ lạc Việt, nên trong xứ không có sự chống đối mạnh mẽ, nhà Triệu mới trị vì được ngót một thế kỉ gồm năm đời vua (207-111 tr.Tl.) và chỉ sụp đổ khi bị nhà Hán xâm lăng thôn tính.
Khi nhà Hán thay nhà Tần lên trị vì Trung quốc mở đầu thời kì thống nhất ổn định lâu dài thì mưu đồ bành trướng của đế quốc Trung Hoa tiếp tục được thực thi; hướng về phương Nam thì đã có nước Nam Việt đã Hán thuộc một phần (có vua người gốc Hán, có chế độ quân chủ bắt chước Trung Hoa). Cơ hội đến khi Thái hậu của nước Việt là người Tàu gặp lại tình nhân cũ là sứ giả Trung Hoa sang dụ vua Việt về chầu hoàng đế Trung Hoa. Âm mưu của nhà Hán thôn tính nước Việt một cách êm ả cũng là âm mưu dâng nước Việt cho mẫu quốc của mẹ con Cù thị – Triệu Ai Vương, vấp phải sự chống đối quyết liệt của quan Thái phó Lữ Gia, đại biểu cho tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc Việt. Thế là cuộc chiến đấu của dân tộc Việt chống lại lòng tham vô độ của đế quốc phong kiến Trung Hoa lại tiếp tục và kéo dài hàng chục thế kỉ, đổ biết bao xương máu và nước mắt.
Có thể nói việc Lữ Gia làm hịch kể tội mẹ con Cù thị – Triệu Ai Vương bán nưóc, rồi giết họ cùng với sứ nhà Hán để lập người con của Triệu Minh Vương (Anh Tề) là Kiến Đức có mẹ Việt lên làm vua lãnh đạo cuộc chống Hán là lần đầu tiên trong lịch sử, ý thức quốc gia độc lập tự chủ ở giới cầm quyền lãnh đạo được chính thức tuyên bố bằng văn bản. Ý thức này thành hình hẳn hoi, trở nên một thực thể cố định từ đây và nêu gương cho các thế hệ sau noi theo mà tiếp tục tranh đấu giành lại cho được nền độc lập quốc gia. Đáng tiếc là bài hịch của Lữ Gia tố cáo tội phản quốc của mẹ con Cù thị – Triệu Ai Vương và hiệu triệu đồng bào đứng lên chống quân Hán xâm lược đã thất truyền, nên ngày nay ta không còn bằng chứng thành văn để biết được ý thức quốc gia của người Việt vào cuối thế kỉ II trước Tây lịch ra sao.
2. Thời kì Bắc thuộc (111 tr.Tl. – 938 sau Tl.): tinh thần quốc gia dân tộc bị ức chế
Dân tộc Việt nhận thấy mình còn thua kém người, nên một mặt tiếp tục cuộc tranh đấu giành độc lập, một mặt tiếp thu văn hoá của kẻ xâm lăng vì thấy nó quả có cao hơn văn hoá của mình. Sau chiến bại của Lữ Gia và những ngưòi cùng chí hướng với ông, đất nước Việt bị đế quốc Trung Hoa thôn tính, chia thành quận huyện và cai trị liên tục hơn mười thế kỉ. Các triều đại đế chế Trung Hoa thay nhau lên cầm quyền luôn luôn thực hiện chủ trương đồng hoá dân tộc Việt vừa bằng chiêu bài “khai hoá”, và bằng thủ đoạn cưỡng bức tàn bạo. Một mặt họ bóc lột trắng trợn về mặt kinh tế: bắt dân Việt lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, trầm hương…, xuống biển mò ngọc trai, tóm lại là bắt dân ta đem sức lực, tính mạng ra thu nhặt những sản phẩm quí của đất nước ta đem về Tàu, mặt khác họ bắt dân ta sống theo tập tục tàu: từ cách ăn mặc đến lễ nghi cưới hỏi, tang ma. Còn việc học ─ dĩ nhiên họ chỉ nhắm đào tạo một tầng lớp thư lại tay sai trong việc cai trị ─ là học chữ hán, sách hán. Tất cả là để người Việt dần dần quên văn hoá Việt, mất gốc Việt để trở thành người Hán (5).
Nhưng tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc Việt như ngọn lửa thiêng không bao giờ tắt. Những cuộc nổi dậy giành độc lập luôn luôn bùng nổ, dù thất bại đổ nhiều xương máu (Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng). Trong thời gian phải tạm nhẫn nhục với thân phận nô lệ, các thế hệ tiền nhân ta đã biến rủi thành may, một mặt vẫn un đúc ý chí tự tồn bất khuất, mặt khác biết thu nhận những cái hay trong văn hoá của kẻ thù để tự nâng cao trình độ, làm giàu cho văn hoá dân tộc và chờ cơ hội vùng lên.
3. Mở đầu thời kì độc lập (Ngô, Đinh, Tiền Lê – 938 -1010): tinh thần quốc gia dân tộc được củng cố
Năm 938, Ngô Quyền lập được chiến công Bạch Đằng giang thứ nhất, phá tan đạo quân xâm lăng tiên phong và giết viên tướng chỉ huy là thái tử nhà Nam Hán Lưu Hoằng Thao. Đây là kết quả sau cùng của một chuỗi dài những cuộc nổi dậy đẫm máu và nước mắt để giành độc lập và mở đầu thời kì xây dựng một quốc gia tự chủ; cái ách nô lệ mà đế quốc Trung Hoa đặt lên đầu lên cổ dân tộc ta đã hơn một ngàn năm, nay được gỡ bỏ.
Chiến thắng ngoại xâm rồi, Ngô Quyền lên làm vua, đặt chế độ và quan chức, định mở ra một triều đại quân chủ lâu dài cho đất nước. Nhưng ông mất sớm. Thiếu người lãnh đạo tài giỏi có công có đức thì tranh chấp nội bộ lại bùng ra. Sau nhà Ngô ngắn ngủi, nước Việt trải qua mối loạn 12 sứ quân; đây hẳn là di sản của tinh thần bộ lạc cát cứ khi không có vị tù trưởng nào lỗi lạc có đủ khả năng khống chế bao trùm tất cả. Rồi trải qua hai triều đại cũng ngắn ngủi nữa là Đinh và Tiền Lê cộng cả thày 72 năm, dân tộc ta mới tới được thời kì ổn định.
Trong khoảng thời gian đó, dân tộc Việt lại có thêm được bài học lịch sử cứ lặp đi lặp lại hoài: hễ trong nhà anh em lục đục thì lập tức ngoại nhân dòm ngó để thừa cơ hội xâm lăng. Lúc trước Kiều Công Tiễn giết chúa là Dương Diên Nghệ để cướp quyền, khi bị Ngô Quyền hỏi tội thi cầu cứu nhà Nam Hán, rước voi về giầy mồ. Sau này cha con Đinh Tiên hoàng đế bị ám sát, vua mới còn nhỏ, các quan trong triều tranh chấp quyền hành, thế là nhà Tống bên Tàu lại có dịp tái thực hiện mưu đồ thôn tính nước ta. May nhờ quân dân ta hồi đó vốn đã thấm tận xương tuỷ tai hoạ Bắc thuộc, nên đoàn kết xung quanh tướng Lê Hoàn để lập nên chiến công Chi Lăng thứ nhất, chém tướng Tàu là Hầu Nhân Bảo, đánh bại quân Bắc xâm lần nữa, giữ vững được nền độc lập còn non trẻ.
Tinh thần quốc gia độc lập tự chủ nay đã vững, ta đã tự tin ở ta, tin rằng nếu ta kiên quyết chiến đấu bất khuất thì chẳng kẻ cường địch nào chinh phục được ta và bắt ta phải làm nô lệ cho chúng.
4. Thời kì ổn định (Lí, Trần và đầu Hậu Lê – 1010 -1497): tinh thần quốc gia dân tộc được nâng cao và phát triển
Sau hai chiến thắng Bạch Đằng và Chi Lăng vang dội trước quân Bắc xâm truyền kiếp, dân tộc Việt giành lại và giữ vững được quyền tự chủ, quốc gia Đại Cồ Việt độc lập còn non trẻ vẫn chưa ổn định. Ba triều đại tự chủ đầu tiên quá ngắn. Họ lên nhờ võ công và trong việc tổ chức guồng máy nhà nước buổi đầu, họ chưa để ý đến chính sách văn trị.
Trong nước tinh thần sứ quân, ảnh hưởng rơi rớt của thời kì bộ lạc cát cứ vẫn còn. Người cầm quyền phải thị uy nhiều hơn thi ân. Hình phạt nặng và mang tính man rợ: bỏ tội nhân vào vạc dầu sôi, cho thú dữ ăn thịt (Đinh Tiên hoàng). Đến bạo chúa Lê Long Đĩnh giết anh cướp ngôi, sắc dục đến độ mắc bệnh phải nằm thị triều (sử gọi là vua Ngoạ triều), còn lấy việc thi hành nhục hình đối với đồng loại làm trò tiêu khiển: bắt tội nhân trèo lên cây rồi chặt đổ, tẩm dầu vào người rồi thiêu sống, róc mía trên đầu sư cho dao bổ xuống đầu trọc mà cười.
Lòng người lúc ấy hẳn rất mong mỏi có được một vị vua có đức thi hành chính sách nhân trị để thu phục nhân tâm. Li Công Uẩn là ngưới đáp ứng được lòng mong mỏi ấy. Ông xuất thân từ cửa chùa, là con nuôi của thiền sư Lí Khánh Văn, thấm nhuần giáo lí từ bi của đức Phật, trong lúc làm quan chắc được lòng các vị thiền sư là giới có học có đức, có ảnh hưởng lớn đối với dân chúng trong giai đoạn lịch sử lúc ấy. Cho nên trong cuộc vận động chuyển quyền êm thắm từ nhà Tiền Lê sang nhà Lí, chắc là giới thiền sư ─ đại biểu là sư Vạn Hạnh ─ đã đóng vai trò quan trọng.
Lên cầm quyền rồi, các vua triều Lí dùng văn trị, lấy đức cảm hoá lòng người để mưu cầu sự ổn định lâu dài cần thiết cho việc xấy dựng và bảo vệ đất nước. Song song với việc chỉnh đốn chính trị, vua Lí Thái Tổ trọng vọng giới thiền sư có công giúp nước khi chính quyền quốc gia độc lập còn thiếu nhân sự và kinh nghiệm trị quốc (6). Vua cho xây chùa, đúc chuông, lại sai sứ sang Trung Hoa thỉnh Tam Tạng kinh điển Phật giáo. Các vua đời sau bắt đầu chú trọng đến việc đào tạo lớp người có văn học cung cấp cho guồng máy chính quyền. Năm 1070, lần đầu tiên trong lịch sử, vua Lí Thánh Tông sai lập Văn miếu, tô tượng Chu công, Khổng tử và bảy mươi hai vị tiên hiền đạo Nho để thờ. Năm 1075, vua Lí Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên để chọn người có học ra làm quan (7) Năm sau ông lại mở Quốc Tử Giám tức viện đại học đầu tiên ở nước ta (8). Năm 1086, mở khoa thi vào Hàn Lâm viện văn học (9).
Hình phạt trong triều Lí cũng được giảm nhẹ, chắc chắn do ảnh hưởng giáo lí từ bi của đức Phật. Vua Lí Thái Tông tha cho hai em là Đông Chinh vương và Dực Thánh vương tội nổi loạn tranh ngôi báu với mình. Ông cũng tha tội làm loạn cho Nùng Trí Cao, lại còn cho làm quan chỗ cũ vì thương tình cha và anh y làm phản trước đó đã bị hành tội rồi. Vua Lí Thánh Tông thì truyền các quan phải giảm nhẹ hình phạt và chăm sóc tù nhân. Ông trỏ vào công chúa Động Thiên đang đứng hầu mà bảo các quan rằng ông thương dân như con để các quan lấy đó làm gương.
Nước Đại Việt (10) lúc ấy trên thì có vua sáng, dưới thì có tôi giỏi, thi hành chính sách nhân trị được lòng dân, nên khi nhà Tống lăm le xâm lăng nước ta lần nữa thì dù là nước nhỏ, ta đã có đủ sức mạnh và lòng tự tin để “tiên hạ thủ vi cường”, kéo quân sang đánh địch ngay trên đất địch để phá căn cứ và công cuộc chuẩn bị xâm lăng, cùng giằn mặt chúng trước. Đến khi quân Tống sang đánh báo thù, danh tướng Lí Thường Kiệt (người đã cầm quân sang đánh Tống trước đó) trong một lúc quân núng thế, đã nhờ oai thần linh để động viên tinh thần quân sĩ với bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đằng hành khan thủ bại hư!
Quả nhiên quân Việt đánh lui được quân Tống và giữ vững được bờ cõi. Bài thơ được sáng tác để đáp ứng nhu cầu “tâm lí chiến” khẩn cấp lúc ấy, nhưng đồng thời cũng biểu lộ niềm tin tưởng siêu hình trong ý thức quốc gia thời đó: Trời đã dành riêng giang san cho vua Việt, cũng là cho dân Việt, kẻ nào trái mệnh Trời mà xâm phạm, ắt sẽ bị thảm bại.
Niềm tin thiên thư định phận coi như yếu tố “thiên thời” trong ý thức quốc gia xuất phát từ đời Lí. Sang đời Trần, yếu tố “nhân hoà” thể hiện rõ ràng hơn. Ngay từ vị vua đầu tiên của triều đại này là Trần Thái Tông (1225-1258), quân Mông Cổ chiếm xong nước Tàu, lại giở trò xâm lăng Đại Việt. Trước kẻ thù hùng mạnh và hung bạo nhất thế giới lúc ấy, vua tôi nhà Trần không còn trông cậy vào đâu khác là vào toàn dân để kháng chiến. Giới cầm quyền lãnh đạo đất nước, giới chỉ huy quân sự khéo đối xử với nhân dân, với thuộc hạ để họ thấy có chung danh dự và quyền lợi phải bảo vệ. Cho nên khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, danh dự và quyền lợi chung bị tổn thương, tất cả đồng lòng chiến đấu chống giặc thù. Hội nghị Diên Hồng là viên ngọc sáng chói của tinh thần đoàn kết nhất trí quân dân chính trong lịch sử Việt Nam đã đưa tới kết quả là hai lần chiến thắng kẻ cường địch bạo tàn khiến chúng phải từ bỏ tham vọng thôn tính nưóc Việt. Bài “Hịch Tướng Sĩ” của Hưng Đạo đại vương cho thấy rõ chủ trương “đồng cam cộng khổ” để có được chất keo nhân hoà trong chính trị thời ấy:
“Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn; quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”
(bản dịch trích trong “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim).
Chiến công hiển hách đời Trần đã nâng cao tinh thần quốc gia dân tộc của người Việt lên môt bậc nữa với lòng tự hào về lịch sử vẻ vang của dân tộc mình. Thơ văn chữ hán đời Trần biểu lộ rõ ràng niềm tự hào ấy:
Chương Dương cướp dáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù,
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Quang Khải, bản dịch trích trong “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim).
Đến sông Bạch Đằng (…), đáy sông dáo chìm đắm, đầy gò xương chất chồng. Nghĩ hào kiệt đã quá vãng, than tung tích chẳng còn trông. (…) Đây là chỗ chiến địa buổi Trùng Hưng hai vua bắt Ô-mã-nhi và chốn cũ thủa trước họ Ngô phá Lưu Hoằng Thao đấy.
(Phú “Sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, bản dịch trích trong “Việt Nam Cổ Văn Học Sử” của Nguyễn Đổng Chi).
Cùng với hai yếu tố thiên thời và nhân hoà, yếu tố “địa lợi” cũng được tận dụng cho nên mới có chiến công Bạch Đằng giang I và II, chiến thắng Chi Lăng I và II. Nhưng yếu tố nhân hoà mới thật có tầm quan trọng quyết định. Cho nên Hồ Quí Li đoạt ngôi nhà Trần rồi, biết mình không được lòng dân, lại cũng biết trước quân Minh thế nào cũng mượn cớ phò Trần sang xâm lăng, đã chuẩn bị đối phó bằng cách tổ chức một quân đội hùng mạnh, sai đắp thành Đa Bang, sai cắm cừ khắp các cửa sông, cửa bể, nơi giặc có thể tiến vào. Trước đó họ Hồ đã cho xây Tây đô ở Thanh Hoá và cho dời đô vào đó, mong có thế đất hiểm để chống giặc.
Một viên quan nhỏ tên là Nguyễn Nhữ Thuyết thấy họ Hồ có ý cậy thế đất hiểm hơn là trông nhờ vào lòng người nên dâng sớ can, trong có câu “thị đức, bất thị hiểm”. Họ Hồ đọc đến đây, bị chạm tự ái, cho là Nhữ Thuyết chê ông ta bạc đức, nổi giận cách chức ông ta. Nguyễn Bá Thông, tác giả bài phú “Trấn Thiên Hưng” cũng đề cao chính sách dùng đức để giữ được lòng người hơn là trông cậy vào thế đất hiểm trở:
Trấn Thiên Hưng là nơi biểu lộ sức mạnh cùng tột của phương Nam. Mở cơ nghiệp của vua ta đến ngàn vạn năm, Ôi, song Nghệ hoàng không cậy vào thế đất hiểm mà trông cậy vào ân đức vậy. (nguyên văn hán, soạn giả tự dịch xuôi) (11).
Quả nhiên vì thiếu nhân hoà, Hồ Quí Li đã chiến bại và để mất nước vào tay quân Minh. Nhà Hậu Trần dấy lên được 7 năm (1407 – 1414) lúc đầu thắng lợi, tưởng đã có thể khôi phục được cơ nghiệp. Nhưng rồi vua tôi lục đục, nghi ngờ giết hại lẫn nhau, cuối cùng bị quân Minh diệt hết. Trái lại, nước đã mất, nhưng nhờ có tướng sĩ đồng lòng (như tấm gương Lê Lai cứu chúa), toàn dân ủng hộ, Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, lúc đầu thế yếu, thua trận chạy dài, thế mà kiên trì chiến đấu, ông đã thành công quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, giành lại được non sông.
Thành công rực rỡ này của người anh hùng đất Lam Sơn, với sự phò tá đắc lực của hiền thần Nguyễn Trãi, đã củng cố thêm niềm tự hào của dân tộc. Tinh thần quốc gia dân tộc đến đây không những được nâng cao thêm nữa với lòng tự hào về lòng nhân nghĩa, đối xử nhân đạo với kẻ thù đã thua trận. Tóm lại, Đại Việt là quốc gia văn hiến, xứng đáng đứng ngang hàng với bất cứ ai.
Vốn nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân chinh phạt chỉ vì diệt bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lí, Trần gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương (…)
Vừa rồi (…) quân cường Minh hết sức bạo ngược (…), nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ (…)
Ta đây: đem nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ đằng sấm vang sét dậy, miền Trà lân trúc phá tro bay (…). Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng Trời bất sát. ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kì, Phương Chính, cấp cho 500 chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực; Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi…
(Trích “Bình Ngô Đại Cáo”, phỏng theo bản dịch trích trong “Việt Nam Sử Lược”).
5. Thời kì rối ren vì nạn phân tranh. (Mạc, Lê trung hưng, Trịnh, Nguyễn, Tây sơn – 1527-1802): tinh thần dân tộc suy thoái
Đến đây, tinh thần quốc gia dân tộc với ý thức độc lập tự chủ đã lên tới đỉnh điểm. Trong giai đoạn tiếp theo đó, những người nắm chính quyền đã đặt quyền lợi của dòng họ, phe nhóm lên trên quyền lợi của đất nước nên đã để xẩy ra cảnh nồi da xáo thịt kéo dài hơn hai thế kỉ: tinh thần quốc gia dân tộc đi vào thời kì suy thoái. Lại một lần nữa cảnh huynh đệ tương tàn, tranh quyền đoạt lợi đưa đến cho kẻ ngoại thù cơ hội xâm lăng, suýt nữa nước lại mất nếu không có ngưới anh hùng Nguyễn Huệ đánh tan chúng trong trận Đống Đa (1789). Nhưng vua Quang Trung không sống lâu để củng cố chiến thắng quân sự của ông bằng những cải cách chính trị, văn hoá hầu phục hưng tinh thần quốc gia dân tộc.
Nhà Nguyễn Tây Sơn sụp đổ, chính quyền về tay họ Nguyễn phúc. Nhưng ngay mấy ông vua đầu triều đại đầu óc đã hẹp hòi, vị kỉ, trị nước bằng chính sách bảo thủ, độc đoán thất nhân tâm. Nội loạn lại bùng lên đưa dân tộc vào vòng nô lệ ngoại bang, lần này không phải là kẻ thù cũ quen thuộc từ phương Bắc gần gũi tới, mà là một đối thủ xa lạ: đế quốc thực dân Pháp từ phương trời Tây vượt trùng dương bằng những con tàu vỏ sắt với đại bác tầm xa khiến những thành luỹ cổ lỗ không còn là kiên cố nữa. Tinh thần dân tộc đi vào giai đoạn thử thách mới gay go nhất từ trước tới nay: va chạm với nền văn minh cơ khí Tây phương. Liệu tinh thần ấy có vượt qua được cơn thử thách kéo dài từng đợt từng đợt này không? Lịch sử hiện đại đang và sẽ cho câu trả lời.
Dù sao thì kinh qua lịch sử ta cũng thấy sự hình thành sớm sủa của tinh thần dân tộc đã góp phần quan trọng vào việc dựng nước và giữ nước. Nhưng quan trọng hơn là tinh thần ấy đã bảo vệ được nòi giống Việt, hiểu theo nghĩa là không để bị đồng hoá về phương diện văn hoá (hoàn toàn biến mất đặc tính văn hoá) với những kẻ đã chinh phục mình, dù sức mạnh quân sự của họ hơn mình đến đâu, dù văn hoá của họ cao hơn mình bao nhiêu đi nữa. Tinh thần dân tộc Việt cũng là cái mái che mưa đỡ nắng của ngôi nhà văn hoá Việt, ngôi nhà lúc nào cũng mở rộng cửa để đón gió bốn phương. Song thành tố văn hoá ngoại lai nào vào ngôi nhà văn hoá Việt mà muốn ở lại lâu dài thì cũng phải Việt hoá, phải trở thành cái gì đó của Việt Nam như Nho học Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, Công giáo Việt Nam v.v…
Chú thích cuối chương mở đầu
(1) Yếu tố huyết thống, ý niệm chủng tộc: buổi sơ khai con người sống quần tụ theo liên hệ huyết thống (thị tộc); sau đó đoàn thể phát triển mãi ra thì ý niệm chủng tộc hình thành. Nhưng dần dẩn các yếu tố khác xuất hiện khi nhu cầu kết hợp cần thiết để tổ chức thành đoàn thể lớn mạnh: địa lí (sống kề cận nhau), lịch sử (cùng trải qua những biến cố quan trọng như thiên tai, bị kẻ thù từ xa đến xâm lấn), kinh tế(cộng tác để sản xuất, trao đổi, lưu thông hàng hoá), văn hoá (có tiếng nói, tập tục, tín ngưỡng giống nhau). Lúc đó yếu tố chủng tộc trở nên bớt quan trọng; thí dụ nhiều sắc tộc có ngôn ngữ, tập tục, tín ngưỡng khác nhau, nhưng các điều kiện lịch sử, địa lí, kinh tế lại thuận lợi, vẫn có thể kết hợp thành một quốc gia. Tuy nhiên nếu để xẩy ra sự va chạm về quyền lợi chính trị, kinh tế hoặc tín ngưỡng (kì thị, bất bình đẳng, bất công xã hội v.v…) thì vẫn có thể dẫn đến xung đột về chủng tộc, có khi đẫm máu.
(2) Như văn hào Anh Daniel Defoe đã chứng minh trong cuốn tiểu thuyết phiêu lưu Robinson Crusoe của ông.
(3) Có thể có hình thức “thôn tính hoà bình” do hôn nhân hay do liên hệ huyết thống gần xa; thí dụ: Sơn Tinh có thể là tù trưởng một bộ lạc nhỏ, cưới được Mị Nương và qui phục bố vợ là Hùng vương là tù trưởng bộ lạc lớn để tăng cường sức tự vệ và sống yên ổn.
(4) Theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim thì khi tướng Tần là Đồ Thư đem quân vào đánh Bách Việt, Thục An Dương Vương xin thần phục nhà Tần. Tần bèn chia đất Bách Việt và Âu Lạc ra làm quận Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bách Việt). Nhưng người Bách Việt không chịu để người Tần cai trị, trốn vào rừng. Được ít lâu quân Tần không hợp thuỷ thổ, mắc bệnh. Người Bách Việt nổi lên giềt Đồ Thư. Vấn đề đặt ra là: trong thời gian này An Dương Vương vẫn tại vị và sau này xây được Loa Thành? Vậy ai lãnh đạo dân Bách Việt kháng chiến chống Tần thành công?
Phải chăng An Dương Vương thần phục nhà Tần lúc đâu chỉ là kế trá hàng để bảo toàn chủ lực (rút vào rừng) trước kẻ địch mạnh hơn, để quân Tần chủ quan khinh địch. Sau đó gặp thời cơ: quân Tần không hợp thuỷ thổ, trở nên suy yếu (đau ốm, xuống tinh thần), ông áp dụng lối đánh du kích rồi phản công đánh bại quân Tần, giết được Đồ Thư?
Về sau Triệu Đà thắng An Dương Vương và trị vì nước Nam Việt lâu dài hẳn nhờ rút được bài học kinh nghiệm thất bại trước đó của Đồ Thư (chỉ dùng bạo lực, cai trị hà khắc). Đà áp dụng chính sách tôn trọng và duy trì tầng lớp lạc hầu, lạc tướng và tập tục của các bộ lạc Việt. Đà cũng cho con cháu sống hoà hợp với dân Việt, lấy vợ Việt (Trọng Thuỷ – Mị Châu). Triệu Anh Tề lấy vợ Việt sinh ra Kiến Đức được Lữ Gia tôn lên làm vua lãnh đạo cuộc chống Hán. Chính bản thân Đà cũng tự cho mình sống lâu năm ở phương Nam, đã trở thành “Nam di đại trưởng lão phu” (lời tự xưng trong thư trả lời Hán Văn Đế). Quốc hiệu Nam Việt Đà đặt cho nước mới của mình vừa có nghĩa bao gồm quận Nam Hải và nước của người Việt (Âu Lạc cũ), vừa có nghĩa là “nước Việt ở phương Nam”.
Trong thời kì Bắc thuộc sau này, người Tàu luôn luôn có dã tâm sát nhập, đồng hoá dân Việt; chẳng ngờ đụng phải một dân tộc có tinh thần độc lập tự chủ mạnh mẽ, và nhất định bất khuất. Cuối cùng người Tàu phải công nhận một quốc gia của dân Việt hoàn toàn độc lập.
(5) Các tộc Việt khác trong nhóm Bách Việt như Đông Việt, Mân Việt, U Việt v.v… từng sống trên địa bàn rộng lớn vùng hạ lưu sông Dương Tử phía Nam Trung Hoa ngày nay, sau cuộc chinh phục của các triều Tần, Hán, họ đã bị đồng hoá. Chỉ còn Âu và Lạc Việt mà chúng ta ngày nay là hậu duệ tồn tại như một thực thể riêng biệt nhờ cuộc chiến đấu kiên trì và dũng cảm của bao thế hệ.
(6) Các vua Đinh Tiên hoàng và Lê Đại Hành đều phải nhờ sư Ngô Chân Lưu trong chính sự (tước hiệu Khuông Việt đại sư có nghĩa “vị sư lớn giúp đỡ nước Việt”). Sư Đỗ Pháp Thuận cùng với sư Chân Lưu giúp vua Đại Hành tiếp đón sứ Tàu để giữ quốc thể vì lúc ấy trong triều thiếu người có văn học. Sư Vạn Hạnh cũng từng cố vấn cho vua Đại Hành trong cuộc phá Tống.
(7) Lê Văn Thịnh đỗ thủ khoa khoa này: ông là người khoa bảng đầu tiên của nước Việt độc lập.
(8) Theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, “Việt Nam Cổ Văn Học Sử” của Nguyễn Đổng Chi và “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” của Dương Quảng Hàm. Theo sử liệu sau này của giới sử học ở Hà Nội thì Văn miếu và Quốc tử giám cùng được thành lập năm 1070 đời vua Lí Thánh Tông.
(9) Mạc Hiển Tích đỗ khôi nguyên khoa này được bổ Hàn Lâm viện học sĩ.
(10) Đinh Tiên hoàng đế lên ngôi đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Nhưng “cồ” là từ nôm cũng có nghĩa là lớn trùng với “đại” là từ hán việt. Lí Thánh Tông lên ngôi sửa lại là Đại Việt. Điều này cho thấy trình độ học vấn ─ thời ấy là hán học ─ đời Lí Thánh Tông đã cao hơn và khuynh hướng sùng Nho đã rõ. Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua các triều Trần, Hậu Lê và Nguyễn Tây Sơn (trừ nhà Hồ 7 năm đổi ra là Đại Ngu). Tên Việt Nam có từ đời vua Nguyễn Gia Long thông dụng đến ngày nay. Năm 1831, vua Minh Mạng đổi ra Đại Nam, nhưng tên này không thông dụng.
(11) Trấn Thiên Hưng, khu vực trước có tên là trấn Đà Giang, ở phía tây sông Đà và núi Tản Viên, sau Hồ Quí Li đổi tên là Trấn Thiên Hưng.